Chuyên đề Giải pháp mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Hưng Yên

Có thể khẳng định rằng, sau hơn một thập niên thực hiện công cuộc đổi mới, cùng với khu vực kinh tế quốc doanh khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã có những bước phát triển nhanh chóng và ngày càng khẳng định được vị trí và vai trò của mình trong nền kinh tế, hàng năm khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đóng góp khoảng 60% - 65% vào GDP, 40% - 45% cho ngân sách nhà nước và thu hút hơn 80% lao động cho xã hội. Nhờ có chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, DNNQD mới thực sự có điều kiện để phát huy lợi thế của mình trong cơ chế mới. Với đặc điểm hoạt động linh hoạt, năng động và có tính tự chủ cao DNNQD đã nhanh chóng hoà nhập với kinh tế thị trường, tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội, góp phần kiềm chế lạm phát, giảm tỷ lệ thất nghiệp và là đối tác cạnh tranh sôi động với DNNN, góp phần tích cực vào sự phồn vinh của đất nước. Vai trò và vị trí quan trọng của DNNQD đòi hỏi phải có cơ chế và chính sách thích hợp tạo điều kiện cho DNNQD phát huy mạnh mẽ mọi tiềm năng, thế mạnh của mình. Trên thực tế, trong những năm gần đây nhận thức được tiềm năng to lớn của DNNQD các NHTM đã đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp này tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển và mở rộng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng góp phần vào sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế. Tuy nhiên, trong thời gian thực tập tại chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hưng Yên em nhận thấy rằng hoạt động cho vay đối với DNNQD chưa tương xứng với nhu cầu vốn thực tế của các doanh nghiệp này. Vì vậy sau một thời gian nghiên cứu nắm bắt tình hình thực tế em đã lựa chọn đề tài “Giải pháp mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Hưng Yên” với mong muốn góp một phần nhỏ bé kiến thức của mình vào việc tìm ra các giải pháp để mở rộng cho vay đối với DNNQD tại chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hưng Yên. Nội dung đề tài là một vấn đề rộng và phức tạp vì vậy chuyên đề này sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết. Em mong nhận được sự giúp đỡ của các thầy cô, của ban lãnh đạo và cán bộ công nhân viên chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hưng Yên, đồng thời em cũng mong nhận được những đóng góp của các bạn sinh viên để bài viết của em được hoàn thiện và có thực tiễn hơn.

doc84 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1087 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Hưng Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Có thể khẳng định rằng, sau hơn một thập niên thực hiện công cuộc đổi mới, cùng với khu vực kinh tế quốc doanh khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã có những bước phát triển nhanh chóng và ngày càng khẳng định được vị trí và vai trò của mình trong nền kinh tế, hàng năm khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đóng góp khoảng 60% - 65% vào GDP, 40% - 45% cho ngân sách nhà nước và thu hút hơn 80% lao động cho xã hội. Nhờ có chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, DNNQD mới thực sự có điều kiện để phát huy lợi thế của mình trong cơ chế mới. Với đặc điểm hoạt động linh hoạt, năng động và có tính tự chủ cao DNNQD đã nhanh chóng hoà nhập với kinh tế thị trường, tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội, góp phần kiềm chế lạm phát, giảm tỷ lệ thất nghiệp và là đối tác cạnh tranh sôi động với DNNN, góp phần tích cực vào sự phồn vinh của đất nước. Vai trò và vị trí quan trọng của DNNQD đòi hỏi phải có cơ chế và chính sách thích hợp tạo điều kiện cho DNNQD phát huy mạnh mẽ mọi tiềm năng, thế mạnh của mình. Trên thực tế, trong những năm gần đây nhận thức được tiềm