Chuyên đề Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản của công ty xuất nhập khẩu Intimex

Việt Nam chính thức khởi xướng công cuộc đổi mới nền kinh tế từ năm 1986. Đây là một quyết định quan trọng mở ra một bước ngoặt cho nền kinh tế nước ta. Kể từ đó Việt Nam đã có nhiều thay đổi to lớn, trước hết là sự đổi mới về tư duy kinh tế, chuyển đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đa dạng hóa và đa phương hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại, thực hiện mở cửa, hội nhập quốc tế. Con đường đổi mới đó đã giúp Việt Nam giảm nhanh được tình trạng nghèo đói, bước đầu xây dựng nền kinh tế công nghiệp hóa, đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đi đôi với sự công bằng trong xã hội, vị thế của nước ta ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Tư duy “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các quốc gia và dân tộc trên thế giới” được coi là bước đột phá, góp phần thiết lập và mở rộng thị trường xuất nhập khẩu và đối tác thương mại, thể hiện: tổng mức lưu chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu bình quân từ năm 1986-2005 là 20,7 tỷ USD/năm (gấp 7 lần năm 1985), tốc độ tăng trưởng của các thời kỳ rất cao, tính từ năm 1986-2005 tốc độ tăng trưởng bình quân của xuất khẩu là 21,2%/năm, kim ngạch xuất khẩu tăng gần 40 lần từ 789 triệu USD (1986) lên 32,4 tỷ USD (2005). Với những đặc trưng về khí hậu, địa hình, đất đai và cả yếu tố con người, Việt Nam có thế mạnh để phát triển các loại cây nông nghiệp như gạo, chè, cà phê, hạt tiêu chính các mặt hàng này đã đóng góp một phần không nhỏ vào thành tựu phát triển của Việt Nam. Từ chỗ phải nhập khẩu ròng lương thực hiện nay nước ta đã trở thành nước xuất khẩu gạo thứ hai thế giới, xuất khẩu cà phê thứ ba thế giới Cùng với sự tăng trưởng về quy mô xuất nhập khẩu, các đơn vị tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu cũng tăng lên nhanh chóng. Với tư cách là một doanh nghiệp nhà nước kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, Intimex đã tìm cho mình một hướng đi đúng đắn, đó là tập trung đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản, mặt hàng mà Việt Nam có lợi thế so sánh so với các quốc gia khác trên thế giới. Tuy nhiên sau hơn 20 năm kể từ ngày mở cửa bước ra thị trường thế giới, bên cạnh những thành tựu to lớn đạt được thì việc xuất khẩu mặt hàng nông sản nói chung và của công ty Intimex nói riêng vẫn còn gặp nhiều bất cập cần khắc phục để hoạt động xuất khẩu nông sản ngày càng phát triển mạnh hơn và đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Qua thời gian thực tập tại công ty, em nhận thấy việc xác định nguyên nhân và đề ra những giải pháp để đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu của công ty là một vấn đề cấp bách. Chính vì vậy em đã quyết định chọn đề tài: “Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản của công ty xuất nhập khẩu Intimex” làm đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp của mình. Ngoài lời mở đầu và kết luận, kết cấu của chuyên đề gồm 3 chương như sau: Chương 1: Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu nói chung và xuất khẩu nông sản nói riêng. Chương 2: Thực trạng hoạt động xuất khẩu nông sản của công ty xuất nhập khẩu Intimex. Chương 3: Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản của công ty xuất nhập khẩu Intimex. Do hạn chế về thời gian và kinh nghiệm thực tế nên bài viết của em khó tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của các thầy cô giáo để bài viết của em được hoàn thiện hơn.

