Chuyên đề Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty xuất nhập khẩu Nam Cường

Hiện nay, sự cạnh tranh trên thị trường của các thành phần kinh tế ngày càng gay gắt khốc liệt, nhất là khi Việt Nam đã là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO thì vấn đề cạnh tranh lại là vấn đề được quan tâm hơn cả. Công ty Nam Cường là 1 trong doanh nghiệp điển hình cho những doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng động cơ điezel thành công trên thị trường Việt Nam. Doanh thu và số lượng nhân viên của công ty không ngừng tăng lên theo các năm .

doc59 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2398 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty xuất nhập khẩu Nam Cường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP. Tên đề tài: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty xuất nhập khẩu Nam Cường. Giáo viên hướng dẫn: Mai Thế Cường. Sinh viên thực hiện: Phạm Quang Tú. Lớp: KDQT46B. MỤC LỤC Lời mở đầu.......................................................................................................1 Chương 1 : LỜI MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài. Hiện nay, sự cạnh tranh trên thị trường của các thành phần kinh tế ngày càng gay gắt khốc liệt, nhất là khi Việt Nam đã là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO thì vấn đề cạnh tranh lại là vấn đề được quan tâm hơn cả. Công ty Nam Cường là 1 trong doanh nghiệp điển hình cho những doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng động cơ điezel thành công trên thị trường Việt Nam. Doanh thu và số lượng nhân viên của công ty không ngừng tăng lên theo các năm . Tuy nhiên, trên thị trường đang ngày càng xuất hiện nhiều những doanh nghiệp cạnh tranh vớI doanh nghiệp Nam Cường.Do đó việc nghiên cứu các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh là vô cùng cần thiết. 2.Mục đích nghiên cứu. Chuyên đề này không chỉ làm sáng tỏ các lý luận về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh mà đi kèm là những phân tích đánh giá, đưa ra đề xuất các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh trong quá trình nghiên cứu các hoạt động kinh doanh của công ty Nam Cường. 3.Đối tượng và phương pháp nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề là năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Nam Cường. Chuyên đề này được làm theo nhiều phương pháp : Phõn tích tổng hợp, phương pháp diễn giải quy nạp, phương pháp đối chiếu so sánh, phương pháp lozic. 4.Bố cục của chuyên đề Bao gồm 3 chương: Chương 1:Cơ sở lý luận về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Chương 2:Cơ sở thực tiễn về thực trạng năng lực cạnh tranh của công ty,phõn tớch và đánh giá năng lực cạnh tranh của công ty XNK Nam Cường. Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty Nam Cường. Chương 1 Cơ sở lý luận về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp I. Khái luận về cạnh tranh và vai trò của cạnh tranh đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 1. Khái niệm về cạnh tranh: Doanh nghiệp là một bộ phận của nền kinh tế thị trường nên chịu sự chi phối hoạt động của các quy luật giá trị, quy luật cung cầu và quy luật cạnh tranh. Trong nền kinh tế thị trường mọi cá nhân được tự do kinh doanh, đõy chớnh là nguồn gốc dẫn tới cạnh tranh. Cạnh tranh trên thị trường rất đa dạng và phức tạp giữa các chủ thể có lợi ích đối lập nhau chẳng hạn như cạnh tranh giữa những người mua, giữa những người bán, giữa những người bán với người mua, giữa các nhà sản xuất, giữa