năng to lớn của DNNQD các NHTM đã đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp này tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển và mở rộng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng góp phần vào sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế. Tuy nhiên, trong thời gian thực tập tại chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hưng Yên em nhận thấy rằng hoạt động cho vay đối với DNNQD chưa tương xứng với nhu cầu vốn thực tế của các doanh nghiệp này. Vì vậy sau một thời gian nghiên cứu nắm bắt tình hình thực tế em đã lựa chọn đề tài “Giải pháp mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Hưng Yên” với mong muốn góp một phần nhỏ bé kiến thức của mình vào việc tìm ra các giải pháp để mở rộng cho vay đối với DNNQD tại chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hưng Yên. Nội dung đề tài là một vấn đề rộng và phức tạp vì vậy chuyên đề này sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết. Em mong nhận được sự giúp đỡ của các thầy cô, của ban lãnh đạo và cán bộ công nhân viên chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hưng Yên, đồng thời em cũng mong nhận được những đóng góp của các bạn sinh viên để bài viết của em được hoàn thiện và có thực tiễn hơn. CHƯƠNG 1 DOANH NGHIệP NGOàI QUốC DOANH VÀ VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG TRONG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH I. DNNQD trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam 1. Khái niệm, phân loại, đặc điểm và vai trò của DNNQD trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam 1.1. Khái niệm về DNNQD Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. DNNQD là một bộ phận của nền kinh tế, lấy sở hữu tư nhân làm nền tảng, được tồn tại lâu dài, được bình đẳng trước pháp luật và có tính sinh lợi hợp pháp chủ động trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong khuôn khổ của pháp luật. Xuất pháp từ hình thức sở hữu của DNNQD, Nhà nước không cấp vốn hoạt động cũng như không tái cấp vốn mà vốn hoạt động của DNNQD là vốn do tư nhân bỏ ra hay một nhóm các thành viên là các tổ chức, cá nhân góp lại. Số tiền này nhiều hay ít phụ thuộc vào qui mô ngành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh theo quy định của pháp luật (đựơc quy định trong luật doanh nghiệp). Mặt khác, trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, DNNQD phải chịu trách nhiệm hữu hạn, vô hạn hay hỗn hợp cả vô hạn và hữu hạn. Điều đó tuỳ thuộc vào đặc trưng của từng loại hình sản xuất kinh doanh của DNNQD mà các cá nhân, tổ chức tham gia trong đó. 1.2. Phân loại DNNQD *Nếu căn cứ vào mức độ trách nhiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh thì DNNQD bao gồm các doanh nghiệp chiụ trách nhiệm hữu hạn (công ty TNHH, công ty cổ phần, hợp tác xã…), các doanh nghiệp chịu trách nhiệm hỗn hợp (công ty hợp vốn đơn giản là công ty trong đó có một thành viên nhận vốn chịu trách nhiệm vô hạn còn các thành viên góp vốn khác chịu trách nhiệm hữu hạn trên phần vốn đóng góp mà thôi). *Nếu chia theo tính chất sở hữu vốn, DNNQD bao gồm các loại hình doanh nghiệp sở hữu một chủ (doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH 1 thành viên), sở hữu nhiều chủ (công ty cổ phần, công ty TNHH có từ 2 thành viên trở lên, hợp tác xã...). Tuy nhiên dù phân loại theo hình thức nào thì DNNQD cũng bao gồm các loại hình sau: Doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần, hợp tác xã. - Doanh nghiệp tư nhân: Điều 99 luật doanh nghiệp quy định “Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. - Công ty TNHH: là doanh nghiệp gồm không quá 50 thành viên góp vốn thành lập, thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp. - Công ty cổ phần: là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được hình thành từ nhiều phần vốn