doc83 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1205 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản của công ty xuất nhập khẩu Intimex, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Việt Nam chính thức khởi xướng công cuộc đổi mới nền kinh tế từ năm 1986. Đây là một quyết định quan trọng mở ra một bước ngoặt cho nền kinh tế nước ta. Kể từ đó Việt Nam đã có nhiều thay đổi to lớn, trước hết là sự đổi mới về tư duy kinh tế, chuyển đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đa dạng hóa và đa phương hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại, thực hiện mở cửa, hội nhập quốc tế. Con đường đổi mới đó đã giúp Việt Nam giảm nhanh được tình trạng nghèo đói, bước đầu xây dựng nền kinh tế công nghiệp hóa, đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đi đôi với sự công bằng trong xã hội, vị thế của nước ta ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Tư duy “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các quốc gia và dân tộc trên thế giới” được coi là bước đột phá, góp phần thiết lập và mở rộng thị trường xuất nhập khẩu và đối tác thương mại, thể hiện: tổng mức lưu chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu bình quân từ năm 1986-2005 là 20,7 tỷ USD/năm (gấp 7 lần năm 1985), tốc độ tăng trưởng của các thời kỳ rất cao, tính từ năm 1986-2005 tốc độ tăng trưởng bình quân của xuất khẩu là 21,2%/năm, kim ngạch xuất khẩu tăng gần 40 lần từ 789 triệu USD (1986) lên 32,4 tỷ USD (2005). Với những đặc trưng về khí hậu, địa hình, đất đai và cả yếu tố con người, Việt Nam có thế mạnh để phát triển các loại cây nông nghiệp như gạo, chè, cà phê, hạt tiêu… chính các mặt hàng này đã đóng góp một phần không nhỏ vào thành tựu phát triển của Việt Nam. Từ chỗ phải nhập khẩu ròng lương thực hiện nay nước ta đã trở thành nước xuất khẩu gạo thứ hai thế giới, xuất khẩu cà phê thứ ba thế giới… Cùng với sự tăng trưởng về quy mô xuất nhập khẩu, các đơn vị tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu cũng tăng lên nhanh chóng. Với tư cách là một doanh nghiệp nhà nước kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, Intimex đã tìm cho mình một hướng đi đúng đắn, đó là tập trung đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản, mặt hàng mà Việt Nam có lợi thế so sánh so với các quốc gia khác trên thế giới. Tuy nhiên sau hơn 20 năm kể từ ngày mở cửa bước ra thị trường thế giới, bên cạnh những thành tựu to lớn đạt được thì việc xuất khẩu mặt hàng nông sản nói chung và của công ty Intimex nói riêng vẫn còn gặp nhiều bất cập cần khắc phục để hoạt động xuất khẩu nông sản ngày càng phát triển mạnh hơn và đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Qua thời gian thực tập tại công ty, em nhận thấy việc xác định nguyên nhân và đề ra những giải pháp để đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu của công ty là một vấn đề cấp bách. Chính vì vậy em đã quyết định chọn đề tài: “Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản của công ty xuất nhập khẩu Intimex” làm đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp của mình. Ngoài lời mở đầu và kết luận, kết cấu của chuyên đề gồm 3 chương như sau: Chương 1: Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu nói chung và xuất khẩu nông sản nói riêng. Chương 2: Thực trạng hoạt động xuất khẩu nông sản của