Chuyên đề thực tập Vận dụng thử nghiệm cơ bản trong kiểm toán các khoản phải thu khách hàng của các doanh nghiệp dịch vụ do Công ty Trách nhiệm hữu hạn Kiểm toán và Tư vấn ACPA thực hiện

Nền kinh tế Việt nam đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ trước xu thế hội nhập toàn cầu hóa. Trong bối cảnh đó, kiểm toán càng thể hiện rõ nét vai trò của mình trong quá trình kiểm soát, quản lý, tăng hiệu qủa hoạt động của nền kinh tế. Để thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình, kiểm toán cần phải liên tục kiện toàn tổ chức, cải tiến hoạt động của mình để phù hợp với tình hình mới. Một trong những vấn đề đó là hoàn thiện kỹ thuật kiểm toán để Kiểm toán viên (“KTV”) có thể làm việc hiệu quả nhất. Trong kiểm toán, thử nghiệm cơ bản được đánh giá là thử nghiệm then chốt và cốt lõi vì nó đem lại những bằng chứng kiểm toán thích đáng giúp KTV đưa ra ý kiến về các thông tin tài chính của doanh nghiệp. Trong kiểm toán Báo cáo tài chính (“BCTC”), khoản mục phải thu khách hàng là một khoản mục chứa đựng nhiều rủi ro khi kiểm toán. Chính vì thế, việc vận dụng tốt các thử nghiệm cơ bản trong kiểm toán các khoản phải thu khách hàng sẽ giúp KTV thu thập đầy đủ bằng chứng thích hợp về tính trung thực và hợp lý của khoản mục này một cách hiệu quả nhất.

doc87 trang | Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1972 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề thực tập Vận dụng thử nghiệm cơ bản trong kiểm toán các khoản phải thu khách hàng của các doanh nghiệp dịch vụ do Công ty Trách nhiệm hữu hạn Kiểm toán và Tư vấn ACPA thực hiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Nền kinh tế Việt nam đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ trước xu thế hội nhập toàn cầu hóa. Trong bối cảnh đó, kiểm toán càng thể hiện rõ nét vai trò của mình trong quá trình kiểm soát, quản lý, tăng hiệu qủa hoạt động của nền kinh tế. Để thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình, kiểm toán cần phải liên tục kiện toàn tổ chức, cải tiến hoạt động của mình để phù hợp với tình hình mới. Một trong những vấn đề đó là hoàn thiện kỹ thuật kiểm toán để Kiểm toán viên (“KTV”) có thể làm việc hiệu quả nhất. Trong kiểm toán, thử nghiệm cơ bản được đánh giá là thử nghiệm then chốt và cốt lõi vì nó đem lại những bằng chứng kiểm toán thích đáng giúp KTV đưa ra ý kiến về các thông tin tài chính của doanh nghiệp. Trong kiểm toán Báo cáo tài chính (“BCTC”), khoản mục phải thu khách hàng là một khoản mục chứa đựng nhiều rủi ro khi kiểm toán. Chính vì thế, việc vận dụng tốt các thử nghiệm cơ bản trong kiểm toán các khoản phải thu khách hàng sẽ giúp KTV thu thập đầy đủ bằng chứng thích hợp về tính trung thực và hợp lý của khoản mục này một cách hiệu quả nhất. Ngày nay, cùng với sự tăng trưởng nhanh chóng của nền kinh tế, các ngành dịch vụ cũng phát triển như vũ bão, hàng loạt các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này được thành lập. Chính vì thế, các khách hàng loại này của các công ty kiểm toán ngày một nhiều. Nhận thức được điều đó, qua thời gian thực tập ở Công ty TNHH Kiểm toán và Tư vấn ACPA em quyết định chọn Đề tài: “Vận