Câu hỏi ôn tập triết học Marx – Lenin

Những năm 30 của thế kỉ 19, Chủ nghĩa tư bản bắt đầu đi vào giai đoạn phát triển mới: phương thức sản xuất tư bản đã phát triển manh mún và trở thành lực lượng kinh tế thống trị ở Anh – Pháp và một phần ở Đức. Nó thể hiện tính vượt trội hơn hẳn so với nền sản xuất phong kiến. Chủ nghĩa tư bản đã đơn giản hóa mối quan hệ xã hội, tạo ra không gian thông thoáng cho cá nhân, khai thông cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, lý luận, đòi hỏi cách mạng hóa khoa học kĩ thuật.

doc59 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1648 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Câu hỏi ôn tập triết học Marx – Lenin, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CÂU HỎI ÔN TẬP TRIẾT HỌC MARX – LENIN Câu 1: Trình bày các tiền đề, giai đoạn phát triển của triết học Marx – Lenin? Thứ nhất: Các tiền đề ra đời triết học Marx – Lenin: Tiền đề kinh tế - chính trị - xã hội: Những năm 30 của thế kỉ 19, Chủ nghĩa tư bản bắt đầu đi vào giai đoạn phát triển mới: phương thức sản xuất tư bản đã phát triển manh mún và trở thành lực lượng kinh tế thống trị ở Anh – Pháp và một phần ở Đức. Nó thể hiện tính vượt trội hơn hẳn so với nền sản xuất phong kiến. Chủ nghĩa tư bản đã đơn giản hóa mối quan hệ xã hội, tạo ra không gian thông thoáng cho cá nhân, khai thông cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, lý luận, đòi hỏi cách mạng hóa khoa học kĩ thuật. Nó đã thay đổi hình thái kinh tế xã hội phong kiến bằng hình thái kinh tế xã hội Tư bản – là một tất yếu khách quan và nó thể hiện sự vận động đi lên của xã hội. Giai cấp Tư sản đã đóng vai trò hết sức quan trọng trong lịch sử Quan hệ sản xuất thúc đẩy các quan hệ xã hội khác. Quan hệ sản xuất Tư bản với tinh thần cạnh tranh, sản xuất mới có tính trọng tâm, phá vỡ tình trạng cát cứ, bế quan tỏa cảng, tích tụ sản xuất, khắc phục tình trạng sản xuất nhỏ, manh mún. Cách mạng Tư sản thực chất là thay thế phương thức sản xuất cũ bằng phương thức sản xuất tư bản. Sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã làm bộc lộ những tư tưởng đối lập bên trong vốn có của nó và biểu hiện về mặt xã hội là cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống các nhà tư bản. Nhiều cuộc khởi nghĩa của công nhân đã mang tính chất của khởi nghĩa vũ trang à Từ đó đặt ra nhu cầu khách quan là phải có một vũ khí lý luận sắc bén, phản ánh được một cách khoa học quá trình vận động cách mạng của giai cấp công nhân – đó là sự chuẩn bị về tư tưởng, lý luận cho cuộc cách mạng về chính trị à Các phong trào mang tính tự phát, thiếu tổ chức. Do đó, đòi hỏi cấp thiết phải có một vũ khí lý luận khoa học, các học thuyết Xã hội chủ nghĩa không tưởng ra đời. à Sự đối lập của phương thức sản xuất Tư bản chủ nghĩa ngày càng gay gắt dẫn đến phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân càng lúc càng gay gắt. Vì vậy, vai trò lịch sử của giai cấp tư sản về cơ bản kết thúc, một số hình thái tư sản trước đây có những giá trị khoa học nhất định giờ không còn tính khách quan khoa học nữa. Triết học Marx ra đời đã phản ánh đúng lịch sử khách quan phát triển đấu tranh Cách mạng của giai cấp công nhân toàn thế giới như nguyện vọng và lợi ích chân chính của nó. Với sự ra đời của triết học Marx, giai cấp công nhân đã tìm thấy ở đó sức mạnh và vũ khí tinh thần của mình. Tiền đề lý luận: Tiền đề sâu xa: Đó là sự kế thừa có chọn lọc tinh hoa, tinh thần của nhân loại được tích lũy trong suốt hơn 