Chuyên đề Một số giải pháp và kiến nghị góp phần phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng Shinhanvina

Tín dụng có một vai trò rất quan trọng. Nó đáp ứng được các nhu cầu về vốn để từ đó các doanh nghiệp duy trì và mở rộng sản xuất kinh doanh, thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất, kích thích tăng trưởng kinh tế. Cụ thể với những lĩnh vực, tổ chức kinh tế mà tín dụng có những vai trò quan trọng khác nhau. Đối với các tổ chức kinh tế, tín dụng tác động đến các doanh nghiệp giúp họ tăng cường hạch toán kinh doanh dựa trên cơ sở tính toán, cân nhắc kỹ mọi chi phí trong hoạt động sản xuất, nhằm giảm thiểu mọi chi phí không cần thiết để nâng cao hiệu quả sản xuất. Đối với lưu thông tiền tệ, tín dụng góp phần làm tăng hoặc giảm khối lượng tiền trong lưu thông. Nhờ đó, NHNN có thể điều tiết khối lượng tiền ra và vào lưu thông cho phù hợp để chống lạm phát, ổn định tiền tệ. thông qua thị trường mở, nghiệp vụ tái chiết khấu. Đối với hoạt động kinh tế đối ngoại, tín dụng tạo điều kiện phát triển các quan hệ kinh tế giữa các nước vì hiện nay kinh tế thế giới đang trong giai đoạn hoà nhập liên kết với nhau. Vì vậy, tín dụng là công cụ hữu hiệu để nối liền nền kinh tế các nước, nó đóng vai trò không thể thiếu trong quan hệ thương mại quốc tế, mở rộng xuất nhập khẩu hay thu hút vốn từ bên ngoài để phát triển kinh tế trong nước. Ngoài ra, tín dụng còn là công cụ để Nhà nước tài trợ cho các ngành kinh tế mũi nhọn, các ngành nghề truyền thống hay việc xoá đói giảm nghèo. thông qua chính sách lãi xuất tín dụng ưu đãi để từ đó thúc đẩy nhiều ngành nghề cùng phát triển, giải quyết tốt vấn đề công ăn việc làm cho người lao động cũng như các vấn đề chính trị - xã hội.

doc52 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1186 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp và kiến nghị góp phần phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng Shinhanvina, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuơng 2 : Thực trạng rủi ro tín dụng tại ngân hàng Shinhanvina 2.1 Rủi ro tín dụng đối với hoạt động của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường Tín dụng: Khái niệm về tín dụng: Tín dụng là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó có một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia được sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản cam kết hoàn trả theo thời hạn đã thoả thuận. 2.1.1.2 Vai trò của tín dụng: Tín dụng có một vai trò rất quan trọng. Nó đáp ứng được các nhu cầu về vốn để từ đó các doanh nghiệp duy trì và mở rộng sản xuất kinh doanh, thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất, kích thích tăng trưởng kinh tế. Cụ thể với những lĩnh vực, tổ chức kinh tế mà tín dụng có những vai trò quan trọng khác nhau. Đối với các tổ chức kinh tế, tín dụng tác động đến các doanh nghiệp giúp họ tăng cường hạch toán kinh doanh dựa trên cơ sở tính toán, cân nhắc kỹ mọi chi phí trong hoạt động sản xuất, nhằm giảm thiểu mọi chi phí không cần thiết để nâng cao hiệu quả sản xuất. Đối với lưu thông tiền tệ, tín dụng góp phần làm tăng hoặc giảm khối lượng tiền trong lưu thông. Nhờ đó, NHNN có thể điều tiết khối