Chuyên đề Nghiên cứu chính sách bảo hiểm xã hội với vấn đề thu bảo hiểm xã hội và chống thất thu bảo hiểm xã hội Trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang

Bảo hiểm xã hội là một chính sách xã hội lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm góp phần bảo đảm ổn định đời sống cho cán bộ, công chức, quân nhân và người lao động. Ngay từ khi thành lập Đảng và Nhà nước ta đã thường xuyên quan tâm đến việc thực hiện các chế độ, chính sách an sinh xã hội đối với cán bộ, công chức, quân nhân và người lao động thuộc các thành phần kinh tế.

docx64 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1484 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nghiên cứu chính sách bảo hiểm xã hội với vấn đề thu bảo hiểm xã hội và chống thất thu bảo hiểm xã hội Trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục Lục Lời mở đầu 3 CHƯƠNG I: Lý luận chung về chính sách bảo hiểm xã hội và quản lý thu bảo hiểm xã hội 6 I. Giới thiệu chung về chính sách bảo hiểm xã hội 6 1) Khái niệm về BHXH 6 2) Các loại hình BHXH 8 II. Quản lý thu BHXH và chống thất thu BHXH 14 1) Quản lý thu BHXH 14 2) Nội dung của quản lý thu BHXH 16 a) Nguyên tắc quản lý thu BHXH 16 b) Nội dung quản lý Thu BHXH 17 3) Chống thất thu BHXH. 21 CHƯƠNG II: Thực trạng về quản lý thu và thất thu BHXH tại tỉnh Tuyên Quang. 24 I. Thực trạng thu BHXH và thất thu BHXH tại Tuyên Quang. 24 1) Khái quát BHXH Tuyên Quang 24 2) Thực trạng thu BHXH Tại Tuyên Quang 31 3) Tình hình thất thu của BHXH Tuyên Quang. 36 II. Quản lý thu BHXH tại Tuyên Quang. 42 1) quản lý thu BHXH Tại BHXH Tuyên Quang. 42 2) Đánh giá quản lý thu BHXH tại Tuyên Quang. 46 CHƯƠNG III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu BHXH và chống thất thu BHXH tại Tuyên Quang. 52 I. Phương hướng hoàn thiện công tác thu BHXH. 52 II. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thu BHXH. 53 1) Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về BHXH. 53 2) Có chương trình qui hoạch đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực. 54 3) Mở rộng nguồn thu BHXH. 54 4) Tăng cường công tác tuyên truyền về Luật BHXH 58 5) Hoàn thiện nghiệp vụ quản lý thu và chống thất thu quĩ BHXH. 56 6) Bảo tồn và tăng trưởng quĩ BHXH 59 7) Ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý thu. 60 8) Cải cách thủ tục hành chính 60 Kết luận 61 Tài liệu tham khảo 62 Phần mở đầu Bảo hiểm xã hội là một chính sách xã hội lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm góp phần bảo đảm ổn định đời sống cho cán bộ, công chức, quân nhân và người lao động. Ngay từ khi thành lập Đảng và Nhà nước ta đã thường xuyên quan tâm đến việc thực hiện các chế độ, chính sách an sinh xã hội đối với cán bộ, công chức, quân nhân và người lao động thuộc các thành phần kinh tế. Trong công cuộc đổi mới đất nước, kinh tế không ngừng phát triển đời sống nhân được cải thiện và nâng cao, tuy nhiên một bộ phận người lao động còn bấp bênh không đảm bảo do gặp phải những rủi ro như thiếu việc làm, ốm đau, tuổi già…để bù đắp một phần thiếu hụt đó, từ năm 1995 Đảng ta đã cụ thể hoá đường lối bằng chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội và được bổ sung hoàn thiện và đổi mới các chế độ, chính sách BHXH theo quy định tại chương III bộ luật lao động được Quốc hội thông qua ngày 23/6/1994 và có hiệu lực từ ngày 1/1/1995, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995 . Bảo hiểm xã hội không những là một loại hình bảo hiểm mà nó còn là một cơ chế bảo vệ người lao động trong trường hợp người lao động bị mất hoặc giảm thu nhập tạm thời hoặc vĩnh viễn do mất, giảm khả năng lao động. Bảo hiểm xã hội còn là một trong những hệ thống bảo đảm xã hội. Trong những năm qua được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và sự cố gắng vượt bậc của ngành bảo hiểm xã hội nên các chế độ BHXH được thực hiện ngày càng tốt hơn; công tác thu, chi, quản lý quỹ và giải quyết chế độ chính sách BHXH cho các đối tượng theo luật định đi vào nền nếp, tạo điều kiện thuận lợi và niềm tin cho những người tham gia và hưởng các chế độ BHXH. Để phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội nước ta và nhu cầu của người lao động, ngày 09/01/2003 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 01/2003/NĐ-CP, Luật BHXH được Quốc hội nứơc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngà 29/6/2006, đối tượng tham gia BHXH không còn tập trung vào các đơn vị hành chính sự nghiệp , các doanh nghiệp nhà nước nữa mà được mở rộng tới các doanh nghiệp ngoài quốc doanh như doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hưu hạn, hợp tác xã , hộ kinh doanh các thể, số người tham gia ngày càng tăng, số thu năm sau luôn cao hơn năm trước. Song song với thu BHXH thì việc chi trả cho đối tượng nghỉ việc hưởng chế độ bảo hiểm xã hội ngày càng nhiều. Do dó BHXH cần có một lượng tiền đủ lớn để đảm bảo cho công tác chi trả các chế độ BHXH, để đạt được mục tiêu đó thì việc tham gia BHXH đóng góp vào quỹ BHXH là một nhiệm vụ rất quan trọng, có thể coi Quỹ BHXH là sự sống còn của hệ thống BHXH, đảm bảo cho hệ thống hoạt động theo đúng chức năng nhiệm vụ Trong đó nhiệm vụ thu BHXH là nhiệm vụ quan trọng có thể coi đó là đầu vào của ngành BHXH. Là cán bộ đang trực tiếp công tác tại phòng thu Bảo hiểm xã hội tỉnh Tuyên Quang và được thực tập tốt nghiệp tại cơ quan từ ngày 25/9/2006 đến ngày 15/01/2007, trong thời gian thực tập em thấy còn một số hạn chế trong công tác thu BHXH dẫn đến tình trạng thu chưa đúng, thu chưa đủ hay nói cách khác còn để thất thu BHXH và vấn đề tăng cường công tác thu và chống thất thu quỹ bảo hiểm xã hội có một ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển của ngành BHXH nói chung và BHXH Tuyên Quang nói riêng. Do vậy chuyên đề mà em lựa chọn là: “Nghiên cứu chính sách bảo hiểm xã hội với vấn đề thu BHXH và chống thất thu BHXH Trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang” Làm chuyên đề thực tập với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào công tác thu BHXH. Mục đích của chuyên đề: Làm rõ công tác thu và thất thu bảo hiểm xã hội. Thực trạng công tác thu và thất thu Bảo hiểm xã hội tại bảo hiểm xã hội Tuyên Quang trong thời gian qua. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu BHXH và chống thất thu BHXH trong thời gian tới. Nội dung của Chuyên đề gồm: Lời nói đầu Chương I: Lý luận chung về chính sách Bảo hiểm xã hội. Chương II: Thực trạng về quản lý thu, và thất thu BHXH tại Bảo hiểm xã hội Tuyên Quang. Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thu và chống thất thu BHXH tại BHXH Tuyên Quang. Kết luận. Qua quá trình học tập tại trường và thời gian thực tập tại cơ quan sự giúp đỡ của Thầy giáo Bùi Đức Thọ, Khoa: Khoa học Quản lý - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Ban Giám đốc và tập thể cán bộ viên chức BHXH tỉnh Tuyên Quang đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG I Lý luận chung về chính sách bảo hiểm xã hội và quản lý thu bảo hiểm xã hội I. Giới thiệu chung về chính sách bảo hiểm xã hội 1) Khái niệm về