Dân tộc và đặc điểm mối quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay

Các dân tộc ở Việt Nam có quan hệ lâu đời trên nhiều lĩnh vực trong quá trình cùng tồn tại và phát triển. Từ khi ra đời và suốt trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta, đứng đầu là Hồ Chí Minh luôn luôn coi việc xây dựng quan hệ đoàn kết, bình đẳng, hữu nghị giữa các dân tộc là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược. Chính sách dân tộc của đảng vì thế luôn nhằm vào khắc phục từng bước sự chênh lệch giữa các dân tộc, thực sự bình đẳng, cùng làm chủ tổ quốc, cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, Đảng và nhà nước ta luôn luôn nhấn mạnh ý nghĩa chiến lược của vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc, phát huy sức mạnh của cộng đồng dân tộc, truyền thống yêu nước và lòng tự hào dân tộc vì mục tiêu độc lập, thống nhất, tiến lên dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Bước sang thời kỳ mới của sự nghiệp xây dựng đất nước, nhân dân ta càng có điềy kiện để thưc hiện tốt hơn việc tăng cường, mở rộng khối đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, động viên cao nhất sức mạnh dân tộc để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, vấn đề dân tộc, quan hệ dân tộc và chính sách dân tộc là những vấn đề rất lớn, phức tạp và nhạy cảm, nhiều nội dung của vấn đề này đang cần được nghiên cứu, giải quyết cả về lý luận và thực tiễn. Những vấn đề thời sự liên quan đến dân tộc, quan hệ dân tộc trên thế giới cũng như trong nước đang làm cho việc tìm hiểu, nghiên cứu về những nội dung trở lên rất quan trọng và bức thiết. Đây chính là lý do tôi chọn đề tài: “Dân tộc và đặc điểm mối quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay” làm bài viết tiểu luận cuối kỳ của mình.

doc17 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 18394 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Dân tộc và đặc điểm mối quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài. Các dân tộc ở Việt Nam có quan hệ lâu đời trên nhiều lĩnh vực trong quá trình cùng tồn tại và phát triển. Từ khi ra đời và suốt trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta, đứng đầu là Hồ Chí Minh luôn luôn coi việc xây dựng quan hệ đoàn kết, bình đẳng, hữu nghị giữa các dân tộc là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược. Chính sách dân tộc của đảng vì thế luôn nhằm vào khắc phục từng bước sự chênh lệch giữa các dân tộc, thực sự bình đẳng, cùng làm chủ tổ quốc, cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, Đảng và nhà nước ta luôn luôn nhấn mạnh ý nghĩa chiến lược của vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc, phát huy sức mạnh của cộng đồng dân tộc, truyền thống yêu nước và lòng tự hào dân tộc vì mục tiêu độc lập, thống nhất, tiến lên dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Bước sang thời kỳ mới của sự nghiệp xây dựng đất nước, nhân dân ta càng có điềy kiện để thưc hiện tốt hơn việc tăng cường, mở rộng khối đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, động viên cao nhất sức mạnh dân tộc để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, vấn đề dân tộc, quan hệ dân tộc và chính sách dân tộc là những vấn đề rất lớn, phức tạp và nhạy cảm, nhiều nội dung của vấn đề này đang cần được nghiên cứu, giải quyết cả về lý luận và thực tiễn. Những vấn đề thời sự liên quan đến dân tộc, quan hệ dân tộc trên thế giới cũng như trong nước đang làm cho việc tìm hiểu, nghiên cứu về những nội dung trở lên rất quan trọng và bức thiết. Đây chính là lý do tôi chọn đề tài: “Dân tộc và đặc điểm mối quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay” làm bài viết tiểu luận cuối kỳ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu. Vấn đề