lượng tiền ra và vào lưu thông cho phù hợp để chống lạm phát, ổn định tiền tệ... thông qua thị trường mở, nghiệp vụ tái chiết khấu... Đối với hoạt động kinh tế đối ngoại, tín dụng tạo điều kiện phát triển các quan hệ kinh tế giữa các nước vì hiện nay kinh tế thế giới đang trong giai đoạn hoà nhập liên kết với nhau. Vì vậy, tín dụng là công cụ hữu hiệu để nối liền nền kinh tế các nước, nó đóng vai trò không thể thiếu trong quan hệ thương mại quốc tế, mở rộng xuất nhập khẩu hay thu hút vốn từ bên ngoài để phát triển kinh tế trong nước. Ngoài ra, tín dụng còn là công cụ để Nhà nước tài trợ cho các ngành kinh tế mũi nhọn, các ngành nghề truyền thống hay việc xoá đói giảm nghèo... thông qua chính sách lãi xuất tín dụng ưu đãi để từ đó thúc đẩy nhiều ngành nghề cùng phát triển, giải quyết tốt vấn đề công ăn việc làm cho người lao động cũng như các vấn đề chính trị - xã hội. Các rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Hoạt động của NHTM rất đa dạng và phong phú nên rủi ro cũng theo đó mà phát sinh dưới hình thức gây ra thiệt hại không chỉ đơn thuần về của cải vật chất của ngân hàng mà còn thiệt hại đến cả uy tín của ngân hàng và những thiệt hại mà xã hội phải gánh chịu. Một ngân hàng thành công trong hoạt động kinh doanh không chỉ có những cán bộ chuyên môn giỏi mà còn phải am hiểu nhiều lĩnh vực và đặc biệt phải có phẩm chất đạo đức tốt, có tinh thần trách nhiệm cao với công việc. Tuy nhiên, trong kinh doanh ngân hàng có nhiều rủi ro như sau: Rủi ro thuần tuý: Rủi ro này là rủi ro nảy sinh do biến động của thiên nhiên mang lại như thiên tai, hoả hoạn, động đất, núi lửa... hoặc các rủi ro do bản thân con người gây ra như lừa đảo, trộm cắp, tham nhũng... làm thiệt hại phá hủy các tài sản của ngân hàng. Những rủi ro tác động của thiên nhiên rất khó phòng tránh mà chỉ có thể làm giảm tối đa hậu quả do nó gây ra. Còn rủi ro do con người gây ra tuy rất tinh vi, gây nhiều thiệt hại lớn về mặt kinh tế song bằng các văn bản pháp luật, bằng công tác thanh tra kiểm soát ngặt nghèo thì không những hạn chế mà còn phòng tránh được loại rủi ro này xảy ra. Rủi ro lãi suất: Lãi suất là chi phí về vay hoặc giá phải trả để thuê vốn trong thời gian xác định. Trong cơ chế thị trường lãi suất phản ánh một cách nhạy cảm nhu cầu về vốn nên nó luôn biến động và gây ra nhiều tổn thất ảnh hưởng đến các hoạt động của ngân hàng như: công tác huy động vốn, nghiệp vụ cho vay. Rủi ro về lãi suất là thiệt hại gây ra với Ngân hàng khi có biến động lãi suất trên thị trường. Rủi ro lãi suất gây thiệt hại về của cải vật chất cho ngân hàng. Chẳng hạn ngân hàng đã huy động vốn để cho vay với lãi suất nhất định và thiệt hại sẽ xảy ra khi lãi suất thị trường tăng lên. Ngược lại, khi nhận vốn một thời hạn với lãi suất ổn định sẽ thiệt hại khi lãi suất thị trường giảm xuống. Rủi ro hối đoái: Rủi ro hối đoái là loại rủi ro do biến động của thị trường ngoại hối mang lại tỷ giá hối đoái luôn luôn biến động đòi hỏi công tác quản lý ngoại hối phải hết sức linh hoạt, nhậy bén để hạn chế rủi ro có thể xảy ra đồng thời đảm bảo mục tiêu lợi nhuận trong kinh doanh. Rủi ro hạch toán. Đây là loại rủi ro nảy sinh do nhầm lẫn, sai sót hay bị lợi dụng