Công tác giáo dục và dào tạo của huyện Nho Quan khi bước sang thế kỷ XXI

Nho Quan là một huyện miền núi phía bắc nằm ở tỉnh Ninh Bình trong khoảng 20,19 độ pía bắc đến 105,4 độ kinh đông, ở đoạn giữa vùng núi từ Hoà Bình chạy theo hướng Tây Bắc- Đông Nam đến thị xã tam điệp. Địa hình và cảnh chí thiên nhiên đẹp có nhiều hang động như hang Thổ tích (Thượng Hoà) hang Ngọc Hao (Lạc vân), hang Đăng Đắng (Cúc phương) cảnh quan hữu tình và được nhiều người biết đến. Ở Nho Quan rất có tiềm năng du lịch và thu hút được nhiều khách du lich trong và ngoài nước với vườn quốc gia Cúc Phương, và nhiều hệ thống hang động như động Vân Trình, động Người Xưa(Cúc phương). ngoài ra còn có nhiều hồ với cảnh quan thiên nhiên đẹp có khả năng làm khu du lịch sinh thái như hồ Đồng chương và hồ Yên Quang. Diện tích tự nhiên 45.8333 ha. Đất đai hình thành 3 vùng rõ rệt. Vùng rừng núi vùng bán sơn địa và nhiều vùng đồng chiêm trũng. Độ cao trung bình so với mặt nước biển từ +3 đến +5. Trước kia độ che phủ rừng cao, nước về từ từ, độ ngập thấp, nước về nhanh, nạn úng lụt sảy ra thường xuyên.Ở Nho Quan rừng chiếm 21% diện tích tự nhiên toàn huyện, có nhiều cây cỏ và cầm thú có giá trị kinh tế cao. Rừng đồi tập chung khá lớn, chạy dài 40km, từ xích thổ, Thạch Bình đến Sơn Hà, Quảng Lạc. Đặc biệt Nho Quan có rừng nguyên sinh Cúc Phương rộng 22,200 ha riêng phần thuộc đất Nho Quan rộng 11, 350 ha, còn lại là thuộc tỉnh Hoà Bình và Thanh Hoá, Có nhiều loại động vật và thực vật quý hiến và là thắng cảnh thiên nhiên của đất nước. Có những động thực vật được ghi vào sách đỏ và đang được nuôi dưỡng và bảo tồn trong rừng Cúc Phương như voọc quần đùi trắng. khỉ bạc má, sao la vv.Theo con số điều tra chưa đầy đủ, riêng về thực vật đã tìm thấy 2.000 loài. Cúc Phương là nơi gặp nhau của các luồng thực vật di thực từ nhiệt đới Â'n Độ, Miến Điện, như các loài chò xanh, chò nhai, chò chỉ, các loài trong họ trò đao. động vật ở đây có 232 loài có xương sống, gồm 64 loài thú, 137 loài chim, 36 loài bò sát, 17 loài lưỡng thê. Riêng động vật không xương sống ở rừng cúc phương có tới hàng ngàn loài. Cúc phương là sứ sở của những loài bướm có màu sắc đẹp, nhiều loài động vật được phát hiện đầu tiên như: Sóc bụng đỏ, cá niếc hang, trăn gấm gấu, ngựa báo gấu, tất cả tạo nên sự sống phong phú trong một khu rừng thật là hoàn chỉnh, là nơi thăm quan du lịch hấp dẫn.

doc49 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1961 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Công tác giáo dục và dào tạo của huyện Nho Quan khi bước sang thế kỷ XXI, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TÁC GIÁO DỤC VÀ DÀO TẠO CỦA HUYỆN NHO QUAN KHI BƯỚC SANG THẾ KỶ XXI 1. Khái quát Đặc điểm địa lí kinh tế xã hội của huyện nho quan Nho Quan là một huyện miền núi phía bắc nằm ở tỉnh Ninh Bình trong khoảng 20,19 độ pía bắc đến 105,4 độ kinh đông, ở đoạn giữa vùng núi từ Hoà Bình chạy theo hướng Tây Bắc- Đông Nam đến thị xã tam điệp. Địa hình và cảnh chí thiên nhiên đẹp có nhiều hang động như hang Thổ tích (Thượng Hoà) hang Ngọc Hao (Lạc vân), hang Đăng Đắng (Cúc phương)…cảnh quan hữu tình và được nhiều người biết đến. Ở Nho Quan rất có tiềm năng du lịch và thu hút được nhiều khách du lich trong và ngoài nước với vườn quốc gia Cúc Phương, và nhiều hệ thống hang động như động Vân Trình, động Người Xưa(Cúc phương). ngoài ra còn có nhiều hồ với cảnh quan thiên nhiên đẹp có khả năng làm khu du lịch sinh thái như hồ Đồng chương và hồ Yên Quang. Diện tích tự nhiên 45.8333 ha. Đất đai hình thành 3 vùng rõ rệt. Vùng rừng núi vùng bán sơn địa và nhiều vùng đồng chiêm trũng. Độ cao trung bình so với mặt nước biển từ +3 đến +5. Trước kia độ che phủ rừng cao, nước về từ từ, độ ngập thấp, nước về nhanh, nạn úng lụt sảy ra thường xuyên.Ở Nho Quan rừng chiếm 21% diện tích tự nhiên toàn huyện, có nhiều cây cỏ và cầm thú có giá trị kinh tế cao. Rừng đồi tập chung khá lớn, chạy dài 40km, từ xích thổ, Thạch Bình đến Sơn Hà, Quảng Lạc. Đặc biệt Nho Quan có rừng nguyên sinh Cúc Phương rộng 22,200 ha riêng phần thuộc đất Nho Quan rộng 11, 350 ha, còn lại là thuộc tỉnh Hoà Bình và Thanh Hoá, Có nhiều loại động vật và thực vật quý hiến và là thắng cảnh thiên nhiên của đất nước. Có những động thực vật được ghi vào sách đỏ và đang được nuôi dưỡng và bảo tồn trong rừng Cúc Phương như voọc quần đùi trắng. khỉ bạc má, sao la vv...Theo con số điều tra chưa đầy đủ, riêng về thực vật đã tìm thấy 2.000 loài. Cúc Phương là nơi gặp nhau của các luồng thực vật di thực từ nhiệt đới Â'n Độ, Miến Điện, như các loài chò xanh, chò nhai, chò chỉ, các loài trong họ trò đao. động vật ở đây có 232 loài có xương sống, gồm 64 loài thú, 137 loài chim, 36 loài bò sát, 17 loài lưỡng thê. Riêng động vật không xương sống ở rừng cúc phương có tới hàng ngàn loài. Cúc phương là sứ sở của những loài bướm có màu sắc đẹp, nhiều loài động vật được phát hiện đầu tiên như: Sóc bụng đỏ, cá niếc hang, trăn gấm gấu, ngựa báo gấu, tất cả tạo nên sự sống phong phú trong một khu rừng thật là hoàn chỉnh, là nơi thăm quan du lịch hấp dẫn. Ngoài ra khi du khách đến thăm rừng Cúc phương sẽ có một cảm giác thất thoải mái và thư giãn khi đến với khu điều dưỡng Cúc Phương. ở đây có khu du lịch với hệ thống nhà nghỉ khách sạn với chất lưọng cao. Điều đặc biệt ở đây là du khách có thể tắm nước suối khoáng nóng. Với hê thống bể bơi, bồn tắm hiện đại có thể chữa bệnh, và giúp cho ta cảm thấy khoan khoái giảm bớt mệt mỏi. Đây là khu du lịch mới như rất có tiềm năng phát triển và dần sẽ có rất nhiều người biết đến. Nho Quan còn là một vùng có nhiều tài nguyên khoáng sản. Hệ thống núi đá vôi 11.026 ha. Cát vàng ở xích thổ, đất màu ở văn phú là nguyên