dân tộc và đối tượng nghiên cứu của nhiều môn khoa học xã hội như triết học, sử học, dân tộc học… Dưới những góc độ khác nhau của môn học đó, vấn đề dân tộc đã được đi sâu nghiên cứu và đạt được những thành tựu quan trọng về phương diện khoa học, phục vụ thiết thực cho cuộc sống xã hội. Nhiều công trình đã làm rõ lịch sử hình thành, phát triển và đặc điểm của cộng đồng các dân tộc Việt Nam trong quá trình dựng nước và giữ nước. Những vấn đề tình hình kinh tế, xã hội vùng đồng bào các dân tộc miền núi, những vần dề về thực hiện những chính sách dân tộc của Đảng nhằm xây dựng, củng cố khối đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc, cụ thể hơn có những công trình đi sâu nghiên cứu các vấn đề về xã hội văn hoá, giáo dục… Dưới góc độ chính trị xã hội, việc nghiên cứu vấn đề dân tộc chủ yếu là tìm ra những vấn đề có tính quy luật của quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, quá trình phát triển phồn vinh và xích lại gần nhau của các dân tộc, sự thiết lập quan hệ đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc. Quan hệ dân tộc cũng như quan hệ giai cấp và các mối quan hệ xã hội khác đều có những cơ sở khách quan, nhưng yếu tố để bảo đảm cho nó tồn tại, phát triển và vận động theo những xu hướng nhất định có tính qui luật của nó. 3. Mục đích, nhiệm vụ Mục đích: Nhằm bước đầu đặt ra những vần đề cần đi sâu nghiên cứu và tìm hiểu một số yếu tố rất cơ bản là cơ sở khách quan bảo đảm cho sự phát triển vững chắc quan hệ giữa các dân tộc ở nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ: Là luận giải một cách khái quát về quan hệ dân tộc và đặc điểm quan hệ dân tộc của nước ta, làm căn cứ khoa học để nhận biết, xây dựng và tiếp cận những yếu tố cụ thể tác động đến sự phát triển quan hệ dân tộc ở nước ta hiện nay. 4. Phương pháp nghiên cứu. Phương pháp chủ yếu là phân tích, tổng hợp vấn đề. 5. Bố cục. Ngoài phần mở đầu và kết luận, tiểu luận gồm hai nội dung chính. Nội dung 1: Khái niệm dân tộc. Nội dung 2: Đặc điểm của mối quan hệ dân tộc. NỘI DUNG I. Khái niệm dân tộc. Hiện nay, trong ngôn ngữ diễn đạt hay trong nhận thức, quan niệm của chúng ta, khái niệm dân tộc được hiểu rất đa nghĩa, đa cấp độ. Khái niệm này được sử dụng trong nhiều ngành khoa học bởi dân tộc không chỉ là đối tượng riêng của ngành dân tộc học ở mức độ khác nhau, dân tộc và các vấn đề dân tộc đều được các khoa học như: sử học, tâm lý học, văn hoá học… nghiên cứu. Tuy nhiên, các dân tộc là đối tượng nghiên cứu trực tiếp của khoa học dân tộc học - một ngành khoa học ra đời từ thế kỷ XIX và ngày càng phát triển, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay. Một khái niệm trong khoa học xã hội và nhân văn được định nghĩa, được hiểu khác nhau là hiện tượng phổ biến, với tư cách là đối tượng của một ngành khoa học cụ thể, ở nước ta cần sớm có quan niệm thống nhất dựa trên những tiêu chí chung của khái niệm dân tộc, bởi vấn đề không chỉ liên quan đến nhận thức khái niệm dưới góc độ khoa học mà còn liên quan đế nhận thức trong hoạt động thực tiễn. Khái niệm dân tộc liên quan trực tiếp đến việc xác định thành phần dân tộc trong một quốc gia đa dân tộc, giải quyết các quan hệ dân tộc mà trực tiếp là việc đưa ra và thực hiện đúng chính sách dân tộc. Theo Đại từ điển Tiếng Việt thì: dân tộc được hiểu theo 4 nghĩa, trước hết dân tộc là cộng đồng người hình thành trong lịch sử có chung một lãnh thổ, các quan hệ kinh tế, một ngôn ngữ văn học và một số đặc trưng văn hoá và tính cách, ví dụ như: Dân tộc Việt, dân tộc Nga… Thứ hai, dân tộc là tên gọi chung những cộng đồng người cùng chung một ngôn ngữ, lãnh thổ, đời sống kinh tế và văn hoá, hình thành trong lịch sử từ sau bộ lạc. Việt Nam là một nước có nhiều dân tộc, đoàn kết các dân tộc để cứu