công ty xuất nhập khẩu Intimex. Chương 3: Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản của công ty xuất nhập khẩu Intimex. Do hạn chế về thời gian và kinh nghiệm thực tế nên bài viết của em khó tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của các thầy cô giáo để bài viết của em được hoàn thiện hơn. CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG HÓA CỦA DOANH NGHIỆP XUẤT KHẨU Vai trò và nội dung của hoạt động xuất khẩu ở doanh nghiệp. Khái niệm xuất khẩu: Xuất khẩu là một hoạt động kinh doanh thu doanh lợi bằng cách bán sản phẩm, hàng hóa, hoặc dịch vụ ra thị trường nước ngoài. Sản phẩm hay dịch vụ ấy phải di chuyển ra khỏi biên giới của một quốc gia. Xuất khẩu đã được thừa nhận là một hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại, là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Việc mở rộng xuất khẩu để tăng thu nhập ngoại tệ cho đất nước và cho nhu cầu nhập khẩu phục vụ cho sự phát triển kinh tế là một mục tiêu quan trọng nhất của chính sách thương mại. Nhà nước đã và đang thực hiện các biện pháp thúc đẩy các ngành kinh tế hướng theo xuất khẩu, khuyến khích khu vực tư nhân mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm và tăng thu ngoại tệ cho đất nước. Hoạt động xuất khẩu xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử phát triển của xã hội. Đây là một hoạt động tất yếu diễn ra khi mà sản xuất vượt quá nhu cầu tiêu dùng trong nước và hoạt động này ngày càng được phát triển mạnh mẽ khi trình độ chuyên môn hóa sản xuất của các quốc gia ngày càng sâu sắc. Để đáp ứng nhu cầu đa dạng của mình, các quốc gia buộc phải trao đổi với nhau để lấy những sản phẩm mình không sản xuất được hoặc sản xuất không đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước từ các quốc gia khác. Đời sống xã hội ngày càng phát triển thì hoạt động xuất khẩu càng có cơ hội phát triển mạnh. Hiện nay, hoạt động này đã phát triển rất mạnh cả về chiều rộng lẫn chiều sâu và được tất cả các quốc gia trên thế giới quan tâm. Hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động xuất khẩu cũng đang được điều chỉnh và hoàn thiện liên tục. Vai trò của xuất khẩu đối với quá trình phát triển kinh tế Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, góp phần tăng dự trữ ngoại tệ, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Công nghiệp hóa đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu để đưa đất nước phát triển, thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Để có nguồn vốn lớn phục vụ cho việc nhập khẩu máy móc thiết bị, công cụ sản xuất mới để đầu tư cho sản xuất trong nước, chúng ta có thể huy động từ rất nhiều nguồn khác nhau như vốn từ xuất khẩu hàng hóa, đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ…nhưng nguồn vốn quan trọng và an toàn bền vững nhất là nguồn vốn có được từ hoạt động xuất khẩu vì nó thể hiện nội lực của nền kinh tế và không phải chấp nhận bất cứ điều kiện nào từ phía nhà cung cấp vốn. Trong tương lai nguồn vốn bên ngoài sẽ tăng lên nhưng mọi cơ hội đầu tư và vay nợ của nước ngoài, của các tổ chức quốc tế chỉ thuận lợi khi họ thấy được khả năng xuất khẩu (nguồn chủ yếu để trả nợ) trở thành hiện thực. Tăng cường hoạt động xuất khẩu, thu về càng nhiều ngoại tệ cho đất nước thì càng tạo ra nguồn vốn lớn để đầu tư máy móc trang thiết bị hiện đại góp phần đẩy mạnh hoạt động sản xuất trong nước và nhờ đó đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất và phân công lao động quốc tế phát triển. Nhờ những thành quả của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật mà cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã có những thay đổi mạnh mẽ. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là tất yếu đối với nước ta. Khi hoạt động xuất khẩu ngày càng phát triển thì các ngành kinh tế có thế mạnh của mỗi quốc gia sẽ ngày càng phát triển và các ngành có hiệu quả thấp sẽ ngày càng bị thu hẹp lại. Dần dần mỗi quốc gia sẽ tập trung phát triển các mặt hàng chủ lực và có lợi thế so sánh so với các quốc gia khác làm cho phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc. Xuất khẩu còn tác động to lớn đến hoạt động sản xuất, thể hiện ở những điểm sau: Xuất khẩu phát triển giúp mở rộng thị trường tiêu thụ cho sản xuất, thúc đẩy sản xuất ngày càng phát triển. Xuất khẩu phát triển tạo điều kiện để phát triển các ngành có liên quan, tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất góp phần cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước bằng cách tận dụng nguồn vốn và kỹ thuật công nghệ từ các nước phát triển trên thế giới vào Việt Nam để tạo ra năng lực sản xuất mới cho nền kinh tế. Thông qua hoạt động xuất khẩu, chúng ta phải tham gia vào cuộc cạnh tranh khốc liệt trên thị trường thế giới như cạnh tranh về giá cả, chất lượng sản phẩm…làm cho các doanh nghiệp phải tổ chức lại hoạt động sản xuất và hoàn thiện công tác quản trị sản xuất cho phù hợp với nhu cầu thị trường. Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân. Xuất khẩu tác động trực tiếp đến sản xuất làm cho cả quy mô và tốc độ sản xuất tăng lên, các ngành nghề cũ được khôi phục, các ngành nghề mới ra đời thu hút ngày càng nhiều lao động. Sản xuất, chế biến và dịch vụ hàng xuất khẩu đang trực tiếp là nơi thu hút hàng triệu lao động nhàn rỗi. Điều này sẽ góp phần giải quyết nhu cầu việc làm và tạo ra thu nhập cho người lao động. Nhờ đó mà tình hình trật tự an toàn xã hội và đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện. Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu những sản phẩm tiêu dùng (những sản phẩm trong nước không sản xuất hoặc sản xuất không đáp ứng đủ nhu cầu) góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại, thúc đẩy giao lưu kinh tế văn hóa xã hội giữa các quốc gia. Hoạt động xuất khẩu và các quan hệ kinh tế văn hóa xã hội có sự tác động qua lại và phụ thuộc lẫn nhau. Xuất khẩu phát triển thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế, phát triển và tăng cường giao lưu văn hóa chính trị giữa các quốc gia. Ngược lại khi các quan hệ kinh tế đối ngoại, quan hệ văn hóa chính trị giữa các quốc gia phát triển sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển và mở rộng sản xuất. Tuy nhiên xuất khẩu cũng có một số nhược điểm như: Dễ gặp rủi ro nếu ít am hiểu thị trường nước ngoài, sản phẩm không phù hợp với nhu cầu thị trường, thiếu kinh nghiệm hoạt động hoặc khi chịu sự tác động của các thay đổi và các cơ chế chính sách của nước nhập khẩu. Chi phí vận chuyển cao làm cho việc xuất khẩu trở nên kém hiệu quả đặc biệt trong trường hợp các sản phẩm có giá trị gia tăng thấp. Thời gian vận chuyển kéo dài ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm và hiệu quả của hoạt động xuất khẩu. Nội dung của hoạt động xuất khẩu: Nghiên cứu và lựa chọn thị trường xuất khẩu Trước khi quyết định lựa chọn thị trường xuất khẩu, doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ đặc điểm của thị trường như: dung lượng thị trường, đặc điểm sở thích của khách hàng, các loại hàng hóa thay thế, các đối thủ cạnh tranh hiện có trên thị trường, thị trường đó có bị Chính phủ nước đó bảo hộ hay không…Sau khi đã nghiên cứu kỹ đặc điểm của thị trường, doanh nghiệp phải dựa trên một số chỉ tiêu như mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp, khả năng của doanh nghiệp, mức độ cạnh tranh trên thị trường và một số chỉ tiêu kinh tế chính trị xã hội của thị trường đó để xác định xem thị trường có đủ lớn hay không, có triển vọng không…sau đó doanh nghiệp sẽ quyết định lựa chọn thị trường mục tiêu mà doanh nghiệp hướng tới. Lập phương án kinh doanh Sau khi đã tiến hành nghiên cứu các thị trường xuất khẩu, các doanh nghiệp cần: Đánh giá thị trường (doanh nghiệp có nên xuất khẩu vào thị trường này hay không) và ghi lại các kết quả đánh giá. Xác định mục tiêu của phương án kinh doanh. Lựa chọn thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh. Đề xuất các biện pháp thực hiện để đạt được các mục tiêu trên một cách hiệu quả nhất. Tạo nguồn mua hàng xuất khẩu Việc tạo nguồn mua hàng xuất khẩu là một khâu cực kỳ quan trọng, là tiền đề và là yếu tố quyết định sự thành công của hoạt động xuất khẩu. Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu: nghiên cứu khả năng sản xuất, nhu cầu xuất khẩu, khả năng xuất khẩu và mức tiêu thụ của từng mặt hàng để xác định lượng thừa thiếu đối với từng mặt hàng xuất khẩu. Nghiên cứu các cơ sở sản xuất (năng lực sản xuất và cung ứng sản phẩm) trình độ kỹ thuật và tổ chức quản lý, tình hình trang thiết bị sản xuất…để đánh giá khả năng cung ứng bao nhiêu sản phẩm cho thị trường và với mức chất lượng sản phẩm như thế nào…từ đó xác định cách thức mua hàng xuất khẩu. Ngoài ra các doanh nghiệp cũng có thể chủ động tạo nguồn hàng xuất khẩu bằng cách đầu tư, hỗ trợ vốn cho người nông dân mua giống, phân bón…để sản xuất sau đó thu mua trực tiếp sản phẩm từ người nông dân. Ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu Sau khi các bên đã thỏa thuận và nhất trí các điều kiện mua bán thì mọi thỏa thuận của các bên phải được soạn thảo thành hợp đồng và phải được các bên ký kết chấp thuận. Hợp đồng phải thể hiện rõ và đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia. Sau khi hợp đồng được ký kết, các bên có liên quan tiến hành tổ chức thực hiện hợp đồng theo thời hạn đã thỏa thuận. Các hình thức xuất khẩu và những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu. Các hình thức xuất khẩu: Xuất khẩu trực tiếp Xuất khẩu trực tiếp là việc người bán và người mua trực tiếp gặp mặt (hoặc thông qua thư từ, điện tín…) để bàn bạc thỏa thuận về việc mua bán như thỏa thuận về giá cả, về hàng hóa và các điều kiện giao dịch khác. Hình thức này có nhiều ưu điểm như: nhà xuất khẩu nắm bắt được nhu cầu của thị trường do đó sẽ xây dựng chiến lược phù hợp để thỏa mãn tốt nhất nhu cầu thị trường và không bị chia sẻ lợi nhuận. Tuy nhiên hình thức này cũng có một số nhược điểm như: chi phí cao khiến cho việc xuất khẩu không hiệu quả đối với những doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Ngoài ra nó còn đòi hỏi doanh nghiệp phải có một đội ngũ nhân viên giỏi chuyên môn nghiệp vụ và giàu kinh nghiệm để có thể xử lý được những tình huống xảy ra trên thương trường. Nhưng đây lại là một điểm yếu của hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ của nước ta. Xuất khẩu gián tiếp Xuất