góp bằng nhau gọi là cổ phần, người sở hữu cổ phần gọi là cổ đông, cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. - Hợp tác xã: là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu, có lợi ích chung tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước. 1.3. Đặc điểm của DNNQD ở Việt Nam Bắt đầu hình thành và phát triển từ năm 1986 cho đến nay, trải qua một giai đoạn hơn mười năm các DNNQD nước ta có những đặc điểm sau: * Quy mô vốn nhỏ bé: Nền kinh tế Việt Nam vẫn là một nền kinh tế chậm phát triển, không có sự năng động do đó khẳ năng tích luỹ vốn nội bộ rất thấp. Người dân vẫn chưa có thói quen để đồng tiền nhàn rỗi của mình có thể sinh lời bằng cách đầu tư vào sản xuất kinh doanh, mà chỉ gửi tiền tiết kiệm vào Ngân hàng hoặc giữ tiền ở nhà. Các DNNQD dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất nên nguồn vốn mang tính chất nhỏ hẹp, mặt khác thâm niên tồn tại chưa lâu nên chưa có điều kện để tích luỹ vốn. Nguồn vốn hoạt động chủ yếu là đi vay từ bạn bè, vay tư nhân, vay Ngân hàng và các TCTD khác. Song do uy tín của các DNNQD chưa cao nên việc vay vốn gặp rất nhiều khó khăn, mặc dù đã có nhiều văn bản của chính phủ, NHNN quy định về việc mở rộng cho vay đối với khu vực này. Hầu hết các DNNQD có quy mô vừa và nhỏ (theo Nghị định số 90/2001/NĐ - CP của Chính Phủ định nghĩa thì doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không qúa 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người). Thực tế số DNNQD có số vốn sử dụng dưới 10 tỷ đồng chiếm 70%, bình quân số vốn thực tế sử dụng 1 DNNQD là 4,7 tỷ đồng, lao động bình quân của DNNQD là 36 người. Mức trang bị tài sản trên 1 lao động chỉ có 44,7 triệu đồng. Lượng vốn tự có của các doanh nghiệp chỉ đáp ứng từ 30% đến 40% yêu cầu. Vấn đề thiếu vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh kéo theo các đặc điểm về trình độ công nghệ lạc hậu, môi trường kinh doanh không thuận lợi. * Trình độ kỹ thuật công nghệ sản xuất lạc hậu: Do quy mô vốn hạn chế cùng với việc thiếu thông tin về công nghệ, sự hạn chế trong việc áp dụng công nghệ tiên tiến dẫn đến trình độ công nghệ của các DNNQD nhìn chung là không đồng bộ. Hầu hết là các thiết bị đều cũ kỹ, lạc hậu, phần lớn là máy cũ tân trang lại, tuổi của các máy móc thiết vào khoảng 20 tuổi. Theo số liệu điều tra của viện quản lý kinh doanh trung ương năm 2003 thì chỉ có 25% doanh nghiệp sử dụng công ngệ tương đối hiện đại, 38,5% doanh nghiệp sử dụng công nghệ cổ truyền, 36,5% doanh nghiệp kết hợp cả công nghệ cổ truyền và hiện đại. Do trình độ công nghệ quyết định đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm nên sản phẩm của DNNQD làm ra có sức cạnh tranh kém trên thị trường. * Môi trường sản xuất kinh doanh không thuận lợi, thị trường tiêu thụ sản phẩm nhỏ bé, bấp bênh: Kể từ năm 1986 cho tới nay hàng loạt các chính sách, chủ trương liên quan đến phát triển DNNQD đã được ban hành tạo ra cơ sở pháp lí cho các DNNQD hoạt động như luật công ty, luật doanh nghiệp tư nhân năm 1990; luật doanh nghiệp năm 2000. Nhưng để tạo hành lang pháp lý đầy đủ cho kinh doanh thì vẫn còn thiếu như luật chống độc quyền, luật doanh nghiệp vừa và nhỏ... Mặc dù quyền bình đẳng pháp lí giữa DNNN và DNNQD đã được thừa nhận nhưng trong các chính sách kinh tế, điều này vẫn chưa nhất quán, đặc biệt trong chính sách thuế, tín dụng, vốn, mặt bằng... Một khó khăn lớn của các DNNQD là thị trường tiêu thụ nhỏ hẹp không ổn định, mặc dù thị trường trong nước có nhu cầu khá lớn, nhưng do vốn đầu tư ban đầu ít, công nghệ sản xuất lạc hậu nên sản phẩm của DNNQD làm ra có sức cạnh tranh kém ngoại trừ một số mặt hàng truyền thống có uy tín. Cùng với đó là sự cạnh tranh khốc liệt của hàng ngoại nhập tràn lan, hàng nhập lậu với giá rẻ. Mặt khác, các doanh nghiệp ít có sự giao lưu trên thị trường quốc tế, thiếu