nước. Thứ ba, dân tộc nói tắt có nghĩa là dân tộc thiểu số. Thứ tư, dân tộc là cộng đồng người ổn định làm thành nhân dân một nước, có ý thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền thống văn hoá và truyền thống đấu tranh chung. Trong từ điển bách khoa Việt Nam, khái niệm dân tộc được định nghĩa: “ Dân tộc. 1. dân tộc (nation) hay quốc gia dân tộc là cộng đồng chính trị - xã hội được chỉ đạo bởi một nhà nước, thiết lập trên một lãnh thổ nhất định, ban đầu do sự tập hợp của nhiều bộ lạc và liên minh bộ lạc, sau này của nhiều cộng đồng mang tính tộc người ( ethnie) của bộ phận tộc người. tính chất của dân tộc phụ thuộc vào những phương thức sản xuất khác nhau. Bước vào giai đoạn công nghiệp, rõ rệt nhất là ở các nước phương Tây, do yêu cầu xoá bỏ tính cát cứ của các lãnh địa trong một dân tộc, nhằm tạo ra một thị trường chung, nên cộng đồng dân tộc được kết cấu chặt chẽ hơn. Kết cấu của cộng đồng dân tộc rất đa dạng, phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử, văn hoá, xã hội trong khu vực và bản thân. 2. Dân tộc (ethnie) còn đồng nghĩa với cộng đồng mang tính tộc người, ví dụ dân tộc Tày, dân tộc Bana…Cộng đồng có thể là bộ phận chủ thể hay thiểu số của một dân tộc (nation) sinh sống ở nhiều quốc gia dân tộc khác nhau được liên kết với nhau bằng những đặc điểm ngôn ngữ, văn hoá và nhất là ý thức tự giác tộc người” Khi đưa ra khái niệm dân tộc - tộc người, các nhà dân tộc học đều quan tâm đến những tiêu chí xác định dân tộc. Cũng như việc xác định các tiêu chí khác nhâu dẫn đến các định nghĩa hay quan niệm chưa hoàn toàn thống nhất. Về phương diện dân tộc học, theo cách hiểu truyền thống thì dân tộc là khái niệm dùng để chỉ một cộng đồng người ổn định được hình thành và phát triển trong những điều kiện lịch sử nhất định với một số đặc trưng cơ bản là: Có một lãnh thổ chung. Phương thức sinh hoạt kinh tế chung. Ngôn ngữ giao tiếp chung. Tâm lý chung biểu hiện trong văn hoá dân tộc. Quan niệm này cho đến nay vẫn tồn tại trong nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước. Tuy nhiên, vấn đề xác định các tiêu chí tộc người là rất phức tạp. Ở Việt Nam, nhiều quan điểm về tiêu chí xác định thành phần dân tộc đã được tập hợp trong cuốn sách Vấn đề xác định thành phần các dân tộc thiểu số ở Miền Bắc Việt Nam. Đa số các nhà dân tộc học Việt Nam cho rằng, cộng đồng tộc người hay là dân tộc phải được coi là đơn vị cơ bản để tiến hành xác minh thành phần các dân tộc. Khi nêu lên tầm quan trọng của lãnh thổ như là một điều kiện quan trọng của lãnh thổ như là một điều kiện quan trọng làm xuất hiện và tồn tại tộc người, nhưng trong tình hình biến động về lãnh thổ diễn ra phức tạp, ở nhiều quốc gia đa dân tộc, vấn đề lãnh thổ tộc người rất khó xác định. Bởi vậy, lãnh thổ hay địa vực cư trú không được coi là tiêu chí khi xác định thành phần tộc người ở Việt Nam. Thông qua các hội thảo khoa học, hầu hết các ý kiến đều tán thành ba tiêu chí xác định thành phần dân tộc, đó là những đặc trưng về tiếng nói, về đặc điểm sinh hoạt văn hoá và ý thức tự giác tộc người được coi là tiêu chuẩn chủ yếu. Đây cũng là quan điểm của dân tộc học hiện nay. Như vậy, từ quan niệm truyền thống, coi cộng đồng tộc người hay dân tộc là một tập đoàn người tương đối ổn định hoặc ổn định, được hình thành trong quá trình lịch sử dựa trên những mối liên hệ chung về địa vực cư trú, sinh hoạt kinh tế, tiếng nói, những đặc điểm sinh hoạt – văn hoá, và dựa trên ý thức về thành phần và tên gọi chung, các nhà khoa học đã thống nhất đưa ra một quan niệm về dân tộc, làm cơ sở để xác định các thành phần dân tộc ở nước ta là: Dân tộc là một cộng đồng người tương đối ổn định hoặc ổn định, được hình thành và phát triển trong lịch sử với ba đặc trưng làm tiêu