Bàn về hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật ở nước ta hiện nay

1. Đặt vấn đề Hiệu quả hoạt động nhà nước, xã hội và cá nhân đang là vấn đề được quan tâm đặc biệt hiện nay. Ở nước ta, việc nghiên cứu, đánh giá vấn đề hiệu quả các loại hình hoạt động vẫn còn là những bước đi đầu tiên, đặc biệt đối với các lĩnh vực pháp luật trong đó có phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL). PBGDPL về bản chất sẽ mang lại những lợi ích to lớn cho xã hội do vậy cần thiết phải tính đến chất lượng, hiệu quả trên cả bình diện cá nhân, tổ chức và toàn xã hội

pdf62 trang | Chia sẻ: thanhlam12 | Lượt xem: 539 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bàn về hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3BÀN VỀ HIỆU QUẢ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT Ở NƯỚC TA HIỆN NAY HOÀNG THỊ KIM QUẾ * 1. Đặt vấn đề Hiệu quả hoạt động nhà nước, xã hội và cá nhân đang là vấn đề được quan tâm đặc biệt hiện nay. Ở nước ta, việc nghiên cứu, đánh giá vấn đề hiệu quả các loại hình hoạt động vẫn còn là những bước đi đầu tiên, đặc biệt đối với các lĩnh vực pháp luật trong đó có phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL). PBGDPL về bản chất sẽ mang lại những lợi ích to lớn cho xã hội do vậy cần thiết phải tính đến chất lượng, hiệu quả trên cả bình diện cá nhân, tổ chức và toàn xã hội. Nhưng để có hiệu quả và để bàn về hiệu quả của PBGDPL cần phải đề cập những vấn đề có liên quan trực tiếp như: chất lượng, các yếu tố tác động, đảm bảo hiệu quả của loại hình hoạt động này. Nếu không đảm bảo chất lượng thì không thể có hiệu quả. Đồng thời, hiệu quả của PBGDPL không chỉ phụ thuộc vào chất lượng của PBGDPL. Hiệu quả PBGDPL là vấn đề quan trọng song cũng rất khó khăn trong việc đánh giá, bởi lẽ có khi đo lường được, có khi không hoặc khó, ví như sự gia tăng hay giảm sút niềm tin vào pháp luật. 2. PBGDPL trong tương quan với xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật Đời sống pháp luật là khái niệm rộng, bao gồm các lĩnh vực cơ bản như: xây dựng pháp luật (XDPL), thực hiện pháp luật (THPL), ý thức pháp luật và văn hóa pháp luật; các thiết chế pháp luật; giáo dục – đào tạo và nghiên cứu pháp luật; hệ thống dịch vụ và thông tin pháp luật v.v. Trên bình diện chung nhất, PBGDPL có mặt ở tất cả các lĩnh vực cơ bản nêu trên, hoặc ở dạng trực tiếp, hoặc ở dạng gián tiếp. PBGDPL là một trong những hoạt động đảm bảo chất lượng, hiệu quả của xây dựng pháp luật và hiệu quả của các hình thức thực hiện pháp luật trong thực tiễn. Xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật diễn ra đồng thời xét trên bình diện hệ thống pháp luật, vừa là tiền đề, vừa là điều kiện của nhau. Chất lượng, hiệu quả của cả ba loại hình hoạt động này: XDPL, THPL và PBGDPL có mối quan hệ mật thiết với nhau và đều hướng về một mục tiêu chung, một cơ sở xã hội chung đó là hiệu quả xã hội lấy mục tiêu phục vụ các quyền, tự do và lợi ích chính đáng của con người. Hiệu quả của PBGDPL được thể hiện tập trung ở kết quả hình thành văn hóa pháp luật trong đời sống xã hội với ba thành tố cấu thành cơ bản: tri thức - hiểu biết pháp luật; thái độ, tình cảm tôn trọng pháp luật và hành vi phù hợp pháp luật của cá nhân, tổ chức. Điều đó có nghĩa là các quy định pháp luật đã * GS-TS, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. LÝ LUẬN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT 4 TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 4/2011 đi vào cuộc sống, trở thành hành vi hợp pháp của các chủ thể pháp luật. Chính vì vậy mà PBGDPL là một trong những điều kiện đặc biệt quan trọng đảm bảo hiệu quả của thực hiện pháp luật nói chung, thi hành pháp luật của các cơ quan nhà nước nói riêng. Hiệu quả của thực thi pháp luật trong bất kỳ một lĩnh vực xã hội nào cũng được thể hiện trên hai phương diện: kết quả đạt được so với mục đích, yêu cầu ban đầu của quy định pháp luật tương ứng với những chi phí thấp nhất; hiệu quả về xã hội của thực hiện pháp luật - những lợi ích xã hội (của cá nhân, tổ chức, xã hội) đem lại do kết quả của việc thực hiện các quy định pháp luật tương ứng. Trong thực tế, không ít trường hợp, việc thực hiện các quy định pháp luật không mang lại lợi ích xã hội nào, thậm chí còn có thể gây thiệt hại cho lợi ích chính đáng của cá nhân, tổ chức và xã hội. Hiệu quả xã hội của PBGDPL về cơ bản cũng được thể hiện như vậy, tức là tương ứng với hiệu quả xã hội của chính bản thân các quy định pháp luật cần được PBGD cho các đối tượng xã hội nhất định. Nhưng thông thường, người ta thường giới hạn hiệu quả của PBGDPL ở phương diện mục đích là cung cấp kiến thức, nhận thức pháp luật, hình thành thái độ, tình cảm, niềm tin đối với pháp luật và hành vi phù hợp yêu cầu của pháp luật. 3. Quan niệm về hiệu quả PBGDPL và các tiêu chí đánh giá hiệu quả PBGDPL Quan niệm về hiệu quả, các cấp độ của hiệu quả PBGDPL cũng như bản thân hiệu quả pháp luật nói chung cũng là vấn đề cần thiết bàn luận thêm. Khái niệm pháp luật được đề cập ở đây bao gồm các văn bản pháp luật, các quyết định áp dụng pháp luật. Từ phương diện hệ thống, bản thân hoạt động PBGDPL cũng là một trong những hợp phần của hệ thống pháp luật hiểu theo nghĩa rộng của phạm trù này. Theo lý thuyết chung, hiệu quả pháp luật được hiểu là kết quả đạt được trong quá trình pháp luật tác động đến các quan hệ xã hội, ý thức xã hội để đạt được mục đích và yêu cầu của pháp luật đặt ra với những chi phí vật chất, tinh thần thấp nhất1. Để đánh giá hiệu quả của pháp luật cần phải xem xét, tìm hiểu các mục đích, yêu cầu của pháp luật nói chung và của các văn bản pháp luật, các quy phạm pháp luật, các quyết định áp dụng pháp luật nói riêng. Xét trên bình diện xã hội, cần tìm hiểu mức độ phù hợp của các mục đích, yêu cầu, định hướng được ghi nhận trong pháp luật với các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, tư tưởng, tâm lý, tình cảm và những yếu tố khác của xã hội hiện tại mà trong đó pháp luật tác động. Tiếp đến là xem xét đối tượng điều chỉnh của pháp luật (trạng thái các quan hệ xã hội) trước khi pháp luật điều chỉnh và những thay đổi thực tế của chúng sau khi pháp luật điều chỉnh. Đồng thời cũng cần xem xét các kết quả đạt được do sự tác động, điều chỉnh của pháp luật xét từ phương diện lợi ích xã hội. Hiệu quả PBGPL cần được nhận thức, đánh giá trên cả hai phương diện sau đây: 1. Phương diện kết quả đạt được so với yêu cầu, mục đích của văn bản pháp luật, các quy định pháp luật tương ứng; 2. Phương diện hiệu quả xã hội đạt được từ kết quả thực hiện các quy định pháp luật. Nếu theo quan điểm này, có thể đề xuất một quan niệm về hiệu quả của PBGDPL xét trên cả hai phương diện nêu trên như sau: hiệu quả của phổ biến, giáo dục pháp luật là kết quả đạt được theo đúng yêu cầu, mục đích của các quy định pháp luật tương ứng và các lợi ích xã hội được đem lại với chi phí về vật chất, tinh thần thấp nhất. Thông thường, khi nói đến hiệu quả 1 Xem: Nguyễn Minh Đoan, Hiệu quả pháp luật: Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 1997, tr. 12 - 24. 