hiểu biết về công nghệ mới, về kiến thức kinh doanh và pháp luật quốc tế dẫn tới nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ phá sản. * Trình độ quản lý kinh doanh kém đặc biệt là trình độ yếu kém trong việc lập kế hoạch tài chính, năng lực của người lao động thấp. Việc lập kế hoạch tài chính, xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh có hiệu quả phụ thuộc và nhiều nhân tố: trình độ, kinh nghiệm quản lý kinh doanh, khả năng dự đoán về sự biến động của ngành, của nền kinh tế... Người chủ của các DNNQD đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu quản trị bằng kinh nghiệm, theo cách suy nghĩ hiểu biết riêng của mình. Nhiều người trong số họ chưa qua đào tạo trường lớp nên ít am hiểu về pháp luật, yếu kém về năng lực và kiến thức vì vậy rất khó khăn trong việc lập kế hoạch tài chính, xây dựng các phương án sản xuất kinh doanh khả thi, trong khi thói quen sử dụng các dịch vụ tư vấn mang tính chuyên nghiệp chưa hình thành. Các sổ sách kế toán của DNNQD thường quá đơn giản, không cập nhật, không đầy đủ và không chính xác. Do vậy, việc đánh giá các doanh nghiệp (để Ngân hàng quyết định cho vay) thực sự khó khăn đối với Ngân hàng, nhất là hiện nay sổ sách của các doanh nghiệp hầu hết đều chưa được kiểm toán. Thêm vào đó đội ngũ lao động trong các DNNQD nói chung đều có kỹ năng thấp, rất ít được qua đào tạo, hầu hết là lao động phổ thông. Điều này cũng là đặc điểm chung của đội ngũ lao động ở nước ta ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Các đặc điểm trên đây chính là những yếu tố tiềm ẩn gây rủi ro cho Ngân hàng khi cho vay, vì thế để có thể tiếp cận được vốn tín dụng DNNQD cần khắc phục những nhược điểm và phát huy những lợi thế của mình. Cũng như Ngân hàng khi cho vay cần thẩm định khách hàng một cách kỹ lưỡng, tư vấn cho khách hàng nhằm tránh các thiệt hại có thể xảy ra. 1.4. Vai trò của các DNNQD trong tiến trình đổi mới Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ra đời và phát triển trong nền kinh tế thị trường, các DNNQD chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ nên rất linh hoạt, nhạy bén thích ứng nhanh chóng với sự biến động của thị trường. Nó huy động tối đa nguồn vốn trong dân cư để phát triển kinh tế đất nước. Với tính tự chủ và khả năng thích nghi cao, DNNQD đóng một vai trò không thể thiếu được trong nền kinh tế, thể hiện qua các mặt sau: * DNNQD góp phần thu hút tối đa mọi nguồn vốn trong dân, giải quyết nạn thất nghiệp tạo ra sự phát triển cân đối trong nền kinh tế. - Trình độ lực lượng sản xuất của nước ta còn thấp, trong khi tiềm năng phát triển còn lớn song khả năng khai thác còn hạn chế. Sự độc chiếm của hình thức sở hữu Nhà nước và tập thể không cho phép khai thác những tiềm năng lớn đó của đất nước, do đó vẫn còn một lượng vốn lớn còn nằm trong dân cư. Chỉ có con đường phát triển DNNQD mới có thể khai thác chúng. - DNNQD tham gia vào hầu hết các ngành kinh tế từ công nghiệp, thương mại đến dịch vụ, với đặc tính nhạy bén, tổ chức gọn nhẹ nên đã thu hút được rất nhiều lao động có trình độ khác nhau. Đặc biệt trong quá trình cải cách các DNNN đã nảy sinh một số vấn đề như thất nghiệp, sự bỏ ngỏ một số ngành kinh tế và khu vực do nhà nước không đủ sức đảm trách hoặc không có tầm quan trọng sống còn. Chính các DNNQD với đặc tính của mình sẽ tạo ra công ăn việc làm giải quyết các vấn đề thất nghiệp, điều tiết lực lượng phân giải trên các khu vực còn nhiều khoảng trống góp phần dãn cách, điều hoà nhu cầu lao động. Sự hoạt động đa dạng trên nghiều ngành nghề của các DNNQD đã tạo ra sự phát triển cân đối cho nền kinh tế. * DNNQD phát triển tạo thêm nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Với đặc điểm là được tổ chức gọn nhẹ, ít nhân công, dây chuyền công nghệ đơn giản, có mối quan hệ sẵn có về cung cấp nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm nên DNNQD có đặc điểm nổi bật là năng động, linh hoạt thay đổi nhanh mặt hàng và phương hướng kinh doanh, Do vậy các DNNQD đáp ứng khá nhanh nhậy các nhu cầu phong phú, đa dạng của thị trường, từ đó tạo ra ngày càng nhiều lợi nhuận đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách Nhà nước. Trên thực tế DNNQD đóng góp mỗi năm khoảng 40% - 45% vào ngân sách Nhà nước. * DNNQD tạo ra nhiều hàng hoá cho tiêu dùng và cho xuất khẩu. Theo chiến lược phát triển hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu của Đảng và Nhà nước ta, DNNQD với sự đa dạng về quy mô, ngành nghề và hình thức kinh doanh đã khơi dậy tiềm năng to lớn trong dân để phát triển sản xuất, thu hút vốn, kỹ thuật công nghệ của nước ngoài tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm phục vụ cho tiêu dùng và cho xuất khẩu. Đặc biệt là sự khôi phục của các làng nghề truyền thống ở nông thôn đã làm ra các sản phẩm có giá trị xuất khẩu đóng góp phần quan trọng vào việc nâng cao đời sống cho dân cư ở nông thôn. * DNNQD có tác dụng quan trọng đối với quá trình CNH - HĐH và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta. Quá trình phát triển DNNQD cũng là quá trình cải tiến máy móc thiết bị, nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu thị trường, đến một mức độ nhất định sẽ dẫn đến đổi mới công nghệ, làm cho quá trình CNH - HĐH đất nước không chỉ diễn ra theo chiều rộng mà cả ở chiều sâu. Mặt khác, sự phục hồi các làng nghề ở một số vùng quê đã thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. * DNNQD phát triển góp phần tạo ra môi trường cạnh tranh thúc đẩy phát triển kinh tế. Với sự đa dạng về lĩnh vực hoạt động, DNNQD đã tạo nên môi trường cạnh tranh trong nền kinh tế với các DNNN. Theo quy luật thì cạnh tranh sẽ là điểm khởi đầu của sự phát triển. DNNQD có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của DNNN, bù đắp những lỗ hổng do khu vực này tạo ra. Đặc biệt nó có vai trò quan trọng trong việc chống lại xu thế độc quyền đang tác động làm trì trệ, cản trở nền kinh tế phát triển. Việc phát triển DNNQD tạo ra một sức ép lớn đối với DNNN trên cơ sở đó tạo ra hàng hoá, dịch vụ ngày càng phong phú đa dạng, chất lượng cao hơn. Khi đó khách hàng sẽ có điều kiện lựa chọn sản phẩm hàng hoá mà mình ưa thích. Bằng con đường đó đã buộc DNNN phải quan tâm nhiều hơn đến vấn đề nâng cao hiệu quả, cải tiến chất lượng sản phẩm, và đây sẽ trở thành định hướng cơ bản cho sự phát triển của bản thân các doanh nghiệp này, từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển. * DNNQD góp phần tạo ra thị trường vốn rộng lớn cho Ngân hàng. Sự xuất hiện và phát triển của các DNNQD đã tạo ra một nhóm khách hàng thường xuyên cho Ngân hàng. Với tốc độ phát triển nhanh chóng cả về quy mô và chất lượng các DNNQD đã tạo ra một nhu cầu lớn cho Ngân hàng cả về vốn, thanh toán và các dịch vụ qua Ngân hàng. Điều này tạo điều kiện cho Ngân hàng ngày càng phát triển. Như chúng ta biết, hoạt động Ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào nền kinh tế quốc dân mà trong đó DNNQD chiếm một tỷ lệ đáng kể do vậy, trong tương lai DNNQD sẽ là thị trường đầy triển vọng của ngành Ngân hàng. Nhận thức được vai trò to lớn của DNNQD, Nhà nước ta đã khuyến khích và tạo môi trường ngày càng thuận lợi cho khu vực này. Sau khi quốc hội thông qua luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân tháng 12/1990 DNNQD đã có sự phát triển nhanh chóng và đã đạt được những kết quả nhất định, phát huy tính tích cực trong việc huy động vốn, giải quyết việc làm, tạo sự năng động trong kinh doanh và thoả mãn nhu cầu thị trường. Một kết quả nổi bật là các DNNQD tăng lên nhanh chóng, tăng mức nộp ngân sách và thu nhập khá cao. Đạt được những điều đó lá nhờ những điều kiện khá thuận lợi như cơ chế chính sách