2.000 năm. Di sản Karl Marx và Engels kế thừa là phong cách tư duy phương tây không chấp nhận sự khẳng định một chiều mà tìm kiếm chân lý mới, tranh luận tạo nên thời đại lịch sử kế tiếp nhau mang phong cách tư duy hai chiều, mặc dù mỗi thời đại sau đều có sự kế thừa thời đại trước. Tiền đề trực tiếp và cụ thể: là triết học cổ điển Đức mà cụ thể là phương pháp biện chứng của Hegel và chủ nghĩa duy vật của Feuerbach. Các tiền đề khác: Truyền thống văn hóa và khai sáng triết học Marx đã tiếp thu và phát triển lên tầm cao mới, những giá trị nhân văn của các thời đại đã qua được phát triển lên tầm cao mới hoàn thiện hơn Tiền đề khoa học tự nhiên: Thế kỉ 18 – 19, khoa học tự nhiên phát triển như vũ bão với hàng loạt phát minh mang ý nghĩa vượt thời đại, đưa đến sự biến đổi trong phong cách tư duy của con người. Nổi bật là 3 phát minh lớn: Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng Thuyết tế bào Thuyết tiến hóa Thứ hai: Thời kì phát triển của triết học Marx Giai đoạn 1837 – 1844: Quá trình chuyển biến tư tưởng của Marx và Engels về mặt thế giới quan, từ Chủ nghĩa Duy tâm sang Chủ nghĩa Duy vật biện chứng, về mặt nhân sinh quan từ Chủ nghĩa Dân chủ sang Chủ nghĩa Cộng sản, tất cả thể hiện qua hàng loạt tác phẩm. Giai đoạn 1844 – 1848: Là thời kì luận điểm nền tảng đầu tiên của Chủ nghĩa Duy vật biện chứng và Chủ nghĩa Duy vật lịch sử, xác định được diện mạo của Chủ nghĩa Marx nói chung và triết học Marx nói riêng. Giai đoạn 1848 – 1871: Thời kì 1848 – 1852: Sự phát triển của quan niệm duy vật về lịch sử trong quá trình cách mạng Dân chủ Tư sản - Marx và Engels đánh giá nội dung và thực chất các cuộc cách mạng Dân chủ tư sản, vai trò của giai cấp nông dân trong các cuộc cách mạng đó, rút ra những bài học quý giá về liên minh các lực lượng trong xã hội vì những mục tiêu chung, phác thảo những vấn đề tổ chức xã hội tương lai. Thời kì 1950 – 1960: Sự phát triển triết học Marx trong quá trình xây dựng Kinh tế - Chính trị học, đáng chú ý nhất là bộ Tư bản, nó không chỉ là một tác phẩm Kinh tế - Chính trị mà là một hệ thống triết học thật sự, là sự giải thích các vấn đề kinh tế bằng phương pháp triết học. Câu 2: Triết học là gì? Vấn đề cơ bản của triết học, phương pháp nhận thức thế giới của triết học? Triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại và nhận thức, thái độ của con người đối với thế giới, là khoa học về những quy luật chung nhất của sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội và TD (?) 1. Khái niệm triết học: - Triết học là hệ thống lý luận chung nhất của con người về thế giới và vai trò của con người trong thế giới ấy Tri thức triết học mang tính: hệ thống – lý luận – khái quát Triết học đã ra đời trong thời kì chiếm hữu nô lệ (ở phương tây), và trong thời kì từ chiếm hữu nô lệ sang phong kiến (ở phương đông) gắn liền với phân công lao động xã hội, tách lao động trí óc ra khỏi lao động chân tay. + Ở giai đoạn đầu, khi triết học mới ra đời, triết học nghiên cứu mọi thứ tri thức, triết học là tri thức bao gồm mọi tri thức. Đây là giai đoạn mà triết học là khoa học của mọi khoa học. Do điều kiện sống, triết học phương đông gọi là triết học hướng nội (đề cập đến con người, xã hội loài người), triết học phương tây là triết học hướng ngoại (chủ yếu nói về vũ trụ). + Thời kì trung cổ, giáo hội giữ vai trò nhiếp chính, quyền lực của nhà nước lúc này không bằng giáo hội, khoa học lúc này phục vụ cho thần học, khoa học nghiên cứu kinh thánh để chứng minh