5PBGDPL, chúng ta chủ yếu quan tâm đến phương diện thứ nhất. Còn phương diện thứ hai thì thường được coi là hiệu quả xã hội của pháp luật nói chung. Tuy vậy, trong xã hội hiện đại, vấn đề hiệu quả xã hội luôn luôn được đặt ra cho mọi hoạt động của con người, hoạt động PBGDPL cũng không là ngoại lệ. Quan tâm đến hiệu quả, chất lượng của PBGDPL là trách nhiệm của cả nhà nước và xã hội, cả phía người đầu tư và người thụ hưởng, ranh giới giữa hai loại chủ thể này chỉ mang tính tương đối. So với các lĩnh vực đầu tư khác, sự đầu tư trong hoạt động PBGDPL có nhiều đặc điểm riêng. Theo đó, nếu phải đầu tư thêm tiền bạc, công sức, thời gian cho việc thực hiện PBGDPL song đổi lại, có nhiều lợi ích xã hội đạt được do sự gia tăng các hành vi hợp pháp và sự giảm thiểu các hành vi vi phạm pháp luật thì vẫn là sự lựa chọn đúng đắn, nhất là các lợi ích xã hội xét từ phương diện quyền con người liên quan đến sức khỏe, tính mạng và tài sản trong một số lĩnh vực rất bức xúc hiện nay, như: giao thông, vệ sinh, an toàn thực phẩm... Đầu tư trí tuệ, công sức, tiền bạc thỏa đáng cho việc tìm kiếm các biện pháp hữu hiệu để cải thiện thực trạng về trật tự, an toàn giao thông trong đó có việc đổi mới mạnh mẽ việc phổ biến, giáo dục pháp luật cần phải được nhận thức, thực thi một cách quyết liệt hơn. Những năm gần đây, công tác PBGDPL đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Người dân hiện nay đã bắt đầu quan tâm nhiều hơn về sự cần thiết phải “kiểm soát”, đánh giá đối với công tác PBGDPL, đối với vấn đề “hậu” PBGDPL sẽ như thế nào hay chỉ là sự “triển khai” theo chương trình, kế hoạch đã được thiết kế sẵn. Nói đến hiệu quả là nói đến đòi hỏi nghiêm ngặt của xã hội đối với việc đánh giá định lượng, định tính theo bộ công cụ kiểm định chất lượng và các tiêu chí, tiêu chuẩn về hiệu quả của PBGDPL đem lại. Về hiệu quả PBGDPL xét trên phương diện thực hiện đúng các yêu cầu, mục đích của các quy định pháp luật tương ứng: Hiệu quả PBGDPL cần được đánh giá trên từng mục đích cơ bản của PBGDPL: mục đích nhận thức, mục đích thái độ, tình cảm, niềm tin pháp luật và mục đích hành vi phù hợp pháp luật. Đây chính là “bộ ba mục đích“ của PBGDPL. Như vậy mới thật sự khách quan, toàn diện và công bằng đối với hoạt động PBGDPL. Theo đó, có các tiêu chí sau: Tiêu chí 1: đạt được mục đích nhận thức pháp luật; Tiêu chí 2: đạt được mục đích thái độ, tình cảm, niềm tin pháp luật; Tiêu chí 3: đạt được mục đích hành vi phù hợp pháp luật. Nếu như việc PBGDPL đã cung cấp cho các đối tượng PBGDPL những nhận thức - hiểu biết cơ bản về pháp luật thì hiệu quả về mục đích nhận thức coi như đã đạt được. Như vậy, tiêu chí hiệu quả ở công đoạn này có thể gọi đó là sự nhận thức, lĩnh hội, hiểu biết pháp luật (các quy định pháp luật được phổ biến, giáo dục pháp luật). Tiêu chí tiếp theo, đó là hiệu quả của mức độ hình thành thái độ, tình cảm, niềm tin pháp luật. Tiêu chí về kết quả thực hiện trên thực tế: tiêu chí về hành vi thực hiện pháp luật được thể hiện trong các hành vi hợp pháp, trong mức độ gia tăng các hành vi hợp pháp và giảm các hành vi vi phạm pháp luật. Thực hiện pháp luật dưới tác động của PBGDPL có chất lượng còn được thể hiện ở