dụng thử nghiệm cơ bản trong kiểm toán các khoản phải thu khách hàng của các doanh nghiệp dịch vụ do Công ty Trách nhiệm hữu hạn Kiểm toán và Tư vấn ACPA thực hiện” để giúp mình có cơ hội tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này. Trong Chuyên đề thực tập của em, ngoài Lời mở đầu và Kết luận còn ba phần chính sau: Chương I: Những vấn đề lý luận về thử nghiệm cơ bản trong kiểm toán các khoản phải thu khách hàng; Chương II: Thực trạng vận dụng thử nghiệm cơ bản trong kiểm toán các khoản phải thu khách hàng của các doanh nghiệp dịch vụ do Công ty TNHH Kiểm toán và Tư vấn ACPA thực hiện; Chương III: Hoàn thiện việc vận dụng thử nghiệm cơ bản trong kiểm toán các khoản phải thu khách hàng của các doanh nghiệp dịch vụ do Công ty TNHH Kiểm toán và Tư vấn ACPA thực hiện. Trong chuyên đề này, phạm vi nghiên cứu vận dụng thử nghiệm cơ bản trong kiểm toán các khoản phải thu khách hàng được giới hạn trong kiểm toán các doanh nghiệp dịch vụ. Trên cơ sở kết hợp lý luận với thực tiễn, lý thuyết với tình hình thực tế tại đơn vị thực tập, với hiểu biết của bản thân em muốn đưa ra một số đóng góp để hoàn thiện kỹ thuật kiểm toán nhằm nâng cao hiệu quả làm việc của KTV. Để hoàn thành Chuyên đề thực tập này, em đã được sự giúp đỡ tận tình của giáo viên hướng dẫn và toàn thể các anh chị ở Công ty ACPA. Do hạn chế về thời gian và hiểu biết nên chuyên đề của em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong sự đóng góp ý kiến của các anh chị để báo cáo này hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỬ NGHIỆM CƠ BẢN TRONG KIỂM TOÁN CÁC KHOẢN PHẢI THU KHÁCH HÀNG 1. Khái quát về thử nghiệm cơ bản trong kiểm toán các khoản phải thu khách hàng 1.1. Khái niệm thử nghiệm cơ bản Thử nghiệm cơ bản là thẩm tra lại các thông tin biểu hiện bằng tiền phản ánh trên bảng tổng hợp bằng việc kết hợp các phương pháp kiểm toán chứng từ và ngoài chứng từ theo trình tự và cách thức xác định. Cho dù thử nghiệm cơ bản là thử nghiệm then chốt và cốt lõi trong mọi cuộc kiểm toán tài chính song không phải chúng được thực hiện với mọi khoản mục trong mọi quan hệ: Trên thực tế, các thông tin tài chính thường đã được xác minh nhiều lần thông qua hệ thống tự kiểm tra (bao gồm kế toán và kiểm toán nội bộ) và ngoại kiểm (Kiểm toán độc lập, Kiểm toán Nhà nước). Mối quan hệ này tạo khả năng cho việc giảm tối đa các thử nghiệm cơ bản. Bên cạnh đó, trong nhiều cuộc kiểm toán cũng không cần đòi hỏi phải thực hiện số lượng lớn các thử nghiệm cơ bản nếu KTV thấy các thông tin trên bảng khai tài chính đáng tin cậy. Mặt khác, việc tiết kiệm thời gian, nâng cao hiệu quả kiểm toán cũng đòi hỏi giảm những công việc lặp lại, không hiệu quả. Vì vậy trong kiểm toán đã hình thành kiểm toán tuân thủ hay thử nghiệm tuân thủ. Thử nghiệm tuân thủ là dựa vào kết quả kiểm soát nội bộ khi hệ thống này tồn tại và hoạt động có hiệu lực. Để khẳng định sự tồn tại và hiệu lực này cần khảo sát, thẩm tra và đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ. Cần phải khẳng định thử nghiệm tuân thủ chỉ được thực hiện khi hệ thống kiểm soát nội bộ tồn tại và được đánh giá là hoạt động có hiệu lực. Tuy nhiên trong