các doanh nghiệp nội địa với doanh nghiệp nước ngoài….Cạnh tranh phát triển cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa. Xét dưới giác độ các quốc gia thì cạnh tranh có thể được miêu tả là quá trình đương đầu của các quốc gia này với quốc gia khác. Xét dưới giác độ ngành kinh tế - kỹ thuật, từ trước đến nay, cạnh tranh được chia thành 2 loại là cạnh tranh giữa các ngành và cạnh tranh nội bộ ngành. Cạnh tranh giữa các ngành là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong mọi lĩnh vực khác nhau nhằm thu được lợi nhuận lớn và có tỳ suất lợi nhuận cao hơn so với số vốn đã bỏ ra, cùng với đó là việc đầu tư vốn vào ngành có lợi nhất cho sự phát triển. Sự cạnh tranh giữa các ngành dẫn đến việc các doanh nghiệp luôn tìm kiếm những ngành đầu tư có lợi nhất nờn đã chuyển vốn đầu tư sang ngành có lợi nhuận cao hơn. Điều này, vô hình chung đã hình thành nên sự phân phối vốn hợp lý giữa các ngành khác nhau và giúp cho các doanh nghiệp ở các ngành khác nhau có số vốn bằng nhau thì thu được lợi nhuận ngang nhau. Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất và tiêu thụ một loại sản phẩm hàng húa-dịch vụ nào đó. Cạnh tranh trong nội bộ ngành dẫn đến sự hình thành nên giá cả thị trường trên cơ sở giá trị xã hội của loại hàng hóa dịch vụ đó. Những doanh nghiệp có lợi thế trong cạnh tranh sẽ mở rộng quy mô hoạt động của mỡnh trờn thị trường, ngược lại những doanh nghiệp kém lợi thế trong cạnh tranh sẽ phải thu hẹp phạm vi kinh doanh, thậm chí còn có thể bị giải thể, phá sản. Đề cập tới cạnh tranh trong điều kiện nền kinh tế TBCN, K. Mark đã đưa ra khái niệm: “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch”. Như vậy, khi nghiên cứu cạnh tranh trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, Mark đã coi cạnh tranh là cuộc giành giật các lợi thế để thu được lợi nhuận siêu ngạch. Tuy nhiên, cũng trong nền kinh tế TBCN, cuốn sách “Từ điển kinh doanh” (xuất bản năm 1992, Anh) lại đưa ra khái niệm: “Cạnh tranh là sự ganh đua, kình địch giữa các nhà kinh doanh nhằm tranh giành tài nguyên sản xuất cùng một loại về phía mỡnh” để đề cập tới sự cạnh tranh ở thị trường các yếu tố đầu vào của các doanh nghiệp. Nói tóm lại, cạnh tranh là sự ganh đua giữa các ngành kinh tế, giữa các quốc gia trong việc giành giật các lợi thế để thực hiện các mục tiêu khác nhau trong từng giai đoạn cạnh tranh nhất định. Cạnh tranh là quy luật của nền kinh tế thị trường, là động lực thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hóa phát triển. Vì vậy, các doanh nghiệp cần phải nhận thức đúng đắn về cạnh tranh để từ đó luôn phát huy nội lực, tận dụng ngoại lực, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. Mặt khác tránh cạnh tranh bất hợp pháp làm tổn hại lợi ích của cộng đồng cũng như làm suy yếu chính mình. 2. Các hình thái cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. 2.1. Thị trường cạnh tranh. 2.1.1. Hình thái thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường mà ở đó có rất nhiều người bán mà không có người nào có ưu thế cung ứng một số lượng sản phẩm lớn ảnh hưởng đến giá cả. Tất cả các đơn vị hàng hóa trên thị trường được coi là giống nhau, ít có sự khác biệt về mẫu mã, hình thức, chất lượng. Tất cả người mua và người bán đều có hiểu biết đầy đủ về các thông tin liên quan đến việc trao đổi, vì vậy việc tham gia và rút khỏi thị trường của họ rất dễ dàng. Họ không có khả năng nâng giá. Do đó, các doanh nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh trên thị trường này chủ yếu tìm biện