sự đúng đắn của kinh thánh (ở phương tây), còn ở phương đông triết học vẫn phát triển như thời kì cổ đại. + Thời kì phục hưng (Thời kì khai sáng) – thời kì khôi phục những gì hưng thịnh bị vùi dập đem lại ánh sáng trí tuệ. Khoảng thế kỉ 15, giai cấp tư sản giành được chính quyền nên rất muốn đẩy mạnh quá trình sản xuất ra của cải vật chất, nhận thấy cần phải phát triển về khoa học à tạo điều kiện cần thiết để khoa học phát triển, đánh dấu một thời kì mới về đối tượng nghiên cứu của triết học, lấy tự nhiên – con người – xã hội loài người làm đối tượng nghiên cứu. Vào khoảng thế kỉ 17, lượng kiến thức của con người đã tương đối nhiều. Sự phát triển của sản xuất lúc này đòi hỏi con người phải hiểu thật sâu từng lĩnh vực của thế giới, phân công lao động đi vào chi tiết, tỉ mỉ, thể hiện sản xuất đã phát triển, đòi hỏi kiến thức sâu của con người, các nhà khoa học phải chọn từng lĩnh vực để nghiên cứu. Mỗi một lĩnh vực các nhà khoa học nghiên cứu hình thành nên một khoa học cụ thể, lúc này các khoa học tách khỏi triết học để trở thành một khoa học độc lập. 2. Vấn đề cơ bản của triết học: Ngành khoa học nào cũng nghiên cứu rất nhiều vấn đề, tất cả các vấn đề đó gọi là hệ thống các vấn đề (hệ vấn đề). Trong hệ thống vấn đề thì vị trí và vai trò của các vấn đề không giống nhau. Trong các vấn đề sẽ có những vấn đề bổ trợ, có những vấn đề giữ vai trò nền tảng, định hướng để ngành khoa học ấy giải quyết những vấn đề còn lại – Đó là vấn đề cơ bản. Vậy, vấn đề cơ bản của triết học là gì? Đó là vấn đề cơ bản, nền tảng, đóng vai trò định hướng để dựa vào đó giải quyết những vấn đề còn lại. Đi vào cụ thể thì vấn đề cơ bản của triết học là mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Mối quan hệ này còn thể hiện mối quan hệ giũa tồn tại và tư duy, giữa thế giới và con người. Vì sao mối quan hệ giữa vật chất và ý thức lại là vấn đề cơ bản của triết học? Bởi vì: 1. Không có một trường phái triết học nào không bàn đến mối quan hệ và vấn đề đó trong suốt lịch sử triết học. Mối quan hệ này xuyên suốt lịch sử triết học, không có trào lưu triết học nào lại không giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Khi giải quyết vấn đề này ta sẽ biết đâu là triết học duy học duy vật và đâu là triết học duy tâm. 2. Bởi khi giải quyết được vấn đề này thì các vấn đề khác sẽ được giải quyết. 3. Trong phép biện chứng thừa nhận biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan. Biện chứng chủ quan thể hiện dưới dạng lý luận nhận thức, phép biện chứng và logic biện chứng. Đổi mới tư duy thực chất là trở về với tư duy biện chứng. Lý luận nhận thức có khách thể và chủ thể. Triết học xã hội có tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt: - Mặt thứ nhất: Xác định ngôi thứ giữa vật chất và ý thức, xác định cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào. Có 3 cách xác định: + Cách 1: Vật chất có trước – ý thức có sau à vật chất quyết định ý thức, thừa nhận tính thứ nhất của vật chất, tính thứ 2 của ý thức. + Cách 2: Ý thức có trước - vật chất có sau à ý thức quyết định vật chất, thừa nhận tính thứ nhất của ý thức, tính thứ 2 của vật chất + Cách 3: Vật chất và ý thức không tồn tại độc lập, chúng không nằm trong quan hệ sản sinh, cũng không nằm trong quan hệ quyết định lẫn nhau. Trong 3 cách giải quyết trên thì: * Cách 1 và 2, tuy đối lập về nội dung nhưng giống nhau ở chỗ chúng đều thừa nhận tính thứ nhất của một nguyên thể vật chất hoặc ý thức, những cách giải quyết này thuộc