trong quá trình thanh toán séc, thanh toán điện tử... Rủi ro về nguồn vốn: Nếu ngân hàng nằm trong tình trạng thừa vốn hoặc thiếu vốn quá dài sẽ gây bất lợi cho ngân hàng nhiều khi còn dẫn đến phá sản vì vậy ngân hàng phải luôn đề phòng bằng việc tính toán, duy trì một hệ thống vốn khả dụng phù hợp với Ngân hàng mình. Rủi ro mất khả năng chi trả: Đây là loại rủi ro riêng có của ngân hàng và liên quan đến sự sống còn của doanh nghiệp hay ngân hàng. Rủi ro này thường là do hậu quả của một hay nhiều rủi ro trên gây nên. Rủi ro tín dụng. Đây là loại rủi ro lớn nhất và thường xuyên xảy ra gây thiệt hại đáng kể cho ngân hàng. Rủi ro trong kinh doanh tín dụng của Ngân hàng thương mại. 2.1.3.1 Tại sao cần phải quan tâm đến rủi ro tín dụng. Có rất nhiều lý do tại sao người ta quan tâm đến vấn đề rủi ro trong kinh doanh tín dụng. Nhiệm vụ đầu tiên của ngân hàng là bảo vệ tiền gửi của khách hàng. Nếu một khoản cho vay nào đó bị thất thoát (không thu hồi được) thì trước tiên làm cho ngân hàng không có khả năng thanh toán cho người gửi tiền. Ngân hàng cũng phải có trách nhiệm với các cổ đông, phải đảm bảo mức chia lãi cổ phần hợp lý cũng như đảm bảo mức lương nhất định đối với nhân viên ngân hàng. Vì lý do đó, ngân hàng luôn phải thận trọng, nhất là khi cho vay nhằm giảm tối thiểu những thất thoát trong hoạt động tín dụng. Ngân hàng trung ương của bất kỳ quốc gia nào cũng đều có nhiệm vụ đảm bảo hệ thống ngân hàng thương mại hoạt động một cách an toàn và ổn định. Vì rằng, nếu có sự thất thoát trong hoạt động tín dụng nào đó, dù chỉ ở một ngân hàng và ở một mức nhất định cũng sẽ đe doạ đến tính an toàn và tính ổn định trong toàn hệ thống. Vì lẽ đó mà các ngân hàng trung ương đều quy định mọi ngân hàng phải tuân thủ quy trình phân tích rủi ro trong cho vay. Để đảm bảo quy trình này luôn được các NHTM duy trì, NHTW thường xuyên tiến hành công tác thanh tra sổ sách và quy trình tín dụng của các NHTM. 2.1.3.2 Những dấu hiệu của rủi ro tín dụng. Với mục đích cố gắng ngăn chặn những rủi ro trong hoạt động tín dụng, người điều hành ngân hàng phải hiểu được rằng vì sao những rủi ro này có thể xảy ra? Khi xem xét những rủi ro trong cho vay, nhân viên tín dụng phải xem những rủi ro này phát sinh do những nguyên nhân từ phía ngân hàng gây ra hay do những yếu tố khách quan từ môi trường bên ngoài. Một số dấu hiệu báo trước. Trải qua kinh nghiệm thực tế, trong hoạt động tín dụng người ta thấy rằng mỗi khi xảy ra rủi ro tín dụng thì thường trước đó là sự xuất hiện những dấu hiệu không bình thường từ phía người đi vay. Những dấu hiệu này không phải bao giờ cũng trùng khớp nhau trong mọi trường hợp, tuy nhiên chúng đều có những chi tiết tương tự nhau. Các NHTM đã thống kê ra các dấu hiệu chủ yếu sau: - Việc trì hoãn nộp báo cáo kết quả kinh doanh. Báo cáo tổng kết kinh doanh là công cụ giúp nhân viên tín dụng có cái nhìn tổng quát về thực trạng kinh doanh hay chính xác hơn là việc sử dụng vốn vay của người đi vay vốn để qua đó dự đoán khả năng trả nợ của khách hàng. Vì vậy khi khách hàng trì hoãn việc nộp báo cáo tổng kết kinh doanh thì các nhân viên tín dụng phải xem xét và có phản ứng kịp thời để đảm bảo sự hoàn trả vốn và lãi