BHXH: Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảm một phần thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tàn tật, tuổi già, tử tuất, dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, có sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp luật nhằm ổn định đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội. Trong điều kiện kinh tế phát triển , nhu cầu sinh hoạt đời sống ngày càng cao của người lao động nhất là trong điều kiện kinh tế xã hội hiện nay, chính sách BHXH được củng cố và hoàn thiện theo hướng cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước phát triển theo định hướng XHCN cụ thể hoá bằng Luật bảo hiểm xã hội đã được Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 29/6/2006. Quỹ BHXH được bảo tồn tăng trưởng và đủ khả năng đảm bảo chi trả các chế độ BHXH cho người lao động ở các thành phần kinh tế khi tham gia BHXH một cách ổn định, có hiệu quả. BHXH đã đem lại chỗ dựa vững chắc cho cuộc sống người lao động, cho sự ổn định của các doanh nghiệp, các công ty và tổ chức có thể thấy sự xuất hiện của BHXH là nhu cầu tất yếu khách quan của cuộc sống của người lao động và các tổ chức. BHXH là nhu cầu khách quan đa dạng và phức tạp của xã hội nhất là trong xã hội mà nền sản xuất hàng hóa hoạt động theo cơ chế thị trường , mối quan hệ lao động phát triển tới một mức độ nào đó, kinh tế càng phát triển thì bảo hiểm xã hội càng phát triển đa dạng và hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng của chính sách bảo hiểm xã hội hay bảo hiểm xã hội không vượt quá trạng thái kinh tế của mỗi nước. BHXH đã được coi như là nhu cầu khách quan của con người và được xem như là một trong những quyền cơ bản của con người. “Có đóng góp BHXH thì mới được hưởng các chế độ BHXH” đó là nguyên tắc hoạt động của BHXH, Người lao động trong quá trình lao động sản xuất kinh doanh phải đóng góp đầy đủ thường xuyên vào quỹ BHXH theo mức chung, sau đó người lao động có quyền được hưởng trợ cấp về BHXH, căn cứ vào sự đóng góp và theo chế độ quy định. Người lao động khi gặp phải những rủi ro như: ốm đau, tai nạn lao động hoặc mắc các bệnh nghề nghiệp gây ra làm cho bị mất khả năng lao động tạm thời hoặc vĩnh viễn, dẫn đến nguồn thu nhập của họ bị giảm đi hoặc không còn nữa; hoặc người lao động bị chết trong khi con cái đang tuổi vị thành niên, bố mẹ già không nơi nương tựa; hoặc khi không còn khả năng lao động để có thu nhập từ tiền lương, tiền công, gây nhiều khó khăn kinh tế cho cuộc sống của người lao động và gia đình họ. Người sử dụng lao động và người lao động có mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ với nhau bởi quyền lợi và trách nhiệm của mỗi bên. Các đơn vị vừa tạo điều kiện làm việc, trả công cho người lao động, vừa phải có trách nhiệm giúp đỡ khi họ không may gặp phải rủi ro trong quá trình lao động. Nếu không tham gia BHXH thì các chi phí phát sinh này rất lớn làm ảnh hưởng đến tình hình tài chính và ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị. Đối với Nhà nước xã hội: Nhà nước có trách nhiệm ban hành và điều chỉnh sửa đổi hệ thống pháp luật về BHXH để ngày càng hoàn thiện đáp ứng nhu cầu tham gia của xã hội, đồng thời tổ chức thực hiện các chính sách về BHXH và có trách nhiệm đóng góp và hỗ trợ quỹ BHXH để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động. Nhà nước đã cụ thể hiện vai trò của mình trong việc điều tiết xã hội và gìn giữ ổn định xã hội bằng cách hỗ trợ quỹ bảo hiểm xã hội. Như vậy do nhiều nguyên nhân khác nhau mà rủi ro có thể xảy ra bất kỳ lúc nào và ảnh hưởng tới các đối tượng là người lao động hay chủ sử dụng lao động và nền kinh tế đất nước để đảm bảo một phần kinh tế góp phần ổn định cuộc sống của người lao động, tham gia Bảo hiểm xã hội là một nhu cầu khách quan của con người có thể coi đó là quyền cơ bản nhất của con người, quỹ BHXH tập trung đòi hỏi sự đóng góp của người lao động, chủ sử dụng lao động,...