chỉ báo giảm thiểu các hiện tượng hư vô pháp luật như sự thờ ơ, sự coi thường; sự “lạng lách” pháp luật vv...2 2 Xem: Hoàng Thị Kim Quế, Hư vô pháp luật: nhìn từ phương diện lý luận pháp luật và xã hội học pháp luật, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 9/2008, tr. 13 - 18. LÝ LUẬN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT 6 TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 4/2011 Mỗi một loại tiêu chí đều phải có những chỉ báo nhất định tương ứng, được chia làm các mức độ (trình độ) khác nhau.Ví dụ, về tiêu chí 1: đạt được mục đích nhận thức, sẽ bao gồm nhiều mức độ đạt được, theo đó, có các mức độ: 1, 2, 3, hoặc: trung bình, khá, tốt. Điều này là lẽ đương nhiên bởi vì sự nhận thức, lĩnh hội, hiểu biết nội dung được PBGDPL không thể hoàn toàn như nhau ở các đối tượng khác nhau. Như chúng đã biết, hành vi phù hợp pháp luật của các chủ thể pháp luật không hoàn toàn phụ thuộc vào PBGDPL kể cả PBGDPL đạt chất lượng cao. Hai nữa là cũng cần tính đến từng công đoạn, từng mục đích cụ thể trong “bộ ba” mục đích của PBGDPL mà chúng ta quan niệm lâu nay. Con đường từ kiến thức – hiểu biết pháp luật đến thái độ, tình cảm và niềm tin pháp luật rồi đến hành vi phù hợp pháp luật – những cái mà chúng ta gọi là mục đích của PBGDPL, không giản đơn chỉ phụ thuộc vào chất lượng của PBGDPL. Ngay cả công thức chung về hiệu quả pháp luật vận dụng vào trường hợp PBGDPL mà lâu nay chúng ta quan niệm: tương quan giữa kết quả đạt được so với mục đích ban đầu đề ra với các chi phí thấp nhất, cũng chỉ đúng ở mức độ tương đối. Mà chính xác hơn thì phải nhận thấy rằng, ở đây mới chủ yếu dừng lại ở phương diện chủ quan của nhà làm luật và chủ yếu mới chỉ là hiệu quả của chính bản thân PBGDPL: quy định pháp luật được thực thi, trở thành những hành vi thực tế của các nhân, tổ chức. Một cách cụ thể hơn, hiệu qủa PBGDPL được đánh giá thông qua các tiêu chí cơ bản sau đây: Tiêu chí thứ nhất: về trạng thái tri thức ban đầu của đối tượng PBGDPL khi chưa được phổ biến, giáo dục pháp luật. Tiêu chí thứ hai: về trạng thái thái độ, tình cảm pháp luật ở đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật trước khi được phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm xây dựng, củng cố niềm tin vào pháp luật. Điều này thể hiện tình cảm pháp luật công bằng, sự không khoan nhượng đối với mọi hành vi vi pháp luật và tình cảm trách nhiệm là một trong những chỉ số để đánh giá hiệu quả của hoạt động PBGDPL. Tiêu chí thứ ba: về trạng thái của động cơ và hành vi tích cực pháp luật ở đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật. Hiệu quả của hoạt động PBGDPL được đánh giá thông qua việc thực hiện các hành vi tích cực pháp luật ở đối tượng được PBGDPL. Các đối tượng được PBGDPL sẽ hình thành thói quen kiềm chế không thực hiện những hành vi mà pháp luật cấm; thực hiện nghĩa vụ pháp lý và tích cực sử dụng các quyền của mình một cách có văn hóa, đạo đức. Đây là mục đích quan trọng nhất mà hoạt động PBGDPL cần đạt được. Ngoài ra, tiêu chí về mức độ chi phí để đạt được kết quả thực tế cũng là cơ sở để đánh giá hiệu quả của hoạt động PBGDPL. Tiêu chí này thể hiện tính kinh tế, tính văn hóa, tính hữu ích của hoạt động PBGDPL. Giữa tri thức và tình cảm pháp luật có mối liên hệ mật thiết. Sự am hiểu pháp luật đóng vai trò quan trọng cho việc đảm bảo sự hình thành và phát triển ý thức pháp luật, tư duy pháp lý, hình