cho ngân hàng. Tuy nhiên, các báo cáo tài chính có thể chưa phải là bức tranh về thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng, bởi lẽ vì những nguyên nhân khác nhau mà họ phải khai báo sai sự thật biến lỗ thành lãi. Do đó, việc tỉnh táo khi phân tích các báo cáo tài chính là điều kiện đảm bảo sự an toàn của các khoản tín dụng. Nó đòi hỏi nhân viên tín dụng phải có trình độ hiểu biết sâu rộng về các khía cạnh chính cũng như sự nhạy cảm về nghề nghiệp. - Hàng tồn kho của người vay tăng lên quá mức bình thường và công nợ gia tăng. - Chất lượng sản phẩm giảm sút làm mất uy tín trên thị trường dẫn đến khả năng tiêu thụ chậm khiến việc thu hồi vốn cũng giảm theo. - Có sự xáo trộn trong đội ngũ nhân viên như sự thay đổi giám đốc, xa thải công nhân... - Những thiệt hại của khách hàng do thiên tai gây ra như bão lụt, động đất... Khi một trong các dấu hiệu trên xảy ra với khách hàng của ngân hàng thì chắc chắn khả năng trả nợ của họ giảm sút vì họ đã gặp phải những rủi ro trong kinh doanh. Những rủi ro này khiến ngân hàng phải đưa ra các biện pháp xử lý như xác định những thiệt hại của khách, gia hạn nợ cho khách... Các biện pháp cho từng trường hợp cụ thể là rất khác nhau và đôi khi lại rất tế nhị. Chẳng hạn khi khách hàng là người làm ăn đúng đắn, và mặt hàng họ sản xuất lại đang tiêu thụ mạnh chẳng may bão lụt làm hư hại nhà xưởng thì ngân hàng vẫn nên cấp tín dụng cho họ để họ có thể vực dậy, giúp họ có khả năng hoàn trả các khoản nợ cũ và mới. Nợ quá hạn. Nợ quá hạn là dấu hiệu đầu tiên dễ gây ra rủi ro cho Ngân hàng và có thể hiểu là một khoản tín dụng được cấp ra nhưng không thể thu hồi đúng thời hạn do một số nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau. Với Ngân hàng thương mại đó là một trung gian tài chính là chiếc cầu giao lưu kinh tế nối bên thừa vốn với bên thiếu vốn, tạo điều kiện cho sản xuất và tái sản xuất được mở rộng và phát triển. Chính vì vậy, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của ngân hàng và khách hàng. Song xét tầm vĩ mô, nó còn ảnh hưởng đến cả nền kinh tế. Do đó nếu nợ quá hạn xảy ra sẽ gây khó khăn cho Ngân hàng, khách hàng và lớn hơn là nền kinh tế sẽ thiếu thốn trong một phạm vi thời gian nhất định. Nếu nợ qúa hạn xảy ra với quy mô lớn và việc thu hồi gặp nhiều khó khăn thì có thể sẽ gây ra áp lực dẫn đến lạm phát, làm giá cả tăng, nền kinh tế bất ổn. Các loại nợ quá hạn: + Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các nhà doanh nghiệp luôn xây dựng một kế hoạch sản xuất kinh doanh cho mình trong đó các vấn đề liên quan được xem xét cẩn thận đó là chi phí, thu nhập... Sau khi ngân hàng xem xét kế hoạch đó là khả thi, ngân hàng sẽ cấp tín dụng cho khách hàng. Song trong quá trình thực hiện kế hoạch kinh doanh của mình khách hàng có gặp những khó khăn nhất thời thì cũng là điều dễ hiểu. Trong trường hợp này khách hàng thường xin gia hạn ngân hàng vì chưa có khả năng chi trả. Vì thế món tín dụng này được coi là món nợ quá hạn có khả năng thanh toán. + Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi: Nó có thể xảy ra khi các doanh nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ, quản lý yếu kém, vi phạm nguyên tắc chế