trường hợp này thử nghiệm cơ bản vẫn được thực hiện. Trong trường hợp ngược lại, hệ thống kiểm soát nội không tồn tại hoặc được đánh giá là hoạt động không có hiệu lực thì kiểm toán sẽ không thực hiện kiểm toán tuân thủ, tăng cường thử nghiệm cơ bản với quy mô lớn để đảm bảo độ tin cậy của các kết luận kiểm toán. 1.2. Nội dung của thử nghiệm cơ bản Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 530 “Lấy mẫu kiểm toán và các thủ tục lựa chọn khác” thì “thử nghiệm cơ bản bao gồm hai loại là thủ tục phân tích và kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ và số dư. Thử nghiệm cơ bản chỉ liên quan đến giá trị các khoản mục. Mục đích của thử nghiệm cơ bản là thu thập bằng chứng để phát hiện các sai sót trọng yếu làm ảnh hưởng đến BCTC” (4, trang 245). Về thủ tục phân tích: Theo Chuẩn mực kiểm toán Hoa Kỳ SAS 56 (AU329) (3, trang 189), thủ tục phân tích được hiểu là sự đánh giá về các thông tin tài chính dựa trên việc nghiên cứu và các mối liên hệ hợp lý giữa các thông tin tài chính và thông tin phi tài chính bao gồm các so sánh giữa các số liệu được ghi sổ với các ước tính của KTV. Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam VSA 520 (4, trang 2371), thủ tục phân tích hay quy trình phân tích là việc phân tích các số liệu, thông tin, các tỷ suất quan trọng, qua đó tìm ra những xu hướng, biến động và tìm ra những mối quan hệ có mâu thuẫn với các thông tin liên quan khác hoặc có sự chênh lệch lớn so với giá trị đã dự kiến. Tóm lại, thủ tục phân tích có thể được hiểu là quá trình đánh giá các thông tin tài chính được thực hiện thông qua việc nghiên cứu các mối quan hệ đáng tin cậy giữa các thông tin tài chính với nhau và quan hệ giữa các thông tin tài chính với các thông tin phi tài chính. Trong quá trình thực hiện quy trình phân tích, KTV có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau từ việc so sánh giản đơn đến các kỹ thuật phân tích phức tạp. Thủ tục phân tích được áp dụng đối với BCTC hợp nhất, báo cáo của đơn vị thành viên hoặc từng thông tin riêng lẻ của BCTC. Thủ tục phân tích bao gồm 3 loại: Kiểm tra tính hợp lý, phân tích xu hướng, phân tích tỷ xuất. Thủ tục phân tích gồm ba công việc sau: Một là: Dự đoán Hai là: So sánh các thông tin tương ứng kỳ này với kỳ trước; So sánh giữa thực tế với kế hoạch của đơn vị; So sánh giữa thực tế với ước tính của KTV; So sánh thực tế của đơn vị với các đơn vị trong cùng ngành có cùng quy mô hoạt động, hoặc số liệu thống kê, định mức cùng ngành. Ba là: Sử dụng xét đoán nghề nghiệp của KTV để điều tra và đánh giá về các chênh lệch. Trong kiểm toán tài chính, thủ tục phân tích là một trong các thử nghiệm cơ bản để phát hiện các sai phạm trọng yếu tồn tại trên bảng khai tài chính. Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam VSA 520, thủ tục phân tích được sử dụng cho các mục đích sau: Một là: Giúp KTV xác định nội dung, lịch trình và phạm vi của các thủ tục kiểm toán khác. Hai là: Quy trình phân tích được thực hiện như là một thử nghiệm cơ bản khi việc sử dụng thủ tục này có hiệu quả hơn so với kiểm tra chi tiết trong việc giảm bớt rủi ro phát hiện liên quan đến cơ sở dẫn liệu của BCTC. Ba là: Quy trình phân tích để kiểm tra toàn bộ BCTC trong khâu soát xét cuối cùng của cuộc kiểm toán. Thông thường, thủ tục phân tích trải qua các giai đoạn chủ yếu sau:. Bước một: Phát triển mô hình, chúng ta xác định biến tài chính và biến hoạt động cùng với mối quan hệ giữa chúng. Căn cứ vào mục đích cụ thể của việc xây dựng thủ tục phân tích và nguồn thông tin về các dữ liệu để xây dựng mô hình. Như vậy, với mỗi mô hình cần xác định rõ việc sử dụng mô hình là để dự đoán số dư tài khoản (“TK”) phải thu khách hàng ở hiện tại hay dự đoán thay đổi của năm nay so với năm trước. Việc dự đoán thay đổi so với năm trước sẽ có hiệu lực nếu số dư các khoản phải thu khách hàng đã được kiểm toán. Khi đó có thể loại trừ khỏi mô hình những biến độc lập không thay đổi qua các năm. Khi kết hợp các biến độc lập có liên quan, mô hình sẽ cho ta nhiều thông tin hơn, do đó dự đoán sẽ chính xác hơn. Ngược lại, mô hình quá giản đơn, điều đó cũng đồng nghĩa với việc giảm độ chính xác của mô hình. Do vậy, để xây dựng được một mô hình hiệu quả, KTV cần phát triển mô hình theo hướng chi tiết hoá dữ liệu, thậm chí chi tiết hoá thành nhiều mô hình nhỏ hơn. Bước hai: Xem xét tính độc lập và tin cậy của dữ liệu tài chính và nghiệp vụ Tính độc lập và tin cậy của dữ liệu tài chính và nghiệp vụ sử dụng trong mô hình có ảnh hưởng trực tiếp đến độ chính xác của các dự đoán và tới bằng chứng thu được từ thủ tục phân tích. Để đảm bảo tính độc lập của dữ liệu cần chi tiết hoá các dự tính. Các dự tính này càng chi tiết thì tính độc lập với các TK được dự tính tăng lên, điều này làm cho độ tin cậy cao hơn. Để đánh giá tính tin cậy của dữ liệu cần xem xét trên những mặt như: Một là: Nguồn của dữ liệu: Dữ liệu có nguồn độc lập từ bên ngoài có độ tin cậy cao hơn từ nguồn bên trong; Với nguồn dữ liệu từ bên trong, sẽ tin cậy hơn nếu chúng độc lập với người chịu trách nhiệm cho giá trị được kiểm toán; Những nguồn dữ liệu được kiểm toán có độ tin cậy cao hơn nguồn chưa được kiểm toán. Hai là: Tính kế thừa và phát triển của thủ tục kiểm toán dữ liệu từ những năm trước. Ba là: Mở rộng phạm vi dữ liệu sử dụng. Bước ba: Ước tính giá trị và so sánh với giá trị ghi sổ Dựa theo mô hình và trên cơ sở dữ liệu độc lập, tin cậy có thể so sánh ước tính này với giá trị ghi sổ. Khi so sánh cần quan tâm đến những vấn đề sau: Một là: Tính thường xuyên của việc đánh giá mối quan hệ đang được nghiên cứu. Mối quan hệ này càng được đánh giá thường xuyên thì tính nhất quán và độ tin cậy của mối quan hệ trong phân tích càng cao. Hai là: Tính biến động tất yếu và tính động bất thường. Bước bốn: Phân tích nguyên nhân chênh lệch Chênh lệch phát sinh có thể do số dư TK phải thu khách hàng chứa đựng sai sót hoặc nó được hình thành từ chính những ước tính trong phân tích. Do đó cần tìm hiểu nguyên nhân từ những nhân viên của khách thể kiểm toán, ít nhất là những minh chứng cho những vấn đề quan trọng. Nếu qua tiếp xúc vẫn không tìm được lời lý giải thích chính đáng thì cần xem xét lại giả định và dữ liệu để sử dụng ước tính. Nếu vẫn còn chênh lệch, qua xem xét quá trình triển khai thủ tục phân tích thì lời giải và bằng chứng cần