thành hành vi tích cực pháp luật ở mỗi con người. Điều cần lưu ý là am hiểu tri thức pháp luật không phải là sự am hiểu đơn thuần một vài quy phạm pháp luật nào đó mà là sự am hiểu có hệ thống thấu đáo về nội dung, ý nghĩa của pháp luật, biết đánh giá với niềm tin nội tâm các sự kiện, các hành vi pháp lý là hợp pháp hay không hợp pháp, hợp lý hay không hợp lý. Hiểu biết tinh thần pháp luật trên cở sở đạo đức và văn hóa. Hành vi hợp pháp, phù hợp với yêu cầu của pháp luật cũng đa dạng: không vi phạm 7LÝ LUẬN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT những điều bị cấm, chấp hành các nghĩa vụ pháp lý, sử dụng các quy định pháp luật đúng đắn để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình; đấu tranh chống vi phạm pháp luật v.v. Giáo dục pháp luật là cần thiết khách quan như chính bản thân pháp luật vậy. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin đã chỉ ra rằng: “Con người vốn là sản phẩm của hoàn cảnh và giáo dục. Và do đó con người thay đổi vốn là sản phẩm của hoàn cảnh và giáo dục đã thay đổi”3. Luật pháp muốn có hiệu lực, hiệu quả thì ngoài sức mạnh của công quyền, bằng cưỡng chế còn cần huy động cả sức mạnh của tư tưởng và của tinh thần, pháp luật phải được con người nhận thức như là cái cần thiết và có cơ sở, phải tạo niềm tin và sự kính trọng đối với pháp luật4. Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ: “Hiền, dữ đâu phải là tính sẵn. Phần nhiều do giáo dục mà nên”5. Về hiệu quả xã hội của PBGDPL: Vấn đề đặt ra ở đây là: liệu có phải bất kỳ khi nào, bất kỳ ở đâu, “thực hiện đúng” yêu cầu của các quy định pháp luật cũng đều đạt được hiệu quả xã hội, nếu xét trên phương diện tính hợp lý, tính lợi ích, tính công bằng? Ví dụ, đối với những quy định pháp luật bất cập, không phù hợp, không đảm bảo lợi ích hay sự hài hòa các loại lợi ích? Hiệu quả xã hội của PBGDPL về cơ bản phụ thuộc vào hiệu quả xã hội của chính bản thân các quy định pháp luật cần được PBGD cho các đối tượng xã hội nhất định. Đó chính là các lợi ích xã hội đạt được do thực hiện các quy định pháp luật của các đối tượng được PBGDPL. Hiệu quả xã hội của PBGDPL phụ thuộc rất nhiều 3 C.Mác, Ph.Ăngghen, Toàn tập, T.3, Nxb Chính trị quốc gia, 1995, tr. 10. 4 Đavưđốp, Dưới lăng kính triết học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, bản dịch tiếng Việt, tr. 185- 186. 5 Hồ Chí Minh, Toàn tập, T.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr 383. vào chất lượng của các quy định pháp luật mà cụ thể là tính hợp lý, công bằng, sự thể hiện các loại lợi ích của cá nhân, cộng đồng, xã hội. Hiệu quả xã hội của PBGDPL còn được thể hiện trên một phạm vi rộng hơn, lan tỏa ra cả những người xung quanh chứ không chỉ đối với những người được trực tiếp PBGDPL. Đây cũng chính là giá trị to lớn của PBGDPL. Pháp luật chỉ có hiệu lực thực sự khi được mọi người dân tiếp nhận và thi hành một cách tự giác. 4. Một số vấn đề về chất lượng, hiệu quả PBGDPL và nâng cao hiệu quả PBGDPL trong một số lĩnh vực hoạt động xã hội hiện nay Thời gian gần đây dư luận xã hội đặc biệt quan tâm vấn đề nâng cao hiệu quả PBGDPL, giáo dục đạo đức trong lĩnh vực đảm bảo trật tự, an toàn giao thông, vệ sinh, an toàn thực phẩm. Đây là những vấn đề vô cùng khó khăn, phức tạp đang đòi hỏi những nỗ lực to lớn của toàn xã hội. Chúng tôi có một số đề xuất sau: - Cần xây dựng Bộ công cụ Kiểm định chất lượng PBGDPL. - Để có hiệu quả, cần đổi