độ tài chính, sử dụng vốn tín dụng sai mục đích, tham ô... Một số khác do sự thay đổi của cơ chế chính sách, thiên tai, bão lụt... các doanh nghiệp đến kỳ hạn trả nợ nhưng không có khả năng thanh toán với Ngân hàng thì phải xin gia hạn hoặc tìm cách “đáo nợ” khả năng thu hồi vốn của Ngân hàng trong trường hợp này là rất kém. 2.1.3.3 Tác động của rủi ro tín dụng đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Rủi ro làm suy giảm uy tín của Ngân hàng. Một Ngân hàng có rủi ro lớn là một Ngân hàng hoạt động không tốt và tình hình đó sẽ được báo chí biết đến khiến mọi người mất lòng tin. Như vậy, khó lòng có thể huy động được nguồn vốn dồi dào. Các Ngân hàng nước ngoài vì thế mà lánh xa, không cấp các hạn mức tín dụng, không mở quan hệ đại lý... Rủi ro làm cho khả năng thanh toán của Ngân hàng giảm sút. Các khoản tín dụng có rủi ro khiến cho việc khoán trả gặp khó khăn trong lúc đó các khoản tiền gửi tiết kiệm của dân cư vẫn phải thanh toán đúng kỳ hạn. Trong lúc không huy động được nguồn vốn dồi dào do mất uy tín, cũng vì thế người rút tiền lại càng tăng lên. Kết quả là Ngân hàng gặp khó khăn trong khâu thanh toán. Rủi ro đưa đến là kết quả lợi nhuận suy giảm. Do rủi ro đưa đến những mất mát thiệt hại về tài chính, thêm vào đó là quá trình mở rộng hoạt động gặp khó khăn bế tắc, thu nhập thấp kết quả là giảm sút lợi nhuận. Rủi ro có thể dẫn tới phá sản. Nếu những tác động của những rủi ro nêu trên chóng được kịp thời ngăn chặn và cứ phát triển đến một độ nào đó sẽ đẩy Ngân hàng đến chỗ phá sản. 2.1.3.4 Những giải pháp nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng của Ngân hàng Thương mại. Nguyên tắc cơ bản để tránh rủi ro tín dụng. Một nguyên tắc quan trọng của Ngân hàng khi thực hiện cho vay đối với khách hàng đó là: “Đòi hỏi phải tiến hành kinh doanh một cách thận trọng “hay còn gọi là nguyên tắc thận trọng”. Vốn Vốn khả dụng Dự phòng Đầy đủ các hồ sơ và hệ thống Đảm bảo xem xét đầy đủ các yêu cầu từ nhiều gốc độ, từ nhiều nguồn thông tin Nguyên tắc cơ bản “Đòi hỏi một Ngân hàng tiến hành các hoạt động kinh doanh theo một nguyên tắc thận trọng Quy trình này sẽ xem xét như sau: Hướng dẫn khách hàng về điều kiện tín dụng và lập hồ sơ vay vốn. Điều tra, thu thập, tổng hợp các thông tin về khách hàng và phương án vay vốn. Phân tích - thẩm định khách hàng và phương án vay vốn. Quyết định cho vay. Kiểm tra và hoàn chỉnh hồ sơ cho vay và hồ sơ tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh. Gỉai ngân. Giám sát khách hàng sử dụng vốn vay và theo dõi rủi ro. Thu hồi nợ, gia hạn nợ. Xử lý rủi ro. Thanh lý hợp đồng vay vốn. Một số nguyên tắc đảm bảo an toàn tín dụng. + Công tác tổ chức Ngân hàng. Hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh chứa đựng rất nhiều rủi ro. Do đó, việc tổ chức một Ngân hàng hợp lý, khoa học sẽ dẫn đến hiệu quả làm việc rất cao, tạo được sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban cũng như giữa Ngân hàng với các chi nhánh, với toàn bộ hệ thống. Đây là cơ sở cho phép Ngân hàng quản lý cơ cấu tài sản và nguồn vốn cũng như huy động một cách hiệu quả. Do vậy, nếu công tác tổ chức Ngân hàng tốt sẽ tạo điều kiện quản lý có hiệu quả các khoản