được giải quyết qua các thủ tục kiểm tra chi tiết số liệu. Bước năm: Xem xét những phát hiện qua kiểm toán Bằng chứng kiểm toán thu thập được từ thủ tục phân tích cần được đánh giá do phát hiện qua kiểm toán không chỉ bao gồm các sai sót trong TK mà còn cả những sai sót trong hệ thống kiểm soát nội bộ và hệ thống thông tin cũng như các vấn đề khác. Do vậy mọi chênh lệch được phát hiện trong kiểm toán cần được điều tra về tính chất và nguyên nhân của cơ sở dẫn liệu và mục tiêu kiểm toán cùng với tình hình của khách hàng. Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 520, trường hợp thủ tục phân tích phát hiện ra những sai lệch trọng yếu hoặc những mối liên hệ không hợp lý giữa các thông tin tương ứng hoặc có chênh lệch lớn so với dự tính, KTV phải thực hiện các thủ tục kiểm toán để thu thập đầy đủ các bằng chứng kiểm toán thích hợp. Trong trường hợp thủ tục phân tích phát hiện được các biến động bất thường, những chênh lệch trọng yếu hoặc mối liên hệ không hợp lý giữa các thông tin tương ứng hoặc có chênh lệch lớn so với dự tính, KTV cần thực hiện thủ tục kiểm tra chi tiết để thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp. Về thủ tục kiểm tra chi tiết: Trong thử nghiệm cơ bản, kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ và số dư chính là sự kết hợp giữa trắc nghiệm độ tin cậy của thông tin trong trắc nghiệm công việc và trắc nghiệm tiếp số dư. Có thể khái quát cách hiểu về thủ tục kiểm tra chi tiết theo hai loại quan điểm chính như sau: Theo quan điểm thứ nhất, kiểm tra chi tiết là việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật cụ thể của trắc nghiệm tin cậy thuộc trắc nghiệm công việc và trắc nghiệm trực tiếp số dư để kiểm toán từng khoản mục hoặc nghiệp vụ tạo nên số dư trên khoản mục hay loại nghiệp vụ. Với cách định nghĩa này, kiểm tra chi tiết được xem là một thủ tục kiểm toán được áp dụng trong KTTC nhằm thu thập bằng chứng kiểm toán và thực hiện các thử nghiệm kiểm toán. Theo quan điểm thứ hai, trong cuốn “Sổ tay kiểm toán – sách chuyên khảo” thì “kiểm tra chi tiết là việc áp dụng một hay nhiều trong số bảy kỹ thuật kiểm toán đối với từng khoản mục hoặc nghiệp vụ tạo nên số dư TK hay loại hình nghiệp vụ”. Các kỹ thuật áp dụng thường xuyên khi tiến hành các biện pháp kiểm tra chi tiết là so sánh, tính toán, xác nhận, điều tra, kiểm tra thực tế. Như vậy, cả hai quan điểm trên đều chỉ rõ KTV cần hướng tới việc áp dụng các kỹ thuật kiểm tra chi tiết (như so sánh, tính toán, xác nhận, kiểm tra thực tế và quan sát, soát xét lại chứng từ, sổ sách) vào từng khoản mục, nghiệp vụ tạo nên số dư TK cần kiểm tra. Song, việc kiểm tra toàn bộ khoản mục, nghiệp vụ chỉ thích hợp với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, số lượng nghiệp vụ ít và có tính chất không phức tạp. Khi doanh nghiệp được kiểm toán có quy mô lớn, số lượng nghiệp vụ phát sinh nhiều thì KTV không kiểm tra chi tiết toàn bộ các nghiệp vụ. Việc kiểm tra chi tiết lúc này dựa trên cơ sở kiểm tra chọn mẫu một số nghiệp vụ cùng loại. Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 530 “Lấy mẫu kiểm toán và các thủ tục lựa chọn khác” thì “khi kiểm tra chi tiết, KTV có thể lấy mẫu kiểm toán và các thủ tục khác để kiểm tra một hay nhiều cơ sở dẫn liệu của BCTC hoặc ước tính độc lập về một khoản tiền.” (4, trang 245) Bản chất của kiểm tra chi tiết số dư và nghiệp vụ là nhằm tìm kiếm bằng chứng để có cơ sở đưa ra ý kiến liệu các số dư TK có được trình bày trung thực và không còn chứa đựng các sai sót trọng yếu hay không. Song, KTV làm việc này không phải bằng cách kiểm tra toàn bộ các nghiệp vụ tạo nên số dư TK mà bằng cách kiểm tra mẫu một số nghiệp vụ hoặc áp dụng các thử nghiệm thích hợp trên cơ sở xem xét mối quan hệ giữa hiệu quả kiểm toán và chi phí kiểm toán. Do vậy, phương pháp chọn mẫu kiểm toán được sử dụng nếu bản chất và mức độ trọng yếu của số dư TK không đòi hỏi phải kiểm toán toàn bộ và cần đưa ra kết luận về số dư đó dựa trên mẫu chọn trên cơ sở xem xét đến chi phí và hiệu quả của cuộc kiểm toán. Như vậy, bản chất của kiểm tra chi tiết là đưa ra kết luận về số dư TK được kiểm tra thông qua phương pháp chọn mẫu kiểm toán. Phương pháp kiểm tra chi tiết mang lại hiệu quả cao trong việc thu thập bằng chứng kiểm toán. Tuy nhiên, vai trò đó của kiểm tra chi tiết được thể hiện khác nhau ở các cuộc kiểm toán khác nhau. Trước hết, vai trò của thủ tục này thể hiện ở phạm vi áp dụng của nó. Kiểm tra chi tiết có thể áp dụng với từng khoản mục trong tổng số hoặc một nhóm các khoản mục. Thông thường, để đạt được hiệu quả kiểm toán cao, KTV bắt đầu tiến hành các thử nghiệm phân tích, đến trắc nghiệm công việc qua trắc nghiệm trực tiếp số dư. Kiểm tra chi tiết thường có hiệu lực đối với những mục tiêu kiểm toán liên quan đến các nghiệp vụ không thường xuyên và số lượng các nghiệp vụ phát sinh lớn. Trường hợp không phát hiện sai sót trọng yếu khi thực hiện các thử nghiệm kiểm soát và thử nghiệm phân tích đối với các nghiệp vụ thường xuyên, KTV cũng cần áp dụng phương pháp kiểm tra chi tiết để có bằng chứng chắc chắn cho các kết luận của mình. Vai trò của kiểm tra chi tiết không chỉ thể hiện ở phạm vi sử dụng nó mà quan trọng hơn là xem xét vai trò của kiểm tra chi tiết trong mối liên hệ với thủ tục phân tích, trong mối quan hệ với một số kiểu mẫu bằng chứng, trong tương quan về chi phí cho một cuộc kiểm toán và trong các cuộc kiểm toán khác nhau. Nói chung khi thực hiện kiểm tra đối với các khoản phải thu thường được thực hiện trên bảng phân tích tuổi nợ đối với các khoản phải thu. Trước tiên KTV phải kiểm tra số tổng cộng trên bảng phân tích tuổi nợ các khoản phải thu, tuy nhiên số tổng cộng này phải được cân đối với số dư trên sổ tổng hợp. Ngoài ra một mẫu các số dư cá biệt phải được đối chiếu với các sổ chi tiết về số tiền, thời hạn thanh toán, tên khách hàng, và các thông tin liên quan khác. Nếu như hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động hiệu quả thì thủ tục này có thể rút ngắn thời gian. 2. Vận dụng thử nghiệm cơ bản trong kiểm toán các khoản phải thu khách hàng 2.1. Đặc điểm của các khoản phải thu khách hàng Các khoản phải thu trên BCTC là một phần tài sản của doanh nghiệp mà doanh nghiệp sẽ thu được trong tương lai, do vậy việc hiểu và hạch toán đúng đắn các khoản phải thu là vô cùng quan