của Nhà nước luôn khuyến khích, hỗ trợ cho sự ra đời và hoạt động của DNNQD. Nhà nước cũng luôn cố gắng tạo ra môi trường pháp lý bình đẳng, tự chủ trong kinh doanh để các doanh nghiệp này có điều kiện vươn lên. Hơn nữa, lực lượng lao động Việt Nam dồi dào, luôn sẵn sàng đáp ứng yêu cầu của thành phần kinh tế này. 2. Thuận lợi và khó khăn của DNNQD trong quá trình đổi mới 2.1. Thuận lợi * Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh được sự khuyến khích phát triển của Nhà nước. Nhà nước ta đã có chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế, đặc biệt là tăng tỷ trọng thành phần kinh tế ngoài quốc doanh để tận dụng các nguồn lực của nền kinh tế như: lao động và vốn. Môi trường pháp lý sẽ ngày càng được khai thông để tạo điều kiện tối đa cho khu vực này phát triển; bên cạnh đó Nhà nước có những chính sách ưu đãi cho khu vực này như miễn giảm thuế trong những năm đầu đối với những lĩnh vực được khuyến khích phát triển, giảm giá thuê đất... Như vậy, các DNNQD sẽ có rất nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển. Nhà nước đã ban hành luật doanh nghiệp tư nhân, luật công ty và luật doanh nghiệp trong đó công nhận quyền bình đẳng của chúng với các hình thức kinh tế khác trước pháp luật. Đặc biệt, đối với ngành Ngân hàng, cơ chế cho vay đối với DNNQD đã thông thoáng hơn: thủ tục cho vay đơn giản hơn, nếu phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp khả thi thì có thể sử dụng chính số vật tư hàng hoá hình thành từ vốn vay làm tài sản bảo đảm; các hình thức cho vay phong phú hơn phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp. * Cơ sở hạ tầng của nền kinh tế: hệ thống giao thông, hệ thống thông tin liên lạc, khoa học kỹ thuật công nghệ... phát triển đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các DNNQD nói riêng. Với sự hình thành và đi vào hoạt động của thị trường chứng khoán đã tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty cổ phần thu hút vốn; là cơ sở để thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam làm ăn lành mạnh, có hiệu quả. * Môi trường tài nguyên còn rất nhiều tiềm năng phù hợp với đặc điểm của các DNNQD. Lực lượng lao động dồi dào và tiền công thấp là một thuận lợi cho sự phát triển của các DNNQD. Thị trường trong nước trong những năm gần đây đã phát triển mạnh mẽ cả về chất lượng và số lượng, tuy nhiên các chủng loại hàng hoá vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu của người tiêu dùng, nên đây là những tiềm năng để các DNNQD xâm nhập. Ngoài ra thị trường quốc tế còn chưa có các mặt hàng đặc thù của Việt Nam, điều này cũng tạo ra thị trường đầu ra lý tưởng cho các DNNQD. * DNNQD bao gồm phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp này có những thuận lợi riêng như: dễ triển khai hoạt động, linh hoạt, dễ thích ứng, quay vòng nhanh, chi phí gián tiếp thấp, tận dụng được các nguồn vốn nhỏ. Mặc dù có những thuận lợi như vậy, nhưng DNNQD cũng gặp phải không ít những khó khăn. 2.2. Khó khăn * Sự non nớt về kinh nghiệm quản lý, thông tin yếu kém. Vì mới khẳng định sự tồn tại trong nền kinh tế thị trường nên kinh nghiệm thương trường của các DNNQD còn rất ít, đặc biệt là trên thương trường quốc tế. Điều này làm cho doanh nghiệp còn lúng túng trong việc chiếm lĩnh thị trường, thất bại trong cạnh tranh, thậm chí bị lừa đảo. Trình độ quản lý và thông tin là những yếu tố kỹ thuật, đòi hỏi phải luôn cập nhật, tuy vậy ở các DNNQD những yếu tố này vẫn chưa đạt yêu cầu để có thể giúp các doanh nghiệp đứng vững và phát triển trên thị trường. * Thiếu vốn là một trong những căn bệnh kinh niên của các nước đang phát triển, vốn là một trong những yếu tố đầu vào vô cùng quan trọng, quyết định đối với sự hình thành, tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp, quyết định tới phạm vi ngành nghề ki
Tài liệu liên quan