về triết học nhất nguyên. Trong triết học nhất nguyên, những người khẳng định tính thứ nhất của vật chất thuộc trường phái nhất nguyên duy vật, còn gọi là chủ nghĩa duy vật. Những người khẳng định tính thứ nhất của ý thức thuộc trường phái triết học nhất nguyên duy tâm, còn gọi là chủ nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa duy vật gồm: Chủ nghĩa duy vật chất phác Chủ nghĩa duy vật siêu hình Chủ nghĩa duy vật biện chứng Chủ nghĩa duy tâm gồm: Chủ nghĩa duy tâm chủ quan Chủ nghĩa duy tâm khách quan * Cách 3 thuộc về triết học nhị nguyên. Triết học nhị nguyên có khuynh hướng điều hòa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, nhưng về bản chất – triết học nhị nguyên nghiêng về chủ nghĩa duy tâm - Mặt thứ hai: Đề cập đến thuộc khả năng nhận thức của con người; Con người có khả năng nhận thức những điều mình chưa biết không? * Phái khả tri cho rằng con người có khả năng nhận thức những gì mình chưa biết, phái này khẳng định con người có thể hiểu được đối tượng từ rộng đến sâu, từ ít đến nhiều. Lý luận của phái này gọi là khả tri luận. * Phái bất khả tri cho rằng con người không có khả năng nhận thức những gì mình chưa biết. Phái này cho rằng con người cứ phải theo đuổi các sinh vật bởi nó luôn thay đổi nên con người không thể hiểu được đối tượng hoặc ít ra là nhận thức được bản chất của nó. 3. Phương pháp nhận thức thế giới của triết học: Phương pháp là hệ thống những nguyên tắc, những yêu câu mà bắt buộc con người phải thực hiện trong khi con người vươn đến mục đích của mình Có 2 phương pháp: Phương pháp siêu hình Phương pháp biện chứng Phương pháp siêu hình: Nhận thức đối tượng ở trạng thái cô lập, tách rời khỏi cái khác biệt và giữa những mặt đối lập nhau có một ranh giới tuyệt đối. Nhận thức đối tượng ở trạng thái bất biến, nếu có sự biến đổi thì chỉ là sự biến đổi về số lượng và nguyên nhân của sự biến đổi đó nằm ngoài đối tượng. Phương pháp biện chứng: nhận thức đối tượng trong mối liên hệ có sự tác động qua lại, ảnh hưởng, ràng buộc nhau, được nhận thức trong trạng thái động, nằm trong xu thế thay đổi, vận động và phát triển. Kết luận: Triết học dựa trên các thành tựu khoa học cụ thể, rút ra những kết luận chung nhất, và những kết luận chung ấy đóng vai trò định hướng của các khoa học cụ thể. Câu 3: Phân tích nội dung và ý nghĩa định nghĩa vật chất của Lenin? Định nghĩa: Các quan niệm của các nhà duy vật trước Marx: Quan niệm thời cổ đại: Xuất hiện những quan niệm mang tính trực quan cảm tính để giải thích thế giới theo lập trường duy vật. Theo họ, thế giới tồn tại khách quan được cấu thành từ vật chất, vật chất là bản nguyên của thế giới. Tuy nhiên, những quan niệm này mang tính trực quan, cảm tính, họ đồng nhất vật chất với vật chất cụ thể. Những quan điểm này còn thô sơ, nhưng nó có ưu điểm là vật chất được xem là cơ sở đầu tiên của mọi sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan. Quan niệm đó hoàn toàn đối lập với quan niệm của Chủ nghĩa duy tâm về cơ sở đầu tiên của thế giới là tinh thần. Quan niệm về vật chất của triết học duy vật thời kì khai sáng (TK 17 - 18): Quan niệm về vật chất thời kì này mang tính siêu hình máy móc. Ngoài việc khẳng định chủ nghĩa duy vật thời cổ đại, các nhà triết học thời kì này còn đồng nhất vật chất với một thuộc tính nào đó của vật chất - như đồng nhất vật chất với khối lượng, năng lượng Quan niệm về vật chất của Triết học duy vật thời cận đại (cuối TK 19 đầu 20): Đến cuối TK 19 đầu 20, vật lý đã có