khẩu gián tiếp là hình thức mua bán quốc tế thông qua trung gian. Trung gian phổ biến trong giao dịch quốc tế là đại lý và môi giới. Ưu điểm của hình thức trên là giảm bớt chi phí đầu tư cơ sở vật chất, chi phí nghiên cứu thị trường, chi phí vận tải…vì vậy giảm bớt rủi ro cho người ủy thác. Tuy nhiên nhà xuất khẩu bị mất liên hệ trực tiếp với thị trường, bị chia sẻ lợi nhuận, phải đáp ứng các yêu sách của đại lý, môi giới và một số trường hợp có thể bị các đại lý chiếm dụng vốn kinh doanh. Buôn bán đối lưu Buôn bán đối lưu (hay còn gọi là hình thức xuất nhập khẩu liên kết) là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, hai bên trao đổi với nhau một lượng hàng hóa có giá trị tương đương. Ở đây mục đích của xuất khẩu không phải nhằm thu ngoại tệ mà nhằm thu về một hàng hóa khác có giá trị tương đương. Các hình thức buôn bán đối lưu chủ yếu là hàng đổi hàng và trao đổi bù trừ. Tuy nhiên dù tiến hành giao dịch theo hình thức nào thì nguyên tắc quan trọng nhất trong phương thức này là nguyên tắc cân bằng. Nguyên tắc này được thể hiện ở những điểm sau: cân bằng về mặt hàng, cân bằng về điều kiện giao dịch, cân bằng về cơ sở giá cả và cân bằng về tổng giá trị hàng giao cho nhau. Giao dịch tại sở giao dịch hàng hóa Sở giao dịch hàng hóa là một thị trường đặc biệt, tại đó thông qua những người môi giới do sở giao dịch chỉ định, bên mua và bên bán thỏa thuận và thực hiện hoạt động mua bán. Các loại hàng hóa sử dụng hình thức này thường là những hàng hóa có khối lượng lớn, tính đồng nhất cao, có phẩm chất có thể thay thế được cho nhau. Hình thức tái xuất khẩu Tái xuất khẩu là hình thức xuất khẩu trở lại sang các nước khác những hàng hóa đã mua ở nước ngoài nhưng chưa qua chế biến ở nước tái xuất nhằm mục đích thu lời qua chênh lệch giá mua giá bán. Đây là loại giao dịch liên quan đến ít nhất 3 nước tham gia: nước xuất khẩu, nước tái xuất và nước nhập khẩu. Tuy nhiên để thực hiện được hình thức này doanh nghiệp phải có kinh nghiệm kinh doanh, am hiểu về thị trường và giá cả, có nhiều bạn hàng ở nước ngoài, có đội ngũ nhân viên giỏi về nghiệp vụ thanh toán. Đấu thầu quốc tế Đây là hình thức giao dịch đặc biệt trong đó người mua công bố trước điều kiện mua hàng để người bán báo giá mình muốn bán. Sau đó người mua sẽ chọn mua hàng của người nào bán giá rẻ nhất và điều kiện tín dụng phù hợp hơn cả với những điều kiện đã nêu. Trong hoạt động xuất nhập khẩu có rất nhiều phương thức giao dịch. Mỗi phương thức giao dịch đều có những đặc thù riêng, có ưu và nhược điểm khác nhau. Để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu mỗi doanh nghiệp tùy vào điều kiện kinh doanh của mình sẽ lựa chọn phương thức giao dịch thích hợp hoặc biết cách phối hợp lựa chọn nhiều phương thức giao dịch cùng lúc. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu Nhân tố bên ngoài doanh nghiệp Lợi thế so sánh của nước xuất khẩu so với lợi thế của các nước xuất khẩu khác do điều kiện tự nhiên, khí hậu, đất đai, tài nguyên…làm cho sản phẩm xuất khẩu của nước đó có chất lượng tốt, giá thành thấp hơn so với sản phẩm cùng chủng loại của nước xuất khẩu khác. Ví dụ lợi thế của Việt Nam là gạo, cà phê, cao su, trà… Chính sách khuyến khích xuất khẩu của nhà nước như giảm thuế xuất khẩu, cấp tín dụng ưu đãi với lãi suất thấp cho công ty xuất khẩu, có cơ quan nghiên cứu thị trường nước ngoài và phổ biến các thông tin cần thiết về sản phẩm và thị trường cho nhà xuất khẩu biết không. Ở