chí cơ bản: Cộng đồng về ngôn ngữ. Các đặc điểm chung thuộc bản sắc văn hoá. Ý thức tự giác tộc người. Cộng đồng ngôn ngữ: Ngôn ngữ là tiêu chí cơ bản để phân biệt các tộc người khác nhau, bởi là phương tiện giao tiếp và gắn kết các thành viên trong một cộng đồng tộc người thống nhất, nhờ có ngôn ngữ mà văn hoá tộc người được bảo tồn và phát triển. Vấn đề xem xét tiêu chí ngôn ngữ của mỗi dân tộc cần phải được cụ thể: có dân tộc sử dụng tiếng mẹ đẻ trong giao tiếp chung, cũng có dân tộc dùng ngôn ngữ của các dân tộc khác như tiếng mẹ đẻ hoặc sử dụng nhiều ngôn ngữ cùng một lúc bên cạnh ngôn ngữ mẹ đẻ. Trong quá trình hình thành và phát triển của dân tộc - tộc người, sự bảo tồn và phát triển ngôn ngữ là một đặc trưng quan trọng. Tình hình phổ biến là đa số các dân tộc đều sử dụng ở mức độ khác nhau ngôn nhữ tiếng mẹ đẻ của mình, một số ít dùng ngôn ngữ của dân tộc khác làm tiếng mẹ đẻ trong những điều kiện hoàn cảnh đặc biệt. Trên thế giới cũng như ở nước ta, đặc trưng ngôn ngữ đều được coi là tiêu chí rất quan trọng để xác định tộc người. Cộng đồng văn hoá. Những đặc điểm chung về văn hoá hay bản sắc văn hoá tộc người cũng là tiêu chí quan trọng để xem xét, phân định một dân tộc. Những biểu hiện cụ thể của văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần ở mỗi một dân tộc phản ánh những giá trị truyền thống, lối sống, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo của dân tộc đó. Lịch sử phát triển của các tộc người gắn liền với lịch sử văn hoá, truyền thống văn hoá của họ. Rất nhiều dân tộc trải qua hàng ngàn năm phát triền vẫn không bị đồng hoá về văn hoá nhờ sức sống trường tồn của văn hoá dân tộc. Ngày nay cùng với xu thế giao lưu văn hoá vẫn song song tồn tại xu thế bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá của mỗi một dân tộc như là su thế tất yếu đối với sự phát triển dân tộc. Ý thức tự giác tộc người. Đây là tiêu chí quan trọng nhất trong các tiêu chí xem xét, phân định một dân tộc. Đặc trưng nổi bật ở các dân tộc, tộc người là luôn luôn tự ý thức về dân tộc mình: Từ nguồn gốc đến tộc danh. Đó cũng là ý thức tự khẳng định sự hiện tồn và phát triển của mỗi dân tộc dù có nhiều tác động hoặc thay đổi về địa bàn cư trú, lãnh thổ hay tác động ảnh hưởng của giao lưu kinh tế, văn hoá…Sự hình thành và phát triển của ý thức tự giác tộc người liên quan trực tiếp đến các yếu tố của ý thức dân tộc, tình cảm dân tộc, tâm lý dân tộc. Tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan khác nhau ở mỗi dân tộc, mà ý thức tự giác tộc người được biểu hiện sinh động và đa dạng. Nhưng đây vẫn là tiêu chí quan trọng, có vị trí quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi tộc người. Ba tiêu chí vừa nêu đã tạo ra sự ổn định trong mỗi cộng đồng dân tộc trong quá trình phát triển tộc người. Dân tộc là sản phẩm của lịch sử. Vấn đề dân tộc vốn đã rất phức tạp do tính phức tạp của quá trình phát triển của các tộc người, khái niệm “dân tộc” vì vậy là khái niệm đa nghĩa, đa cấp độ được sử dụng trong nhiều ngành khoa học, đặc biệt là trong các ngành khoa học xã hội và nhân văn. Nhận thức, sử dụng khái niệm dân tộc đòi hỏi phải đặt trong những cảnh huống cụ thể. Dưới góc độ của dân tộc hay lý luận về dân tộc và chính sách dân tộc, khái niệm “dân tộc” được xác định dựa trên những tiêu chí cơ bản vừa nêu trên. Ở nước ta, những tiêu chí cơ bản đó cũng là cơ sở để xác định các thành phần dân tộc hay các tộc người với các đặc điểm, sắc thái rất đa dạng trong mỗi tộc người. II. Đặc điểm của mối quan hệ dân tộc. Vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc phản ánh quan hệ xã hội nói chung. Sự xuất hiện cộng đồng dân tộc cũng làm nảy sinh các quan hệ cần giải quyết. Các ngành khoa học xã hội và nhân văn, trong đó