những phát minh rất quan trọng, chính nó đã góp phần làm sụp đổ chủ nghĩa duy vật cũ. Việc phát hiện ra tia X, phát hiện ra hiện tượng phóng xạ, phát hiện ra điện tử, hiện tượng khối lượng điện tử tăng khi vận tốc của nó tăng. Những phát hiện đó đối lập nhau với quan niệm vật chất về nguyên tử hay là về khối lượng. Chủ nghĩa duy tâm lợi dụng tình hình đó để giải thích cho quan điểm của mình về thế giới, chống lại chủ nghĩa duy tâm. Vì vậy, thời kì này đã diễn ra một cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong các nhà triết học và khoa học có quan điểm duy vật siêu hình về vật chất. Trước sự khủng hoảng đó của triết học, Lenin đã viết tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, ông đã bác bỏ những quan niệm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm và cho rằng không phải “vật chất tiêu tan” mà chỉ có giới hạn hiểu biết của con người về vật chất là tiêu tan, nghĩa là cái mất đi không phải là vật chất mà là giới hạn của sự nhận thức về vật chất. Bằng sự kế thừa khoa học tự nhiên, những quan điểm có chọn lọc của chủ nghĩa duy vật trước Marx, Lenin đã đưa ra một định nghĩa toàn diện và khoa học về phạm trù vật chất. Định nghĩa của Lenin về vật chất: Định nghĩa: Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác. Phân tích: Vật chất là một phạm trù triết học: Phạm trù là những khái niệm cơ bản, không thể thiếu được trong một ngành khoa học nào đó, phản ánh những đặc trưng chung nhất của một nhóm đối tượng. Phạm trù triết học là một phạm trù rộng và khái quát nhất không thể hiểu theo nghĩa hẹp như các khái niệm vật chất thường dùng trong các lĩnh vực khoa học cụ thể hoặc đời sống hàng ngày. Vật chất có thể định nghĩa được bằng cách đặt nó trong quan hệ độc lập với ý thức xem cái nào có trước, cái nào quyết định cái nào. Với tư cách là một phạm trù triết học, vật chất phải thể hiện thế giới quan và hướng đến giải quyết vấn đề cơ bản của triết học. Vật chất dùng để chỉ thực tại khách quan: Thực tại khách quan là những gì tồn tại ngoài ý thức, không phụ thuộc vào ý thức, ý thức không thể làm thay đổi hay quyết định bất kì cái gì của nó. Đó là tiêu chuẩn để phân biết cái gì là vật chất, cái gì không phải là vật chất, cả trong tự nhiên và trong đời sống xã hội. Vật chất là vô cùng, vô tận, nó có vô vàn các thuộc tính khác nhau, rất đa dạng và phong phú mà khoa học ngày càng tìm ra và phát hiện thêm những thuộc tính mới của nó. Trong tất cả những thuộc tính của vật chất thì thuộc tính “thực tại khách quan”, sự tồn tại bên ngoài độc lập với ý thức của con người là thuộc tính chung nhất, vĩnh hằng với mọi dạng, mọi đối tượng khác nhau của vật chất. Tất cả những gì tồn tại bên ngoài và độc lập với ý thức của con người đều là những dạng khác nhau của vật chất. Như những quy luật kinh tế xã hội, những quan hệ sản xuất của xã hội, tuy không tồn tại dưới dạng vật thể, khối lượng, năng lượng, cấu trúc phân tử, nguyên tử… nhưng chúng tồn tại khách quan, có trước ý thức và quyết định ý thức. Vì vậy chúng chính là vật chất dưới dạng xã hội Thuộc tính “tồn tại khách quan” cũng là tiêu chuẩn để khẳng định thế giới vật chất có tồn tại thực sự, tồn tại do chính nó hay không. Bởi vậy, nó là cơ sở khoa học để đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm dưới mọi hình thức “Vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác”: Vật chất tồn tại khách quan, nhưng không tồn tại vô hình, trừu tượng, mà là sự tồn tại hiện thực, cụ thể. Khi vật chất tác động