liệu sản xuất ra ve quét tường đá ong dùng làm vật liệu xây dựng vùng ở Quỳnh Lưu, Phú Lộc, Sơn Hà…ở Xích Thổ có đất làm gạch chịu nhiệt, Đầm Đùn (Thạch Bình) có mỏ than, trữ lượng khá lớn có thể khai thác phục vụ cho công nghiệp địa phương. suối khoáng nóng Thường Xung(kỳ phú) chữa được nhiều bệnh có giá trị kinh tế cao. Nho Quan có hệ thống hồ nằm ở phía Tây huyện, trải dài từ phía Bắc đến phía nam của huyện, có hơn 30 hồ nước lớn nhỏ, trữ lượng hơn 5 triệu m³ nước, lớn nhất là hồ Yên Quang trữ lượng hơn 5 triệu m³ nước. Mùa mưa hồ là nơi trữ nước lũ, mùa khô là nơi cung cấp nước để trồng cây phục vụ sinh hoạt cho con người và động vật chăn nuôi. Hồ còn là nơi nuôi cá cung cấp thực phẩm cho nhân dân. nhiều hồ có cảnh trí thiên nhiên đẹp là tiền năng cho kinh tế du lịch của Nho Quan. Đất đai, núi rừng phong phú và đa dạng, là điều kiện thuận lợi cho Nho Quan phát triển kinh tế toàn diện nhưng úng lụt, hạn hán ,sâu bệnh… vẫn là mối lo của quần chúng, là những thách thức lớn lao với đảmg bộ trước cuộc sống của nhân dân trong huyện. Trải qua lịch sử phát triển lâu dài của đất nước. Nho Quan có nhiều tên gọi khác nhau. Thời kỳ Đinh Tiên Hoàng dẹp loại 12 xứ quân thống nhất giang sơn lập nên nước Đại Cồ Việt, vùng này thuộc Phủ Tràng An. Dưới triều nhà lý (1054) gọi là Phủ Trường Yên. Đến triều trần gọi là Trấn Thiên Quan, năm Quang Thái thứ 10 (1397) đổi là phủ thiên quan. Đến triều Tự Đức năm thứ 15 (1861) đổi thành Phủ Nho Quan. Năm 1921, ba tổng Đề Cốc, Mất Một, Xích Thổ thuộc huyện Yên Hoá sáp nhập vào huyện Gia Viễn. Sau cách mạng tháng 8 năm 1945 điều chỉnh cắt tổng Vân Trình (huyện Gia Viễn) nhập vào Huyện Nho Quan. Đầu năm 1953 uỷ ban kháng chiến hành chính liên khu III quyết định sát nhập 5 xã Quang Minh, Phú Thịnh, Bảo Lương, Đoàn Kết và Yên Lương thuộc huyện nho quan vào Yên Thuỷ (Hoà Bình). Tháng 4 năm 1977, theo nghị quyết của Hội Đồng chính phủ số 125/cp ngày 27/4/ năm 1977. do sự chỉ đạo của Trung ương, phân bố lại các khu vực hành chính đã sát nhập hai huyện Nho Quan và Gia Viễn thành huyện Hoàng Long. Tháng 4 năm 1981, do yêu cầu của tình hình đòi hỏi phải tăng cường lãnh đạo và quản lý cấp huyện. Hoàng Long lại được điều chỉnh lại địa giới hành chính, tách thành hai huyện Hoàng long và Gia Viễn. Ngày 23 tháng 11 năm 1993 theo nghị định 88/CP của chính phủ đổi tên huyện hoàng long trở thành tên cũ là Huyện Nho Quan. Huyện Nho Quan nằm ở vùng rừng núi tiếp giáp với tỉnh Hoà bình và Thanh Hoá, có Đường Quốc lộ 12B từ hoà bình đi qua thị trân Nho Quan, gặp đường số 1 tại Tam Điệp. Quốc lộ 45 từ Rịa đi qua Sòng Cạn (Thạch Thành, Thanh Hoá). Đường tỉnh lộ 477 từ thị trấn Nho Quan qua Gia Viễn gặp quốc lộ I ở Gián Khẩu, đường 479A từ ngã ba gia tường đi Chi Nê (Hoà Bình), đường 491 (đường Nguyễn Văn Trỗi) từ ngã ba quỳnh lưu gặp đường số 1 tại cầu Huyện (Hoa Lư), đường chiến lược ( mở ra trong kháng chiến chống mỹ) từ ngã ba gia lâm qua Thạch Bình, Đồng phong, đi Cúc phương. Nho Quan có sông Lạng chảy từ Chiêm Hoá (Hoà Bình) qua thị trấn Nho Quan gặp sông bôi tại Kenh Gà. sông ỷ Na từ hoà bình qua gia lâm gặp sông bôi tại Canh Bầu ( Gia thuỷ). Sông Bến Đang từ Quỳnh Lưu qua Sơn Hà, Yên Sơn, (Tam Điệp). Từ thị trấn Nho Quan có thể đi Ninh Bình, Nam Định, Thanh Hoá, Hà Nam, Hoà Bình, Hà Nội….bằng nhiều tuyến đường giao thông đường thuỷ và đường bộ thuận tiện. Từ xa xưa, cũng như trong cuộc kháng chiến chống thực dân pháp và Đế quốc Mỹ xâm lược, Nho Quan là nơi hậu cứ, cất dấu quân lương và là điểm xuất phát tấn công quân thù. Theo kết Qủa sơ bộ về khảo cổ học cho biết, Nho Quan có cuộc sống của con người cách đây khoảng 7.000 năm tại động người xưa (Cúc Phương) tìm thấy những di tích văn hoá thuộc sơ kỳ thời đồ đá mới, đó là những công cụ bằng đá khá tinh vi, có hình rìu và hình búa đá, những đống vỏ sò, hến đã hoá thạch cùng với những ngôi mộ chôn ở cửa hang với tư thế nằm nghiêng. Dọc các sườn đồi từ xã Thạch Bình đến xã Văn Phú nhân dân đã nhặt được nhiều rìu đá thuộc sơ kỳ đồ đá. Trên địa bàn phát hiện được 4 trống đồng ở Yên Quang, Gia Tường, Thạch Bình, Văn Phương. Cùng với nhiều tên làng cổ như: làng Sầy, Cối, Láo, Ráy, Bái, A´c, Rơ, Chủ, Chạ…đủ để cho chúng ta khẳng định rằng: Vùng đất Nho Quan đã có người sinh sống từ rất sớm. Từ trong rừng núi và hang động con người đã xuống các vùng lân cận lập làng, ấp làm ăn sinh sống và tồn tại cho đến ngày nay. Dân số Nho Quan ngày nay có 144,792 người nghề sinh sống chính là làm ruộng, trồng lúa nước và ngô, khoai, sắn và trồng một số cây công nghiệp khác như lạc, vừng, thuốc lá…. Con người sinh sống trên đất Nho Quan hiện nay có 9 dân tộc, trong đó có hai dân tộc chiếm số đông là dân tộc Kinh và dân tộc Mường. Dân tộc Kinh chiếm 82% số dân. Sống tụ tập thành quần thể làng xã nằm ở vùng chiêm trũng và hai bên các trục đường giao thông thuỷ bộ. Dân tộc Mường có 18,099 người chiếm 12,5 % số dân cả huyện sống tụ tập thành các quần thể làng bản nằm sâu trong vùng đồi núi. Còn lại các dân tộc khác là những dân tộc di cư đến như Thái, H’mông, Cao Lan…14,2 % dân số Nho Quan theo công giáo sống rải rác ở 14 xã trong huyện. Người kinh, người Mường, Người Lương, Giáo tuy có khác nhau ít nhiều về ngôn ngữ, Phong Tục, nhưng từ rất sớm đã hoà vào nhau tạo thành một khối thống nhất. Qua những bút tích, sắc phong, thần phả… còn gữi ở làng bản, thônn xóm Nho Quan, đã nói lên vùng đất này từ xưa con người đã biết đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau để chống thiên tai dịch hoạ , bảo vệ cuộc sống. Từ trong cuộc sống con người Nho Quan đã sớm nảy nở tình cảm yêu thương thôn xóm, làng bản yêu thương, Sự đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo đựoc