pháp giảm chi phí tới mức thấp nhất. Thị trường cạnh tranh hoàn hảo có tác dụng thúc đẩy các doanh nghiệp cải tiến công nghệ, thay đổi sản phẩm cho phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng, làm cho người tiêu dùng dễ dàng lựa chọn những sản phẩm vừa ý với mức giá thấp nhất. Nhìn chung, xã hội thu được lợi ích do tài nguyên được phân phối theo hướng có lợi nhất, làm cho doanh nghiệp phải chuyển sang kinh doanh mặt hàng phù hợp với yêu cầu xã hội. Tuy nhiên, đây là hình thái cạnh tranh hầu như không tồn tại hoặc rất khó thấy trong thực tế. 2.1.2.Hình thái thị trường cạnh tranh không hoàn hảo. Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo gắn liền với khả năng chi phối hay kiểm soát giá của những người bán hay người mua riêng biệt. Xét từ phía người bán, trên một thị trường cạnh tranh không hoàn hảo, doanh nghiệp không phải là người chấp nhận giá mà là người định giá, có khả năng chi phối giá, ở những mức độ khác nhau. Tùy theo số lượng doanh nghiệp người ta chia thị trường cạnh tranh không hoàn hảo thành các dạng: thị trường độc quyền thuần túy, thị trường độc quyền nhóm và thị trường cạnh tranh có tính chất độc quyền. Thị trường độc quyền thuần túy, xét từ góc độ người bán, trên thị trường chỉ có một doanh nghiệp duy nhất hoạt động và cung ứng một loại hàng hóa duy nhất, không có hàng hóa thay thế. Trên thị trường độc quyền thuần túy, doanh nghiệp nói chung không bị nguy cơ gia nhập ngành từ phớa cỏc đối thủ có tiềm năng đe dọa. Thị trường độc quyền nhúm, xột từ phía người bán, là dạng thị trường mà trên đó chỉ có một nhóm nhỏ doanh nghiệp cùng hoạt động. Tuy không phải là một doanh nghiệp duy nhất độc chiếm thị trường, doanh nghiệp độc quyền nhóm thường có quy mô tương đối lớn so với quy mô chung của thị trường. Điều này cho phép nó cú một quyền lực thị trường hay một khả năng chi phối giá đáng kể. Sản phẩm của các doanh nghiệp trên thị trường độc quyền nhóm có thể giống hệt nhau hoặc gần như giống hệt nhau, song cũng có thể khác biệt. Tính đồng nhất hay khác biệt của sản phẩm không phải là những tính chất đặc thù của thị trường này. Đặc trưng cơ bản của độc quyền nhóm là sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các doanh nghiệp mỗi khi ra quyết định về sản lượng, giá cả hay các quyết định kinh doanh có liên quan khác. Thị trường cạnh tranh có tính chất độc quyền là một cấu trúc thị trường vừa có tính chất của một thị trường cạnh tranh, vừa có tính chất của một thị trường độc quyền. Nó cú những đặc điểm sau: Thứ nhất, trên thị trường có nhiều doanh nghiệp cùng hoạt động. Vì thế, giống như thị trường cạnh tranh hoàn hảo, quy mô của mỗi doanh nghiệp đều tương đối nhỏ so với quy mô chung của thị trường. Thứ hai, mỗi doanh nghiệp đều sản xuất ra một loại sản phẩm khác biệt so với sản phẩm cùng loại của các doanh nghiệp khác. Xét theo nghĩa nào đó, một doanh nghiệp là nhà sản xuất độc quyền về loại sản phẩm của mình. Tuy nhiên, các sản phẩm của các doanh nghiệp khác tương đối dễ dàng thay thế sản phẩm này. Thứ ba, các doanh nghiệp có khả năng tự do gia nhập cũng như rút lui khỏi ngành. Những rào cản pháp lý cũng như kinh tế đối với sự gia nhập ngành là không tồn tại. Trên thực tế, các thị trường như dịch vụ bán lẻ, dịch vụ ăn uống, sách, nhà nghỉ…cú thể xếp vào dạng thị trường này. Đặc điểm nổi bật của thị trường cạnh tranh có tính chất độc quyền là tính khác biệt của sản phẩm. Dự đõy không phải là đặc điểm duy nhất chỉ có ở dạng thị trường này, nhưng chính nó là điều phân biệt thì trường này với thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Do cung cấp một loại sản phẩm có tính khác biệt so với sản phẩm của đối thủ, doanh nghiệp ít nhiều vẫn có quyền lực thị trường, có khả năng chi phối giá. 2.2.Cạnh tranh của doanh nghiệp Trong cùng một thị trường, các doanh nghiệp cùng cạnh tranh với nhau trong việc lựa chọn các yếu tố đầu vào, cạnh tranh trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. 