tín dụng cũng như việc phát hiện và xử lý kịp thời các khoản tín dụng có dấu hiệu không tốt. + Đội ngũ nhân viên. Hiệu quả hoạt động tín dụng Ngân hàng gắn liền với đội ngũ nhân viên Ngân hàng mà đặc biệt là nhân viên tín dụng. Do đó phẩm chất đạo đức và trình độ của nhân viên Ngân hàng là nhân tố quan trọng tác động đến thành bại của Ngân hàng Thương mại. Trong cơ chế kinh tế hiện nay, các thành phần kinh tế rất đa dạng, do đó nghiệp vụ kinh doanh tín dụng Ngân hàng ngày càng phát triển. Điều này đòi hỏi chất lượng ở đội ngũ nhân viên ngày một cao để có thể đáp ứng nhu cầu phát triển hiện tại, luôn học hỏi, trau dồi kiến thức để nhanh chóng nắm bắt và thích nghi với những yếu tố, điều kiện kinh doanh mới, phải am hiểu về các quy định của pháp luật. + Công tác thanh tra, kiểm soát. Công tác thanh tra, kiểm soát nhằm mục tiêu đo lường các hoạt động của nhân viên Ngân hàng, đảm bảo xem họ có thực hiện đúng các chế độ của Nhà nước hay không. Có nhiều cách để thực hiện công tác thanh tra kiểm soát như sử dụng báo cáo, thu thập thông tin, thanh tra tại chỗ... để qua đó tìm được thực trạng chính xác nhất của Ngân hàng. Kiểm toán Công ty cũng là một công cụ hữu hiệu trong công tác thanh tra, kiểm soát. Kiểm toán cùng với thanh tra tại chỗ là những biện pháp mạnh nhằm phát hiện kịp thời những sai sót để khắc phục, đồng thời xử lý đối với các trường hợp vi phạm chính sách chế độ, đảm bảo hoạt động Ngân hàng luôn lành mạnh và hiệu quả. + Chế độ tín dụng: Chế độ tín dụng phải dựa trên cơ sở khoa học phải phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật và trên hết phải dung hoà cả 3 lợi ích giữa người gửi tiền, người đi vay và ngân hàng. Đối với các NHTM, chính sách tín dụng đúng đắn sẽ đảm bảo khả năng cạnh tranh, mở rộng hoạt động kinh doanh tín dụng và đảm bảo khả năng lợi nhuận trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ theo pháp luật hiện hành. + Quá trình cho vay: Quá trình cho vay là toàn bộ hoạt động diễn ra từ khi ký quyết định vay đến khi Ngân hàng thu hồi lại được cả vốn và lãi. Quá trình cho vay có nhiều khâu vậy nên việc không cẩn trọng trong bất cứ khâu nào cũng có thể gây ra rủi ro tín dụng. Trong đó khâu quan trọng nhất là khâu thẩm định cho vay. Nếu khâu này được nhân viên tín dụng xem xét kỹ lưỡng sẽ là điều kiện tốt để Ngân hàng thu hồi được cả vốn và lãi, tạo điều kiện cho vốn tín dụng luân chuyển nhanh. + Thông tin tín dụng. Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, hoạt động tín dụng ngày càng đòi hỏi việc thu thập và xử lý lại thông tin về khách hàng. Trong quá trình thẩm tra để đi đến quyết định có hay không cho vay, các thông tin mà nhân viên tín dụng thu thập qua các kênh khác nhau đóng vai trò hết sức quan trọng. Nếu thông tin sai lệch mà nhân viên tín dụng xử lý kém sẽ dẫn đến rủi ro trong tương lai. 2.1.3.5 Kinh nghiệm quản lý rủi ro tín dụng của một số quốc gia trên thế giới: Kinh nghiệm của Canada: Ở Canada để giúp các nhà ngân hàng, các nhà đầu tư có được những thông tin cần thiết, đáng tin cậy, người ta đã thành lập các Công ty chuyên kinh doanh thông tin tín dụng. Một trong những Công ty hàng đầu về thông tin tín dụng đó là Công ty BEN (Services