xem như là đạo nghĩa cao cả trong mối quan hệ xã hội ở Nho Quan. 2. Nhân dân huyện Nho Quan phát huy truyền thống hiếu học của dân tộc Nho quan là một huyện miền núi đời sống kinh tế vẫn còn khó khăn. nghề chính vẫn là nông nghiệp. Nhưng dù đời sống kinh tế còn khó khăn nhưng với truyền thống hiếu học của dân tộc. Nhân dân trong huyện cũng đã phát huy được tinh thần hiếu học đó cả trong chiến tranh lẫn thời bình. Trong thời kỳ pháp thuộc và thời kỳ phong kiến tỷ lệ người biết đọc biết viết là rất ít vì chính sách ngu dân của thực dân pháp, người được đi học chủ yếu vẫn là con em của địa chủ phong kiến và tay sai của pháp nên ở trong huyện người viết đọc và biết viết là rất ít. Nhưng đến ngày 8/9/1945 Hồ Chủ Tịch ký xác lệnh thành lập nha bình dân học vụ để phụ trách việc chống nạn mù chữ. Tháng 10 năm 1945. Hồ chủ tịch ra lời kêu gọi toàn dân tích cực tham gia phong trào chống nạn thất học. Hoà cùng không khí thi đua của cả nước chống nạn mù chữ nhân dân huyện Nho Quan, Kinh cũng như Mường, lương cũng như giáo trước những khó khăn thiếu thốn về vật chất. Đã có nhiều sáng kiến để tổ chức dạy và học. Nhiều hình thức kiểm tra và nhắc nhở nhau học tập: như kiểm tra chữ trước khi vào chợ, những người biết chữ thì vào cổng sáng những người không biết chữ thì vào cổng tối. Không khí học tập diễn ra sôi nổi ở khắp mọi nơi, từ trẻ con đến người lớn tuổi đều đi học ở những lớp bình dân học vụ. Ngoài ra lãnh đạo huyện còn tạo điều kiện để cho nhân dân đi học như mở nhiều lớp học, lớp học sáng, lớp học trưa, lớp học tối phù hợp với giờ giấc lao động để mọi người tranh thủ đến học tập. Điều kiện kinh tế còn khó khăn cơ sở vật chất không có chỉ là những lớp hộc tạm bợ, đồ dùng học tập cũng rất thiếu thốn nhưng nhân dân trong huyện đã khắc phục những khó khăn ấy. Không có giấy lấy than củi và gạch non viết lên nền nhà. Không có giấy thì viết lên lá chuối và những mặt bằng có thể viết được để học tập. Không khí học tập diễn ra rất sôi nổi nhân dân trong huyện thi đua nhau để học tập. Có thể nói chưa bao giờ nhân dân trong huyện lại tha thiết học văn hoá như lúc này. Nhờ công việc thanh toán nạn mù chữ đạt kết quả khá tốt, chỉ trong một thời gian ngắn đã có hàng ngàn người biết đọc biết viết. Nhiều ông cụ, bầ cụ 60-70 tuổi vẫn say xưa tham gia học và dạy văn hoá, ở xã Quỳnh Lưu có 3 cụ già ngoài 60 tuổi vẫn tham gia dạy bình dân học vụ. Cụ Đinh Văn Bằng người dân tộc Mường đã đỗ lớp bình dân học vụ khi cụ 74 tuổi. Uỷ ban nhân dân huyện đã tổ chức rước bằng của cụ trong cuộc mít tinh toàn huyện. Ngày nay khi đời sống kinh tế dần được cải thiện. Thì chất lượng giáo dục ngày một được nâng cao. Trong chiến tranh thì mục tiêu chủ yếu của nhân dân trong huyện là học để xoá nạn mù chữ. Nhưng trong thời bình thì nhiệm vụ học tập đã được nâng cao lên học để xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Được