2.2.1.Cạnh tranh trong việc lựa chọn các yếu tố đầu vào Cạnh tranh trong việc lựa chọn các yếu tố đầu vào thực chất là việc các doanh nghiệp tìm kiếm cho mình một nguồn cung ứng tốt nhất, đầy đủ, thường xuyên nhất và chi phí cho các yếu tố đầu vào nhỏ nhất. Trong cơ chế thị trường, nhiều nhà cung ứng và nhiều doanh nghiệp cựng cú nhu cầu về một số yếu tố đầu vào nhất định sẽ song song tồn tại một lúc. Mỗi nhà cung ứng có một mức giá cho các yếu tố đầu vào khác nhau, do đó, các doanh nghiệp sẽ chọn cho mình một nhà cung ứng có mức giá thấp cũng như có dịch vụ cung ứng tốt. Tuy nhiên, để tránh tình trạng có nhà cung ứng độc quyền các doanh nghiệp nên chọn cho mình một số nhà cung ứng trong đó có một nhà cung ứng chính. Điều này vô hình chung sẽ dẫn tới một số nhà cung ứng có giá cao sẽ bị loại bỏ. Ngược lại, các nhà cung ứng lại muốn lựa chọn khách mua các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất với mức giá cao. 2.2.2.Cạnh tranh trong quá trình sản xuất Cạnh tranh trong quá trình sản xuất chính là quá trình ganh đua giữa các doanh nghiệp trong việc tỡm cỏc câu trả lời tối ưu nhất cho các câu hỏi sau: sản xuất cái gì? Sản xuất cho ai? Và sản xuất như thế nào? Bởi vì có trả lời tốt được các câu hỏi này thỡ cỏc doanh nghiệp mới có cơ hội tồn tại và phát triển được. Sản xuất cái gì? Thực ra, doanh nghiệp cần phải suy tính xem sản xuất mặt hàng nào thì sẽ thu được lợi nhuận tối ưu nhất. Trước hết, các doanh nghiệp cần tìm hiểu thị trường, nắm bắt nhu cầu khách hàng, để từ đó tập trung sản xuất những mặt hàng phù hợp. Doanh nghiệp nào tìm ra được nhu cầu đầu tiên và nhanh chóng đáp ứng nhu cầu đú thỡ sẽ giành chiến thắng. Tuy nhiên, hiện nay, quan điểm về cạnh tranh không dừng ở mức độ này mà cạnh tranh còn là việc các doanh nghiệp cùng nhau kích thích tạo ra nhu cầu mới trên thị trường để từ đó khai thác các nhu cầu này. Sản xuất cho ai? Đõy chớnh là câu hỏi khiến các doanh nghiệp đi tìm cho mỡnh cỏc khách hàng mục tiêu, để từ đó cú cỏc chiến lược định vị sản phẩm. Điều này cũng là một trong các nhân tố ảnh hưởng đến sự cạnh tranh của các doanh nghiệp. Sản xuất như thế nào? Việc trả lời các câu hỏi này sẽ giúp doanh nghiệp tìm ra phương thức sản xuất tốt nhất với chi phí tốt nhất để từ đó hạ giá thành và nâng cao lợi thé cạnh tranh. Do đó, trong quá trình sản xuất, các doanh nghiệp đã không ngừng áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến để sản xuất ra sản phẩm có giá trị cao và giá thành hạ. Tóm lại, cạnh tranh trong quá trình sản xuất là sự ganh đua trong sản xuất nhằm tạo ra sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường, đẩy nhanh doanh số bán hàng cũng như việc áp dụng các phương thức sản xuất nhằm giảm thiểu chi phí để mong muốn có được lợi nhuận cao của các doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào thực sự làm được điều này doanh nghiệp đó sẽ giành chiến thắng trong cạnh tranh. 