mới mạnh mẽ công tác PBGDPL. - Ưu tiên đầu tư PBGDPL có hiệu quả vào những lĩnh vực bức xúc nhất hiện nay, trước hết là lĩnh vực trật tự, an toàn giao thông. Cũng như trong lĩnh vực đào tạo, giáo dục hiện nay, vấn đề chất lượng, hiệu quả đang bắt đầu được quan tâm đặc biệt và được nhìn nhận, đánh giá, đo lường theo những bộ công cụ Kiểm định chất lượng. Cần phải Kiểm định chất lượng PBGDPL, xây dựng các Bộ công cụ Kiểm định chất lượng PBGDPL, xây dựng các trung tâm đảm bảo chất lượng PBGDPL. Chính yếu tố chất lượng, hệ thống đảm bảo chất lượng là điều kiện đặc biệt quan trọng để nâng cao hiệu quả PBGDPL (tất nhiên, hiệu quả PBGDPL còn phụ thuộc vào hàng loạt 8 TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 4/2011 yếu tố khách quan và chủ quan khác). Nếu không, các đánh giá của chúng ta rồi vẫn sẽ rơi vào chung chung, thiên về định tính và khó kiểm soát, khó tường minh. Vì vậy, cần xây dựng hệ tiêu chí, tiêu chuẩn về đánh giá hiệu quả PBGDPL nói chung và cho từng loại đối tượng trong các lĩnh vực hoạt động xã hội tương ứng. Để nâng cao hiệu quả PBGDPL, phải đổi mới mạnh mẽ bản thân công tác này so với cách làm lâu nay, đổi mới về hình thức, nội dung, phương pháp, phong cách PBGDPL. Cần phải kết hợp “ba trong một” mới có thể đạt hiệu quả cao về PBGDPL: kết hợp giáo dục pháp luật với giáo dục đạo đức và kỹ năng sống, kỹ năng sử dụng pháp luật cho các đối tượng xã hội nói chung, những người tham gia giao thông nói riêng. Kết hợp các biện pháp đồng bộ theo hướng vừa xử lý, “chữa trị” các triệu chứng của hành vi vi phạm pháp luật, vừa khắc phục các nguyên nhân của chúng. Đơn cử, nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật giao thông, kèm theo những hậu quả thiệt hại là do lỗi của người tham gia giao thông: ý thức pháp luật yếu kém, không hiểu biết những quy định pháp luật liên quan. Thế nhưng, liều thuốc nào, cách thức nào để chữa trị căn bệnh “thiếu, kém ý thức pháp luật, ý thức đạo đức và văn hóa trong tham gia giao thông”, hiện vẫn đang là bài toán nan giải của chúng ta. Theo thống kê của Ủy ban An toàn giao thông quốc gia thì có đến trên 80 % các vụ vi phạm gây tai nạn đều do người tham gia giao thông ở độ tuổi từ 18 đến 35; 90% sinh viên có giấy phép lái xe không đúng kỹ thuật...6. Do đó, cần phân hóa đối tượng và ưu tiên đầu tư nhiều hơn về PBGDPL, giáo dục đạo đức và kỹ năng sống, kỹ năng tham gia giao thông cho thanh, thiếu niên, cho nam giới. 6h t t p : / / a n t g . c a n d . c o m . v n / v i - v n / p h o n g - su/2008/12/70894.cand Hiệu quả PBGDPL đối với họ sẽ được nâng cao rất nhiều nếu áp dụng các biện pháp thiết thực, như: giáo dục tính cách, kỹ năng ứng xử trong tham gia giao thông, bổn phận, trách nhiệm đạo đức, pháp luật và văn hóa. Giáo dục để xây dựng, thực hành ở họ sự từ tốn, thận trọng, nhường nhịn, trách nhiệm với chính mình, với những người thân và những người xung quanh mỗi khi tham gia giao thông. Điều này, xem ra liên quan trực tiếp với “mục đích” thứ hai của PBGDPL – xây dựng thái độ tôn trọng pháp luật, tình cảm đúng đắn và niềm tin vào pháp luật giao thông bởi đó là lợi ích, là nét đẹp của văn hóa giao thông. Nếu xét từ góc độ quyền về sức khỏe, tính mạng, quyền sống của con người thì hoàn toàn có thể nói rằng, đảm bảo an toàn, trật tự giao thông còn nóng bỏng hơn, bức xúc hơn so với tham nhũng. Hiệu quả PBGDPL trong lĩnh vực này thực sự là vấn đề đặc biệt cấp bác