có dân tộc học khi nghiên cứu dân tộc như là đối tượng của mình cũng chính nhằm mục đích góp phần giải quyết các quan hệ liên quan đến dân tộc nói chung và dân tộc - tộc người nói riêng. Vậy quan hệ dân tộc là gì? Những đặc điểm, khuynh hướng phát triển của nó ra sao? . Về quan hệ dân tộc. Nếu như bản thân khái niệm dân tộc đã đa nghĩa, đa cấp độ, thì cũng tương tự, quan hệ dân tộc cũng bao hàm những nội dung đa nghĩa và cũng được nhận thức theo những cảnh huống cụ thể. Nếu quan niệm dân tộc heo nghĩa rộng (nation - dân tộc - quốc gia) thì quan hệ dân tộc chính là quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc nói chung trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo góc độ tiếp cận thì quan hệ dân tộc gắn bó chặt chẽ với quan hệ quốc tế, với chính sách đối ngoại của một nhà nước, một thể chế chính trị. Bởi nó liên quan đến giải quyết các quan hệ giữa các quốc gia dân tộc trên thế giới. Tuy nhiên đây là lĩnh vực rộng lớn liên quan đến nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn. Đối với khoa học dân tộc học cũng như lý luận về dân tộc và chính sách dân tộc thì quan hệ dân tộc được xem xét trong tương quan dân tộc- tộc người. Theo nghĩa hẹp có thể hiểu quan hệ dân tộc là quan hệ giữa các dân tộc- tộc người (hay giữa các thành phần dân tộc) trong một quốc gia đa dân tộc, cũng như quan hệ giữa các thành viên trong nội bộ một dân tộc, cũng như quan hệ giữa các thành viên trong nội bộ một dân tộc- tộc người. Đây là mối quan hệ tổng hợp, đan xen của các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá…Quan hệ dân tộc bao hàm cả sự giao lưu, giao tiếp và tác động ảnh hưởng lẫn nhau giữa các dân tộc- tộc người. Những quan hệ này tuỳ thuộc vào thái độ của chính đảng cầm quyền và nhà nước, tuỳ thuộc vào chính sách dân tộc của một thể chế chính trị hay một nhà nước cụ thể. Các mối quan hệ liên quan đến vấn đề dân tộc –tộc người vốn đã rất đa dạng và phức tạp trong lịch sử nhân loại và ngày nay càng bộc lộ tính nhạy cảm chính trị- xã hội mang tính đặc thù của nó. Trong những năm gần đây, những xung đột sắc tộc, chủng tộc, hàng loạt mâu thuẫn và vấn đề nảy sinh, đã dẫn đến tình trạng căng thẳng giữa các quốc gia, khu vực hay trong nội bộ từng nước. Trong nhiều nguyên nhân, có nguyên nhân có nguyên nhân trực tiếp bắt nguồn từ việc giải quyết các quan hệ dân tộc chưa phù hợp, chưa đúng đắn. Xung đột sắc tộc, dân tộc diễn ra dưới nhiều dạng thức, biểu hiện khác nhau nhiều khi đan xen cả trong xung đột tôn giáo, xung đột biên giới, lãnh thổ…Do vậy, tính thời sự, cấp bách của vấn đề dân tộc và giảo quyết tốt các quan hệ dân tộc đang là nhu cầu chung của ổn định, hoà bình, hợp tác và phát triển của nhân loại và của quốc gia hiện nay. 2.2. Đặc điểm mối quan hệ dân tộc ở nước ta hiện nay. Đặc điểm nổi bật trong quan hệ dân tộc - tộc người ở Việt Nam là có truyền thống đoàn kết gắn bó từ lâu đời trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Do đặc điểm lịch sử của cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên khắc nghiệt và chống giặc ngoại xâm, các dân tộc ở Việt Nam, thiểu số cũng như đa số tuy trình độ kinh tế, văn hoá, xã hội, phong tục tập quán, lối sống…khác nhau, nhưng đều có chung truyền thống đoàn kết thống nhất, tương thân tương ái, đồng cam cộng khổ trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Do đó, bên cạnh những giá trị mang bản sắc văn hoá tộc người của các dân tộc thiểu số còn có chung nhiều giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc - quốc gia Việt Nam, đó là truyền thống yêu nước, yêu lao động, là ý thức tình cảm về quê hương Tổ quốc chung. Trong lịch sử Việt Nam hiếm có những xung đột dân tộc gay gắt hay tình trạng căng thẳng trong quan hệ dân tộc, mặc dù trong