sự lãnh đạo của đảng và sự nỗ lực của ngành giáo dục chất lượng giáo dục ngày một nâng cao ngành giáo dục huyện nhà đã có những chuyển biến quan trọng tạo ra những điều kiện và cơ hội mới bước vào thời kỳ phát triển mới về GD-ĐT. Mạng lưới trường, lớp tiếp tục được duy trì và phát triển với các hình thức đa dạng, đáp ứng được nhu cầu học tập của con em nhân dân - quy mô giáo dục không ngừng tăng, các điều kiện để đảm bảo chất lượng không ngừng đổi mới và tiến bộ - tình trạng mất cân đối về cơ cấu bậc học - ngành học, giữa các vùng, miền đã được khắc phục dần. Toàn huyện đã hoàn thành phổ cập GDTH đúng độ tuổi và phổ cập THCS .Đội ngũ giáo viên tiếp tục được tăng cường, bồi dưỡng theo hướng chuẩn hoá - cơ sở vật chất tiếp tục được củng cố và nâng cấp, nhiều trường học khang trang hơn, so với những năm trước, số lượng học sinh yếu kém đã hạn chế - phong trào thi đua sôi nổi liên tục và có tác dụng sâu sắc trong toàn ngành - nhiều điển hình tiên tiến về tập thể, cá nhân xuất hiện, đáp ứng yêu cầu mới của ngành và xã hội - gia đình và cộng động đã chăm lo hơn cho sự nghiệp giáo dục đồng thời cũng có những đòi hỏi cao hơn về chất lượng giáo dục. Để có thể tìm hiểu rõ hơn về tình hình giáo dục của huyện Nho Quan. Tôi xin trình bày khái quát về giáo dục của huyện trong những năm đầu thế kỷ XXI. để chúng ta có thể thấy được những ưu điểm và tồn tại trong những năm đầu đổi mới giáo dục. để nền giáo dục của huyện Nho Quan nói chung và của cả nước nói riêng từng bước đi vào hoàn thiện. II. TÌNH HÌNH GIÁO DỤC CỦA NHO QUAN KHI BƯỚC SANG THẾ KỶ MỚI A. Những thành tựu đạt được trong công tác giáo dục 1. Sự nghiệp giáo dục đào tạo phát triển khá nhanh về quy mô và cả số lượng chất lượng Việc mở rộng mô hình nhà trẻ dân lập trường lớp bán công bổ túc văn hoá dạy nghề theo hướng da dạng hoá các mô hình giáo dục bước đầu thu hoạch được những kết qủa tốt khẳng định lối đi đúng phù hợp với điều kiện địa phương. tỷ lệ các cháu trong độ tuổi đến trường tăng so với kế hoạch. Đội ngũ giáo viên từng bước được chuẩn hoá theo quy định. Phong trào học tốt, dạy tốt, nề nếp trường lớp có chuyển biến rõ nét. Chất lượng giáo dục đại trà, giáo dục mũi nhọn được nâng lên. Số học sinh được lên lớp tốt nghiệp cấp tiểu học trung học cơ sở các năm học đạt từ 97-99%. Trung học phổ thông đạt từ 90 – 95 %. Hàng năm có từ 20 đến 50 học sinh đạt giải các kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh.thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục, trên cơ sở trường lớp được nâng cấp theo hướng kiên cố hoá đến nay có 27/ 27 xã có đã có trường học kiên cố, các trường trong huyện chủ yếu là nhà cao tầng các trang thiết bị trường học được đầu tư nhiều. ở những trường cấp ba trong huyện đã được trang bị nhiều máy vi tính để phục vụ giảng dạy bô môn tin học trong