ổn định quá trình hoạt động cuả doanh nghiệp hay an ninh quốc gia hơn bao giờ hết quỹ bảo hiểm xã hội luôn là người bạn đồng hành với họ. 2) Các loại hình BHXH: Trên thị trường hiện nay hình thành nhiều loại Bảo hiểm khác nhau nhưng trong phạm vi nay chúng ta so sánh hai loại hình bảo hiểm đó là: Giữa Bảo hiểm xã hội và Bảo hiểm thương mại (bảo hiểm sức khoẻ, tính mạng và tài sản bảo hiểm kinh doanh) có những điểm giống nhau và khác nhau được thể hiện trên các mặt như sau: Hai quỹ cùng mục đích hoạt động là nhằm hỗ trợ cho các đối tượng tham gia bảo hiểm một khoản tiền nhất định theo quy định khi họ gặp những khó khăn về tài chính do một nguyên nhân gây nên rủi ro nào đó đối với họ. Hai loại bảo hiểm này cùng chung một nguyên tắc là: có tham gia đóng góp tạo lập quỹ mới được hưởng quyền lợi từ quỹ BHXH. Hai loại bảo hiểm hoạt động với mục tiêu hoàn toàn khác nhau. Bảo hiểm thương mại được hình thành để nhằm hạn chế rủi ro và hoạt động với mục đích chính là kinh doanh thu lợi nhuận còn mục tiêu của hoạt động BHXH mang tính phục vụ cộng đồng xã hội trên phạm vi toàn quốc, nhằm thực hiện chính sách xã hội của Đảng và nhà nước, bảo đảm cho người lao động có khoản trợ cấp thiết yếu lúc gặp khó khăn. Mức độ đóng góp và sử dụng của bảo hiểm thương mại thực hiện theo cơ chế hoạt động của thị trường và theo nguyên tắc hạch toán kinh doanh tùy theo mức đóng ấn định để xác định quyền lợi theo tỷ lệ nhất định; với mục tiêu bảo vệ sự phát triển kinh tế xã hội sự ổn định chính trị của quốc gia cho nên mức đóng góp và sử dụng quỹ BHXH dựa vào chính sách xã hội trong từng thời kỳ của đất nước. Để phân biệt giữa BHXH với các loại BH khác chúng ta có thể xem xét từ khái niệm cơ bản như: đối tượng được tham gia, đối tượng được bảo hiểm, quyền lợi khi tham gia bảo hiểm. Trong thực tế các quy định về BHXH luôn được điều chỉnh, công tác tuyên truyền chưa sâu rộng nên không ít người hay nhầm lẫn giữa BHXH với các loại Bảo hiểm khác. Thực ra, trong BHXH thì đối tượng của nó chính là thu nhập của người lao động. Khi người lao động gặp sự cố hoặc rủi ro bị giảm hoặc mất khả năng lao động dẫn đến thu nhập bị giảm hoặc mất hẳn, tại thời điểm ấy họ mong muốn có một khoản tiền nhất định để chi trả và trang trải cho các nhu cầu thất yếu cũng như các nhu cầu mới phát sinh trong cuộc sống và ta thấy rằng: người lao động trong quan hệ BHXH vừa là đối tượng tham gia, vừa là đối tượng được hưởng bảo hiểm, họ cũng chính là đối tượng được hưởng mọi quyền lợi BHXH. BHXH vì mục tiêu phục vụ chứ không vì mục đích kinh doanh thu lợi nhuận. Để hình thành nên quỹ BHXH do các bên cùng đóng góp đó là: người lao động, người sử dụng lao động, tiền sinh lời của hoạt động đầu tư từ quỹ , các nguồn thu hợp pháp khác và sự hỗ trợ của Nhà nước. Người sử dụng lao động tham gia BHXH là do luật pháp của Nhà nước bắt buộc mặt khác vì họ thấy được lợi ích thiết thực khi đã tham gia BHXH, còn đối với nhà nước tham gia BHXH với tư cách là chủ sử dụng lao động đối với tất cả công nhân viên chức và những người hưởng lương từ Ngân sách Nhà nước như Hưu trí , bảo trợ xã hội ... và cũng là người bảo hộ cho quỹ BHXH. BHXH