2.2.3.Cạnh tranh trong quá trình tiêu thụ hàng hóa dịch vụ Có thể nói, đây là lĩnh vực cạnh tranh gay gắt nhất, nó quyết định tính sống còn của mỗi doanh nghiệp. Trọng tâm của cuộc cạnh tranh này là sự giành giật thị trường và khách hàng của mỗi doanh nghiệp. Qua đó, doanh nghiệp sẽ có điều kiện đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ, thực hiện mục tiêu cuối cùng là tối đa lợi nhuận. Để làm được điều này, các doanh nghiệp phải tìm mọi cách nhằm thu hút khách hàng về phía mình, tìm được chỗ đứng ổn định và lâu dài trên thị trường bằng việc thực hiện các chiến lược và các giải pháp khác nhau. Trong cuộc cạnh tranh này, doanh nghiệp nào tìm được cho mình một lượng khách hàng lớn, hàng hóa dịch vụ tiêu thụ nhiều sẽ là doanh nghiệp chiến thắng và ngược lại. 3. Vai trò của cạnh tranh đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Cạnh tranh là một trong ba quy luật chi phối cơ chế thị trường. Nguồn gốc của cạnh tranh là sự tự phát triển trong kinh doanh về quy mô hoạt động, thành phần tham gia cũng như các sản phẩm tạo thành. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường có thể ví như cuộc chạy đua không có đích, bất kỳ doanh nghiệp nào mà xác định cho mình một cái đích trong cuộc chạy đau này thì sẽ tạo thành nhịp cầu cho các doanh nghiệp khác chạy qua. Tuy nhiên, cạnh tranh lại là cuộc chạy đua trên hai trận tuyến. Đó là cạnh tranh giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp và cạnh tranh giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng. Chớnh vỡ lý do này mà cạnh tranh giúp cho giá cả của hàng hóa dịch vụ có xu hướng giảm xuống, trong khi đó, chất lượng hàng hóa, dịch vụ ngày càng được nâng cao phù hợp với mong muốn người tiêu dùng. Đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, nhờ có cạnh tranh mà các doanh nghiệp này đã không ngừng nỗ lực, phấn đấu vươn lên trong mọi lĩnh vực, từ việc giảm thiểu chi phí cho đến thực hiện các mục tiêu chung. Chính điều này đã là động lực giỳp cỏc doanh nghiệp vươn lên trong quá trình tồn tại. Hơn nữa, cạnh tranh còn là công cụ giỳp cỏc doanh nghiệp thực hiện các mục tiêu kinh doanh và cũng nhờ có cạnh tranh sẽ tạo cho doanh nghiệp những thách thức và cơ hội trong kinh doanh, để từ đó, giỳp cỏc doanh nghiệp khai thác mọi cơ hội và tránh được rủi ro. Ngoài ra, khi nền kinh tế thị trường xuất hiện cơ chế tự điều tiết vĩ mô, có sự dịch chuyển cơ cấu ngành nghề kinh doanh của các doanh nghiệp cho phù hợp với điều kiện thực tế thì cạnh tranh sẽ loại bỏ các doanh nghiệp có chi phí cao, không đáp ứng được nhu cầu xã hội. Đồng thời, đây cũng là cơ hội để các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả tiếp tục phát triển đóng góp cho sự phát triển chung của nền kinh tế. Từ đó, cạnh tranh sẽ tạo nên sự ràng buộc giữa các doanh nghiệp tạo ra một sức mạnh tổng thể cho sự phát triển qua việc phối hợp hài hòa các chức năng, nhiệm vụ giữa các doanh nghiệp khác nhau trong các ngành kinh tế. Nói tóm lại, một khi có nền kinh tế thị trường thì tất yếu sẽ tồn tại quy luật cạnh tranh, đó là quy luật góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Tuy nhiên cạnh tranh là hai mặt của một vấn đề. Một mặt, cạnh tranh là động lực phát triển với mỗi doanh nghiệp. Mặt khác, cạnh tranh lại mang những đe dọa, nguy cơ tiềm tàng sẵn sàng loại bỏ những thành phần tham gia nền kinh tế thị trường nếu như không kịp thời thích ứng với nó. Hơn nữa, cạnh tranh không phải là sự hủy diệt mà là sự thay thế, thay thế những doanh nghiệp khác kinh doanh có hiệu quả hơn, đáp ứng được nhu cầu xã hội, thúc đẩy nền kinh tế mỗi quốc gia phát triển. Nhận thức được vấn đề này, các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trong thời kỳ đầu của nền kinh tế thị trường phải không ngừng tích lũy những kiến thức, sẵn sàng có những ứng xử cần thiết và thích hợp trước những hoàn cảnh khác nhau do cạnh tranh mang lại cho doanh nghiệp, cho nền kinh tế và đất nước. II. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. 1. Khái niệm về sức cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và các cấp độ của năng lực cạnh tranh Sức cạnh tranh là khái niệm được dùng cho phạm vi doanh nghiệp trong lý thuyết tổ chức các doanh nghiệp. Một doanh nghiệp được coi là có sức cạnh tranh (hay năng lực cạnh tranh) và được đánh giá là có thể đứng vững cựng cỏc nhà sản xuất khác, khi các sản phẩm thay thế hoặc các sản phẩm tương tự được đưa ra với mức giá thấp hơn các sản phẩm cùng loại, hoặc cung cấp các sản phẩm tương tự được đưa ra với mức giá thấp hơn các sản phẩm cùng loại. Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đã lựa chọn một định nghĩa cố gắng kết hợp cho cả doanh nghiệp, ngành và quốc gia như sau: “Sức cạnh tranh là khả năng của các doanh nghiệp, ngành, quốc gia, khu vực trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế”. Năng lực cạnh tranh là khả năng giành được thị phần lớn trước các đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Theo định nghĩa này, có thể đồng nhất bốn thuật ngữ hiện đang được sử dụng: năng lực cạnh tranh, sức cạnh tranh, khả năng cạnh tranh và tính cạnh tranh đều có nội dung tương tự nhau. Năng lực cạnh tranh được chia làm bốn cấp độ: năng lực cạnh tranh cấp độ quốc gia, năng lực cạnh tranh cấp độ ngành, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bị hạn chế khi năng lực cạnh tranh cấp quốc gia và của sản phẩm doanh nghiệp đó đều thấp. Mặt khác, năng lực cạnh tranh quốc gia thể hiện qua môi trường kinh doanh, cạnh tranh quốc tế và trong nước. Năng lực cạnh tranh cấp ngành có mối quan hệ và chịu ảnh hưởng của năng lực cạnh tranh quốc gia và của sản phẩm tương tự như năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nên không đề cập đến. 1.1 Năng lực cạnh tranh cấp độ quốc gia Trong một báo cáo về tính cạnh tranh tổng thể của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) năm 1997 đã nêu ra: “năng lực cạnh tranh của một quốc gia là năng lực của nền kinh tế quốc dân nhằm đạt được và duy trì mức tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế bền vững tương đối và các đặc trưng kinh tế khỏc”. Như vậy, năng lực cạnh tranh cấp quốc gia có thể được hiểu là việc xây dựng một môi trường cạnh tranh kinh tế chung, đảm bảo phân bố có hiệu quả các nguồn lực, để đạt và duy trì mức tăng trưởng cao, bền vững. Môi trường cạnh tranh kinh tế chung có ý nghĩa rất lơn với việc thúc đẩy quá trình đầu tư, tự điều chỉnh, lựa chọn của các nhà kinh doanh, các doanh nghiệp theo các tín hiệu thị trường được thông tin đầy đủ. Mặt khác, môi trường cạnh tranh thuận lợi sẽ tạo khả năng cho chính phủ hoạch định chính sách phát triển, cải thiện đầu tư, tăng cường hợp tác quốc tế, và hội nhập ngày càng có hiệu quả, sẽ ảnh hưởng quyết định đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Ngoài những yếu tố về tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý kinh tế…cũn cú tỏm yếu tố chủ yếu tác động đến năng lực cạnh tranh quốc gia: Độ mở cửa kinh tế, vai trò của chính phủ-vai trò và mức độ can thiệp của Nhà nước vào hoạt động cạnh tranh, tài chính ngân hàng, công nghệ-mức độ đầu tư cho nghiên cứu triển khai (R&D), trình độ công nghệ và tích lũy kiến thức công nghệ, cơ sở hạ tầng, hệ thống quản lý, chất lượng quản lý nói chung, l
Tài liệu liên quan