trọng. Các khoản phải thu khách hàng là các khoản phát sinh trong quá trình bán sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ khi thời điểm bán hàng và thời điểm thu tiền không cùng một thời điểm. Các khoản phải thu khách hàng là một loại tài sản của doanh nghiệp bị người mua chiếm dụng mà đơn vị có trách nhiệm phải thu hồi. Bản chất của các khoản phải thu khách hàng là các khoản thu từ bán hàng và cung cấp dịch vụ nhưng chưa thu tiền ngay, đây là một hình thức tín dụng trong mua bán hàng hóa. Thời hạn thanh toán của các khoản phải thu khách hàng tuỳ thuộc vào chính sách tín dụng của từng đơn vị và áp dụng đối với từng khách hàng cụ thể. Nợ phải thu khách hàng là một loại tài sản khá nhạy cảm với những gian lận như bị nhân viên chiếm dụng hay bị tham ô. Mặt khác, nợ phải thu khách hàng là khoản mục liên quan mật thiết đến kết quả kinh doanh. Chính vì vậy đây là một trong những cách thức để khai khống doanh thu và lợi nhuận. Các khoản phải thu khách hàng được ghi nhận theo giá trị thuần có thể thực hiện được. Song việc lập dự phòng các khoản phải thu khó đòi cho nợ phải thu khách hàng dựa vào ước tính của các nhà quản lý nên có nhiều khả năng sai sót và khó kiểm tra. Bản chất của các khoản dự phòng phải thu khó đòi làm tăng chi phí quản lý doanh nghiệp do đó làm giảm lợi nhuận trong kỳ báo cáo vì vậy việc lập dự phòng phải tuân thủ nghiêm ngặt những quy định của chế độ tài chính hiện hành. Các doanh nghiệp lập dự phòng cho các khoản phải thu để đề phòng nợ phải thu thất thu khi khách hàng không có khả năng trả nợ và nhằm xác định giá trị thực của khoản tiền nợ phải thu. Việc ghi nhận các khoản phải thu khách hàng phải tuân thủ những nguyên tắc sau : Nguyên tắc 1: Khi theo dõi và hạch toán các khoản phải thu phải chi tiết theo từng đối tượng cụ thể, không được phép bù trừ các khoản công nợ phải thu, phải trả giữa các đối tượng khác nhau (trừ khi có sự thoả thuận giữa các đối tượng với doanh nghiệp). Nguyên tắc 2: Phải tổng hợp tình hình thanh toán với người mua theo tính chất nợ phải thu hay nợ phải trả trước khi lập báo cáo kế toán. Nguyên tắc 3: Đối với các khoản công nợ phải thu khách hàng có nguồn gốc ngoại tệ thì phải vừa theo dõi được bằng ngoại tệ, vừa phải quy đổi thành tiền Việt Nam theo tỷ giá thích hợp và thực hiện điều chỉnh tỷ giá khi lập báo cáo kế toán cuối năm. Để theo dõi các khoản phải thu khách hàng, kế toán sử dụng TK 131 “Phải thu khách hàng”. Kết cấu của TK này như sau: Bên Nợ phản ánh số tiền bán vật tư, sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ phải thu khách hàng; Số tiền thừa mà doanh nghiẹp phải trả lại cho khách hàng; Điều chỉnh khoản chênh lệch do tỷ giá ngoại tệ tăng với các khoản phải thu khách hàng có nguồn gốc ngoại tệ. Bên Có phản ánh số tiền đã thu ở khách hàng (kể cả tiền ứng trước của khách hàng); Số chiết khấu thanh toán, số chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán và giá bán của hàng đã tiêu thụ bị trả lại trừ vào nợ phải thu; Các nghiệp vụ khác làm giảm khoản phải thu khách hàng (như chênh lệch tỷ giá, thanh toán bù trừ, xoá sổ nợ khó đòi…). TK 131 có thể đồng thời vừa dư
Tài liệu liên quan