nhà trường. Ở huyện nho quan đã có hai trường tiểu học đạt tiêu chuẩn quốc gia. 14/27 xã phổ cập chương trình trun học cơ sở đạt 52% vượt chỉ tiêu 2%. Do có sự chỉ đạo của cấp uỷ, HĐND, UBND từ tỉnh đến huyện, xã. Có sự chỉ đạo chuyên môn sâu sát của Sở giáo dục - đào tạo Ninh Bình, sự ủng hộ của các ban ngành đoàn thể và nhân dân trong toàn huyện. Cán bộ, giáo viên huyện Nho Quan phát huy truyền thống cách mạng biết vượt qua khó khăn, thử thách, đoàn kết, tâm huyết, yêu ngành, yêu nghề không ngừng vươn lên trong học tập, rèn luyện và công tác, được nhân dân tôn trọng, quý mến. các trường đã tập trung chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện - chú trọng giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, phòng chống các tệ nạn xã hội xâm nhập vào trường học, tiếp tục xây dựng và củng cố kỷ cương, nền nếp trường học, kịp thời triển khai giảm tải nội dung học tập theo sự chỉ đạo của Bộ giáo dục - đào tạo và sở giáo dục - đào tạo - thực hiện nghiêm túc giảng dạy và học tập các môn, không cắt xén, không dồn ép chương trình, thống nhất các quy định về hồ sơ, sổ sách chuyên môn và phong trào đổi mới phương pháp dạy và học được diễn ra sôi nổi trong suốt cả năm học. Trong đó đã tập trung cao chuyên đề một số môn học đối với tất cả các bậc học. Tạo ra những chuyển biến và tiến bộ mới về chất lượng so với các năm học trước. Khi có nghị quyết TW8 và TW9 kết luận trong nghị quyết TW2 (khóa VIII) về GDĐT, nghị quyết tỉnh Đảng bộ lần thứ XIV, huyện Đảng bộ Nho Quan lần thứ XXIII. Tiếp tục thưc hiện chính sách coi giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, những chính sách về giáo dục đào tạo từng bước đi vào cuộc sống tạo thuận lợi cho sự nghiệp giáo dục phát triển. + Được sự ủng hộ của chính quyền địa phương các cấp , của sở giáo dục đào tạo, hội phụ huynh, hội khuyến học và các lực lượng xã hội. + Đội ngũ giáo viên có tinh thần trách nhiệm, nhiệt tình với giáo dục đào tạo thế hệ trẻ, có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm tương đối ổn địnhTiếp tục phát triển quy mô ở tất cả các loại hình trường, lớp (công lập và ngoài công lập) phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, cơ bản đáp ứng được nhu cầu học tập của nhân dân. Tính đến tháng 6/2006, toàn huyện có 83 cơ sở giáo dục với 31 824 học sinh/ 1164 lớp từ mầm non đến trung học cơ sở cụ thể: Cấp học  Trường  Lớp/ Nhóm  Học sinh  Số HS so với kế hoạch   a. Giáo dục MN  29      Nhà trẻ   155  2500  đạt 100% KH   Mẫu giáo   255  5300  đạt 100% KH   b. GD phổ thông      Tiểu học  27  421  10 939  Giảm 994 HS so với cùng kỳ năm trước Đạt 100% KH   Trung học cơ sở  27  333  13 085  Giảm 977HS so với cùng kỳ năm trước Đạt 98.3% KH   Có 485 học viên tham gia bổ túc THCS Có 27 trung tâm học tập cộng đồng, huy động được 25346 lượt người tham gia. Tỉ lệ trẻ 6 tuổi huy