Financiers BEN) - Ai cần thông tin tín dụng: Theo kinh nghiệm của BEN thì các nhà sản xuất và buôn bán, các Công ty tài chính và dịch vụ, các ngân hàng và các khách hàng lớn họ cần những thông tin tín dụng để có quyết định đúng đắn về kinh doanh, giảm tối đa rủi ro có thể xảy ra. - Cách thu thập thông tin để ngăn ngừa rủi ro tín dụng. Trước hết cần tra cứu những thông tin đã có được cặp nhật và lưu trữ một cách khoa học. Bước tiếp theo là thu thập qua việc nghiên cứu các tài liệu, tin tức của các cơ quan và các tổ chức dịch vụ của Nhà nước, như cơ quan thống kê, tài chính, thuế... Đồng thời cũng phải quan tâm đến nguồn thông tin bên ngoài như báo chí, các nhà cung cấp, khách hàng... Nhiệm vụ của cơ quan thông tin tín dụng phải: + Thu thập thông tin bảo đảm, chính xác, trung thực và nhanh chóng. + Trong quá trình điều tra bảo đảm tính khách quan, không thiên vị hay vụ lợi. + Bảo vệ quyền lợi của người đưa tin và người mua tin. + Tôn trọng và bảo vệ sự kín đáo của người đưa tin. - Cách thức điều tra tại chỗ. Sai hẹn làm cho người tiếp xúc có cảm giác khó chịu, vì vậy cần phải đến đúng giờ. Các nhân viên điều tra thông tin tín dụng phải là người chuyên nghiệp, có kinh nghiệm. Khi đã tiếp xúc phải sử dụng các phương pháp để phỏng vấn ban điều hành doanh nghiệp. Điều quan trọng là sau cuộc tiếp xúc nhân viên thông tin tín dụng phải có một khả năng nhận xét. - Cách sử dụng những thông tin đã có. Trước hết phải xác thực nguồn tin, sau đó phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp. Bước tiếp theo là xem xét sự phát triển và mối quan hệ qua lại với các nhà cung cấp, tiêu thụ hàng hoá. Qua việc phân tích những thông tin đã có, cần phải tiến hành “phân hạng rủi ro tín dụng”. BEN cũng đã đưa ra chu kỳ của một sự điều tra tín dụng và áp dụng trong nhiều năm nay có kết quả.Chu kỳ của một điều tra tín dụng. Cung cấp tin cho khách hàng Cơ quan tín dụng Biên soạn Săn tin Kiểm soát chất lượng Cần cập nhật hoá Điều tra sơ khởi Có hồ sơ chưa Sự yêu cầu Trung tâm tín dụng Cần tin bên ngoài Từ chối Chấp nhận Đơn xin mở tín dụng Đủ tin để quyết định Không Chưa Có Không Cần Kinh nghiệm của Mỹ: Để giúp các nhà đầu tư và các Ngân hàng lựa chọn các loại tài sản có, người ta đã đưa ra “hệ số điều chỉnh rủi ro”. Hệ số điều chỉnh rủi ro có 5 mức như sau: 0%, 10%, 20%, 50% và 100%. Các hệ số này được xác định theo quy ước. Ví dụ ngân quỹ ở mức 0% cũng giống như công trái Hoa Kỳ với thời hạn dưới 90 ngày. Hay nói cách khách với tài sản này được xem như không có rủi ro và do đó không cần phải có vốn tự có để duy trì chúng. Các công trái Hoa Kỳ với kỳ hạn trên 90 ngày sẽ có tỷ lệ 10%. Tất nhiên lý do tỷ lệ này gia tăng là thời gian đáo hạn lâu hơn sẽ có rủi ro về lãi suất nhiều hơn so với thời gian đáo hạn ít hơn. STT Phân loại các tích sản Số lượng tính bằng triệu USD Mức % Các tích sản quy đổi theo mức rủi ro tính bằng triệu USD Ngân quỹ và công trái Hoa Kỳ với thời hạn dưới 90 ngày 100 x 0% = 0 Công trái Hoa Kỳ với trên 90 ngày 100 x 10% = 10 Trái phiếu tổng h

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docChuõng 2.doc
  • pdfbia tot nghiep .pdf
  • docChuong 1.doc
  • docChýõng 3.doc
Tài liệu liên quan