nhiều thời kỳ bị xâm lược, đô hộ, các loại kẻ thù đều thực hiện chính sách “chia để trị”, gây thù hằn, mâu thuẫn giữa các dân tộc Việt Nam. Truyền thống đoàn kết, thống nhất trong cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam đã được phát huy cao độ trong các cuộc đấu tranh nhằm giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và đang được phát huy trong công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mà nhiệm vụ trọng tâm hiện nay là công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, để củng cố, xây dựng vững bền khối đoàn kết giữa các dân tộc - tộc người đòi hỏi chúng ta phải giải quyết hàng loạt nhiệm vụ nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc, đồng thời phải thường xuyên nâng cao cảnh giác chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực phản động và thù địch lợi dụng các vấn đề liên quan đến dân tộc, quan hệ dân tộc- tộc người- vốn là lĩnh vực rất nhạy cảm và phức tạp - nhằm thực hiện “diễn biến hoà bình”, chia rẽ sự thống nhất đoàn kết vốn có trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Với phương châm “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” của chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta hiện nay là tạo tiền đề, điều kiện phát triển sự thống nhất, đoàn kết các dân tộc, xây dựng đất nước phồn vinh đưa lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho đồng bào tất cả các dân tộc. Hiện nay, giữa các dân tộc còn có sự chênh lệch lớn trên nhiều phương diện. Trong cộng đồng 54 dân tộc anh em sinh sống trên đất nước ta, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, tình trạng chênh lệch còn rất lớn trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội…..Từ sự phát triển không đồng đều giữa các vùng, các miền dẫn tới tình trạng chênh lệch lớn trong sinh hoạt kinh tế như trình độ tổ chức sản xuất, phương thức canh tác, trình độ áp dụng khoa học kỹ thuật… dẫn đến năng xuất, sản lượng và hiệu quả kinh tế nói chung cũng chênh lệch. Việc thực hiện, hoàn thành các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở các vùng núi, vùng cao, vùng dân tộc thiểu số đang là những vấn đề nan giải do nhiều nguyên nhân cần sớm được khắc phục. Về văn hoá, trình độ văn hoá, trình độ dân trí nói chung, giữa các vùng miền, giữa các dân tộc còn chênh lệch lớn. Phong tục tập quán, luật tục, tâm lý, lối sống của các tộc người….bên cạnh những yếu tố tích cực, còn lưu giữ nhiều yếu tố tiêu cực, lạc hậu ở các mức độ khác nhau. Đời sống văn hoá ở các cơ sở, mức hưởng thụ về văn hoá cũng còn chênh lệch lớn, đặt biệt nếu so sánh với các dân tộc cư trú ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo. Về xã hội, quản lý xã hội, giải quyết các vấn đề xã hội nhằm ổn định đời sống, việc làm thực hiện các chính sách xã hội, chống tệ nạn xã hội v.v…cũng biểu hiện rõ nét sự không đồng đều, thậm chí chênh lệch rất lớn trong các tộc người thiểu số với đa số cũng như giữa các tộc người thiểu số với nhau. Sự phát triển không đồng đều, sự chênh lệch lớn trên các phương diện vừa nêu trong các dân tộc- tộc người ở Việt Nam là một đặc điểm lớn, tác động ảnh hưởng, thậm chí là trở ngại không nhỏ đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, quá trình phát triển các quan hệ dân tộc theo quan điểm của Đảng và Nhà nước ta. Đây cũng là một trong những vấn đề cần được khắc phục nhằm phát triển từng bước, xoá dần khoảng cách chênh lệch trên các phương diện của đời sống xã hội giữa các dân tộc - tộc người ở nước ta hiện nay. Mấy đặc điểm trên xét theo hai phương diện: dân số, dân cư và quan hệ dân tộc chưa phải là tất cả, song đó là những đặc điểm nổi bật cần được xem xét, tính đến trong giải quyết các vấn đề về dân tộc, và quan hệ dân tộc, hoạch định và thực