động vào lớp 1 đạt 100%; tỉ lệ học sinh hoàn thành chương trình lớp 5 vào lớp 6 đạt 99,2%. - Toàn ngành thực hiện nghiêm túc kế hoạch dạy học theo đúng hướng dẫn nhiệm vụ năm học. - Phương pháp dạy học của giáo viên tiếp tục được đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh. Việc sử dụng đồ dùng, thiết bị dạy học tiếp tục được chú trọng và phát huy hiệu quả. 2. Chất lượng giáo dục mầm non Tiếp tục thực hiện các chuyên đề về lễ giáo, vệ sinh dinh dưỡng, làm quen với môn Toán, Chữ cái, đẩy mạnh chuyên đề tạo hình, Giáo dục âm nhạc trong các lớp mẫu giáo. Không ngừng nâng cao chất lượng dạy và nuôi các cháu. Đảm bảo mức ăn hàng ngày của các cháu từ 2.000 đ/ngày/cháu - 2.500 đ/ngày/cháu. Tỷ lệ suy dinh dưỡng của các cháu mầm non hiện nay còn từ 10 - 12%, so với năm trước giảm 1,5 1%. Tổ chức chuyên đề vệ sinh răng miệng đến tất cả các cô giáo mầm non. +. Giáo dục lao động, hướng nghiệp - dạy nghề - Các nhà trường đã tổ chức tốt công tác giáo dục lao động và hướng nghiệp - dạy nghề cho 3387 học sinh tại 27 trường THCS. - Tỉ lệ học sinh THCS học nghề phổ thông 3387/3503 đạt 96,7%. Tỉ lệ đỗ trong kì thi nghề là 3386/3387 đạt 99,97% . + Các hoạt động giáo dục khác - Công tác giáo dục trật tự an toàn giao thông, giáo dục dân số - sức khỏe, giáo dục môi trường, các cuộc thi "Tìm hiểu 75 năm ngày thành lập đoàn", ""An ninh Việt Nam - 60 năm truyền thống vẻ vang"… được các nhà trường thực hiện qua sự tích hợp các nội dung giáo dục vào các môn học và qua các đợt tổ chức dưới hình thức chuyên đề, các hội thi. 3. Phổ cập giáo dục - Phổ cập giáo dục tiểu học được duy trì, củng cố và nâng cao chất lượng. Qua kiểm tra, 100% xã, thị trấn đạt chuẩn PCGDTH đúng độ tuổi; trẻ 6 tuổi huy động vào lớp 1 (sinh năm 1999) đạt tỉ lệ 100 %; huy động và duy trì trẻ từ 7 - 14 tuổi trong diện PCGDTH đi học tiểu học đạt 100%. Chất lượng chuẩn PCGDTH đúng độ tuổi đã được nâng lên rõ rệt. - Phổ cập giáo dục THCS được giữ vững. Phòng Giáo dục đã phối hợp với các ban ngành của huyện chỉ đạo các trường THCS tiếp tục nâng cao chất lượng PCGD THCS. Kết quả kiểm tra tháng 12/2005 cho thấy: 27/27 xã, thị trấn đạt tiêu chuẩn PCGDTHCS. 4. Xây dựng các điều kiện cho dạy và học a. Xây dựng đội ngũ - Ngành đã có nhiều cố gắng trong công tác tham mưu đào tạo, bồi dưỡng và tuyển dụng, sử dụng đội ngũ giáo viên. Năm học 2005 – 2006 về cơ bản đã đáp ứng nhu cầu về số lượng và chất lượng giáo viên đối với các cấp học. - Đến tháng 5/2006, toàn ngành có 83% giáo viên mầm non; 98,3% giáo viên tiểu học và 95% giáo viên THCS đạt trình độ chuẩn trở lên (trong đó 2,5% giáo viên mầm non; 40,4% giáo viên tiểu học và 15,4% giáo viên THCS đạt trình độ trên chuẩn). - Thực hiện Nghị quyết 16/2000/NQ-CP; Nghị quyết 09/2003/NQ-CP của h phủ, toàn ngành đã thực hiện tinh giản biên chế 79 người, trong
Tài liệu liên quan