có những chức năng chủ yếu sau : Chức năng là sự khái quát của các nhiệm vụ cơ bản, là dạng hoạt động đặc trưng và khái quát nhất của tổ chức hay cá nhân gắn với chức danh nào đó trong một hệ thống tổ chức hoạt động phạm vi nhất định trong xã hội, cũng như các thành phần khác của nền kinh tế bảo hiểm, Bảo hiểm xã hội có hai chức năng cơ bản là chức năng phân phối và chức năng giám đốc, tuy nhiên theo đặc thù BHXH không những có tính kinh tế mà còn có tính xã hội rất cao và BHXH có những chức năng sau: Chức năng hình thành một hệ thống an toàn xã hội : Chức năng này không chỉ cần thiết cho người lao động mà còn đảm bảo sự ổn định xã hội cho quốc gia. Chức năng hạn chế khó khăn về kinh tế của người lao động: là đảm bảo cho mọi thành viên trong xã hội đều có quyền tham gia và được hưởng quyền lợi BHXH. Hai chức năng này có mối quan hệ biện chứng với nhau: Đời sống người lao động được cải thiện và nâng cao thì các hiện tượng tiêu cực sẽ giảm đi, an ninh chính trị an toàn xã hội được đảm bảo , sản xuất phát triển ; Khi xã hội phát triển sẽ tạo nhiều cơ hội công ăn việc làm cho người lao động như vậy đời sống của họ được nâng lên... Bảo hiểm xã hội có vai trò to lớn trong việc bảo đảm ổn định và phát triển cho xã hội, thể hiện thông qua các tác động chủ yếu sau: - Bảo đảm thay thế và bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất thu nhập hoặc bị giảm, mất khả năng lao động, mất việc làm trong những điều kiện nhất định. Nói là bảo đảm hay thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động là nói đến sự thay thế hoặc bù đắp đó nhất định sẽ xảy ra khi người lao động rơi vào các trường hợp nói trên và hội tụ các điều kiện quy định. Sở dĩ như vậy là giữa người lao động và cơ quan bảo hiểm xã hội có mối quan hệ hết sức chặt chẽ, quan hệ này nảy sinh trên cơ sở lao động và quan hệ tài chính BHXH. Đó là quan hệ giữa bên tham gia bảo hiểm, bên nhận bảo hiểm và bên được bảo hiểm. Bên tham gia bảo hiểm trước hết là người sử dụng lao động có trách nhiệm đóng phí bảo hiểm cho người lao động mà mình đang sử dụng, đồng thời người lao động cũng phải có trách nhiệm đóng phí để tự bảo hiểm cho mình , sự đóng góp này là bắt buộc theo mức quy định cho bên nhận bảo hiểm đó là cơ quan BHXH. Khi người lao động hội đủ các điều kiện cần thiết thì họ nhất định sẽ được hưởng những quyền lợi theo quy định. - Phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH, sự đóng góp rất khác nhau người có thu nhập cao thì đóng góp nhiều và ngược lại. nhưng mỗi khi họ không may gặp rủi ro. quỹ BHXH sẽ thực hiện phân phối và phân phối lại đó là sự phân phối thu nhập giữa những người có thu nhập cao với những người có thu nhập thấp, giữa những người khoẻ mạnh đang công tác với những người già cả, ốm đau đang nghỉ việc. người sử dụng lao động bắt buộc phải đóng góp vào quỹ BHXH không phải trực tiếp cho mình mà cho người lao động số lượng này khá lớn (số không được hưởng trợ cấp từ quỹ BHXH vì còn sức khỏe lao động còn số người được hưởng thì chiếm tỷ trọng ít trong số những người tham gia đóng góp như vậy BHXH lấy số đông bù số ít và thực hiện chức năng phân phối theo cả chiều dọc và chiều ngang, Chức năng này thể hiện tính ưu việt của BHXH, mang lại lợi ích chung cho cả cộng đồng nó mang tính xã hội cao. - Góp phần kích thích tinh thần lao động, khuyến khích họ hăng hái sản suất nâng cao năng xuất lao động cho xã hội. Người lao động khi tham gia BHXH sẽ góp một phần tiền lương, tiền công vào quỹ BHXH lúc còn khỏe mạnh, có việc làm. Khi bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, tuổi già hoặc không may bị chết đã có BHXH bù đắp hoặc thay thế một phần thu nhập quan trọng, do đó đời sống của bản thân họ và gia đình họ luôn có chỗ dựa, luôn được bảo đảm. Chính vì thế họ gắn bó với công việc yên tâm, tích cực lao động sản xuất , góp phần tăng năng xuất lao động, tăng hiệu quả kinh tế, qua đó ta nhận thấy tiền lương tiền công và BHXH là những động lực thúc đẩy hoạt động của người lao động. - Phát huy tiềm năng và gắn bó lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động, giữa người sử dụng lao động với xã hội. BHXH dựa trên cơ sở đóng góp đều kỳ của người lao động và người sử dụng lao động và nhà nước cho cơ quan BHXH để tồn tích dần thành một quỹ tập trung, quỹ này lại huy động phần nhàn rỗi vào hoạt động sinh lời làm tăng nguồn thu Thông qua BHXH những mâu thuân giữa những người sử dụng lao động như mâu thuẫn về tiền lương, thời gian lao động … sẽ được điều hoà và giải quyết. Đặc biệt là cả hai bên này đều thấy được nhờ có BHXH mà mình có lợi được bảo vệ. Từ đó làm cho họ hiểu nhau và gắn bó lợi ích với nhau. Còn đối với Nhà nước và xã hội hỗ trợ quỹ BHXH một khoản nhất định, nhưng BHXH đã mang lại hiệu quả rất cao đó là đảm bảo sự ổn định xã hội , ổn định đời sống của người lao động và gia đình họ. BHXH phát huy tiềm năng của số đông và ưu điểm của nhiều phương thức hoạt động trong cơ chế thị trường để đảm bảo an toàn đời sống cho người lao động cũng như cho xã hội. Đồng thời BHXH cũng tạo ra sự gắn bó chặt chẽ với lợi ích cả lợi ích trước mắt và lâu dài của các bên tham gia BHXH cũng như các bên đó với lợi ích quốc gia. BHXH có một số tính chất cơ bản sau: - BHXH là một nhu cầu không thể thiếu đối với đời sống của mỗi con người do vậy mà nó mang tính tất yếu khách quan trong đời sống xã hội. như phần trên đã trình bày trong quá trình lao động sản xuất người lao động có thể gặp phải những rủi ro như : Sản xuất kinh doanh bị ngưng trệ, lao động dư thừa... đời sống khó khăn. Nhưng khi sản xuất càng phát triển thì rủi ro với người lao động và khó khăn với chủ sử dụng lao động càng trở lên phức tạp, mâu thuẫn căng thẳng, để giải quyết vấn đề này nhà nước phải đứng ra can thiệp thông qua các chính sách BHXH , như vậy BHXH ra đời là một tất yếu khách quan. - BHXH mang tính ngẫu nhiên, phát sinh không đồng đều theo thời gian và không gian. Những rủi ro xảy đến rất bất thường không bao giờ biết trước được. Chính vì vậy nên mọi rủi ro đến với người lao động của một tổ chức hay là tất cả các tổ chức đều không phải chịu chung một hay nhiều rủi ro cùng một thời điểm. - BHXH vừa mang tính kinh tế, vừa có tính xã hội và cả tính dịch vụ. Tính kinh tế của BHXH được thể hiện thông qua cơ chế tạo lập và sử dụng quỹ BHXH. Quỹ BHXH được hình thành, bảo toàn và tăng trưởng đó là sự đóng góp tài chính của tất cả các bên liên quan (người lao động, người sử dụng lao động, sự hỗ trợ của nhà nước, các nguồn thu hợp pháp khác). Mức đóng góp của các bên được xác định rất cụ thể dựa trên nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm xã hội là lấy số đông bù số ít theo quy đ ịnh về mức thu tại điều 42,43,44 Nghị định số 152/2006/NĐ-CP thì mức đóng của cả người lao động và cả người sử dụng lao động sẽ tăng lên theo từng mốc thời gian và đến tháng 01/2014 thì mức đóng góp cao nhất là 26% trong đó: người lao động đóng 8%, người sử dụng lao động đóng 18% do thực chất mức đóng góp của mỗi nguời lao động là không đáng kể so với mức họ được hưởng. Xét dưới góc đ
Tài liệu liên quan