lên các giác quan của con người thì gây ra cảm giác của con người, đem lại cho con người sự nhận thức về chính nó. Như vậy, khái niệm nhận thức của con người đối với vật chất chính là xuất phát từ thuộc tính tồn tại cảm tính, tức tồn tại có thể nhận thức được bản thân vật chất. Con người có thể nhận thức được khách quan nhờ các giác quan của mình, nó thuộc về phái khả tri (con người có thể nhận thức những cái mình chưa biết). Nó nói lên tầm quan trọng của các giác quan trong quá trình nhận thức, khoa học chứng minh rằng mọi hoạt động nhận thức của con người đều thông qua các giác quan. Nếu các giác quan này ngày càng hoàn thiện thì nhận thức của con người ngày càng cao, nếu các giác quan của con người khiếm khuyết thì nhận thức của con người cũng khiếm khuyết. Trình độ nhận thức của con người phụ thuộc rất nhiều vào các giác quan, đó là cầu nối của quá trình nhận thức, điều đó khẳng định thực tại khách quan là cái có trước, còn cảm giác là cái có sau, vật chất tồn tại không lệ thuộc vào ý thức. “Được cảm giác chúng ta chép lại, chụp lại”: phản ánh sự hiểu biết của con người chỉ là hình ảnh về thực tại khách quan. Nó là kết quả của quá trình các giác quan của con người chụp lại, chép lại, phản ánh lại thực tại khách quan à sự hiểu biết của con người thuộc lĩnh vực ý thức, thực tại khách quan thuộc về thế giới vật chất. Ý thức là hình ảnh về thế giới vật chất xã hội trong quá trình nhận thức của con người. Chính vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, vật chất sẽ quyết định nội dung ý thức. “Không phụ thuộc vào cảm giác”: đề cập đến tính chất quan trọng nhất của vật chất: sự tồn tại trong ý thức không phụ thuộc vào ý thức, đó là tồn tại khách quan, là cơ sở quan trọng nhất để xác định một cái gì đó có thuộc về vật chất hay không. Kết luận: Vật chất có nhiều thuộc tính, thuộc tính tồn tại khách quan, thuộc tính phản ánh nhưng quan trọng nhất là tồn tại khách quan. Đó là cơ sở quan trọng nhất để xem xét, còn các vấn đề còn lại cho ta hiểu về ý thức, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, khả năng nhận thức của con người. Rút ra từ định nghĩa: Sự thống nhất giữa tính trừu tượng của phạm trù và tính hiện thực của vật chất được thể hiện: vật chất với tư cách là phạm trù thì nó là kết quả của quá trình khái quát hóa, trừu tượng hóa của con người. Nó là sản phẩm của tư duy trên vật chất, với tư cách là vật chất thì nó là những cái thể hiện cụ thể qua các sự vật, các quá trình, các quan hệ… à Trong thế giới có rất nhiều các sự vật với kích thước, thuộc tính khác nhau thuộc về thế giới vi mô, vĩ mô… chúng có đặc tính chung là tồn tại khách quan bên ngoài ý thức của con người. Từ đó, con người khái quát hóa các sự vật cụ thể thành khái niệm chung. Đó là khái niệm vật chất. Lenin đã có một cách định nghĩa mới là không định nghĩa vật chất theo cách thông thường mà đã đem vật chất đối lập với ý thức. Ý nghĩa: Định nghĩa đã khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước Marx về vật chất. Chủ nghĩa duy vật trước Marx lấy cái trong giới tự nhiên để giải thích cho thế giới. Điều đó về cơ bản là đúng nhưng hạn chế ở chỗ là đã đồng nhất vật chất với vật thể. Định nghĩa của Lenin đã phân biệt được vật chất với vật thể một cách rõ ràng. Chủ nghĩa duy vật trước Marx: Vật chất = nước, lửa, không khí à tồn tại khách quan Chủ nghĩa duy vật biện chứng: Vật chất = thực tại khách quan à tồn tại khách quan Khác nhau ở chỗ chủ nghĩa duy vật trước Marx biểu hiện một hoặc