Việt Nam là cơ quan xúc tiến thương mại thuộc bộ thương mại. Tỷ giá giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Nếu đồng tiền trong nước mất giá so với đôla Mỹ sẽ có lợi cho nhà xuất khẩu vì hàng bán ra nước ngoài với giá thấp nên tính cạnh tranh cao. Trái lại, đồng tiền trong nước tăng giá so với USD, giá bán ra nước ngoài sẽ cao, khó cạnh tranh với hàng hóa của các nước khác. Các cơ hội đặc biệt trong thị trường xuất khẩu, tức là những cơ hội đột xuất giúp cho công ty xuất khẩu được nhiều hàng hóa hơn các trường hợp thông thường do thị trường xuất khẩu đột nhiên bị hút hàng hoặc do thị trường nhập khẩu cấm nhập khẩu hàng cùng chủng loại từ một nước xuất khẩu khác. Tuy nhiên các cơ hội này không nhiều. Nhân tố bên trong doanh nghiệp Công ty có sẵn sàng về mặt tổ chức để xuất khẩu hay chưa. Hoạt động tổ chức của công ty bao gồm các yếu tố : Năng lực chế biến, máy móc thiết bị có hiện đại và đầy đủ không Tình hình quản trị và tổ chức của công ty có đủ người, đủ tay nghề và biết nghiệp vụ xuất nhập khẩu không Nguồn tài chính có đầy đủ và dồi dào để điều tra thị trường, quảng cáo, tiếp thị sản phẩm hay không. Bí quyết về marketing Kinh nghiệm xuất khẩu có chưa hay chỉ mới bắt đầu tham gia vào thị trường. Công ty có sẵn sàng về sản phẩm để xuất khẩu chưa, có đủ lượng hàng để xuất khẩu không hay cần phải tăng cường máy móc, thiết bị, nguyên liệu…Sản phẩm có đáp ứng đúng yêu cầu về thị trường xuất khẩu không, sản phẩm có đạt tiêu chuẩn ISO chưa vì nếu hàng hóa không đạt tiêu chuẩn xuất khẩu sẽ không xuất khẩu được hay xuất khẩu với giá thấp hơn mức giá bình quân trên thị trường thế giới. Xuất khẩu nông sản và những nhân tố ảnh hưởng. Vị trí vai trò của hoạt động xuất khẩu nông sản Vị trí của hoạt động xuất khẩu nông sản Đất nước ta tiến hành xây dựng nền kinh tế từ một xuất phát điểm thấp tuy nhiên bù lại nước ta nằm trong khu vực có điều kiện tự nhiên, địa chất, địa hình thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Vì thế nông nghiệp là ngành khởi đầu đóng vai trò quan trọng, là tiền đề trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Phương thức sản xuất nông nghiệp ở nước ta rất phong phú, phối hợp từ những cách thức đơn giản nhất như hoàn toàn sử dụng sức người đến việc sản xuất bằng máy móc thiết bị hiện đại. Tuy nhiên nông nghiệp vẫn là lĩnh vực cần nhiều lao động, vì không thể hoàn toàn sản xuất bằng máy móc. Ở Việt Nam nông sản đã trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực hơn 10 năm qua và ngày càng giữ vai trò quan trọng. So sánh với các mặt hàng xuất khẩu khác thì tỷ lệ chi phí có nguồn gốc ngoại tệ của hàng nông sản xuất khẩu rất thấp, vì vậy với cùng một lượng kim ngạch xuất khẩu thu về như nhau thì thu nhập ngoại tệ ròng của hàng nông sản xuất khẩu cao hơn các mặt hàng khác rất nhiều. Nông nghiệp là ngành có liên quan chặt chẽ với sự phát triển của các ngành công nghiệp khác, có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Mặc dù tỷ trọng của khu vực nông nghiệp trong GDP có xu hướng ngày càng giảm xuống nhưng không phải vì thế mà ta cũng giảm nhẹ vai trò của nó. Đây là một ngành không thể thiếu được vì nó liên quan trực tiếp đến sự tồn tại của con người và khi ngành này phát triển sẽ thúc đẩy sự phát triển của một số ngành công nghiệp khác. Hiện nay nông nghiệp đóng góp 30% GDP và thu hút hơn 52% số lượng lao động. Nông sản là mặt hàng xuất khẩu quan trọng hàng đầu của nước
Tài liệu liên quan