Đề án Phát triển siêu thị ở Hà Nội đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020

Đất nước ta đang trong quá trình Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa và đang từng bước hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Đến nay chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng tự hào trong phát triển kinh tế xã hội, đời sống người dân không ngừng được cải thiện và nâng cao. Cũng như các ngành kinh tế quốc dân khác, ngành thương mại đang cố gắng hết sức để tiếp thu những tri thức tiên tiến trên thế giới nhằm bắt kịp với các nước phát triển. Sự xuất hiện các siêu thị tại Việt Nam vào đầu thập kỷ 90 chính là một xu thế tất yếu, một bước đột phá trong sự phát triển thương mại theo hướng văn minh hiện đại. Mặc dù còn mới mẻ song các tác dụng và hiệu quả của siêu thị đã từng bước được khẳng định đặc biệt là ở các đô thị lớn. Ở Hà Nội, với trên 10 năm có mặt nhưng siêu thị đã thực sự giữ một vai trò quan trọng trong phân phối hàng hóa, góp phần làm thay đổi bộ mặt đô thị, thúc đẩy sản xuất và hình thành tập quán văn minh thương mại. Đặc biệt, siêu thị là công cụ quan trọng để doanh nghiệp thực hiện chính sách Marketing có hiệu quả và tạo điều kiện thuận lợi trong công tác quản lý Nhà Nước về thương mại. Tuy nhiên, hiện nay việc phát triển siêu thị ở Hà Nội vẫn còn nhiều vấn đề đáng lo ngại. Tốc độ tăng trưởng của siêu thị còn chậm, chưa tương xứng với tiềm năng thành phố. Phát triển siêu thị còn thiếu tính bền vững ( phát triển không đều, không hiệu quả ), có nhiều vấn đề bất cập trong quy hoạch đô thị. Mặt khác, do thiếu chỉ dẫn về chiến lược và phát triển thiếu tự phát nên hoạt động kinh doanh của siêu thị còn chưa phù hợp đồng bộ với định hướng phát triển của thành phố nhất là trong thời điểm hiện nay khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO. Vì vậy, nhằm góp phần đẩy mạnh sự phát triển siêu thị cũng như khắc phục những nhược điểm trên nên tôi đã chọn đề tài “ Phát triển siêu thị ở Hà Nội đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 “ làm đề tài nghiên cứu. Tôi xin trân trọng cám ơn thầy giáo GS. TS Hoàng Đức Thân đã giúp tôi hoàn thành đề tài này! Đề tài được kết cấu thành 3 phần gồm 3 nội dung chính: Chương I: Lý luận chung về siêu thị trong hệ thống bán lẻ hàng hóa Chương II: Thực trạng phát triển siêu thị ở Hà Nội Chương III: Phương hướng và giải pháp phát triển siêu thị ở Hà Nội đến 2010 và tầm nhìn đến 2020.

docx78 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1226 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Phát triển siêu thị ở Hà Nội đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Trang LỜI MỞ ĐẦU Đất nước ta đang trong quá trình Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa và đang từng bước hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Đến nay chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng tự hào trong phát triển kinh tế xã hội, đời sống người dân không ngừng được cải thiện và nâng cao. Cũng như các ngành kinh tế quốc dân khác, ngành thương mại đang cố gắng hết sức để tiếp thu những tri thức tiên tiến trên thế giới nhằm bắt kịp với các nước phát triển. Sự xuất hiện các siêu thị tại Việt Nam vào đầu thập kỷ 90 chính là một xu thế tất yếu, một bước đột phá trong sự phát triển thương mại theo hướng văn minh hiện đại. Mặc dù còn mới mẻ song các tác dụng và hiệu quả của siêu thị đã từng bước được khẳng định đặc biệt là ở các đô thị lớn. Ở Hà Nội, với trên 10 năm có mặt nhưng siêu thị đã thực sự giữ một vai trò quan trọng trong phân phối hàng hóa, góp phần làm thay đổi bộ mặt đô thị, thúc đẩy sản xuất và hình thành tập quán văn minh thương mại. Đặc biệt, siêu thị là công cụ quan trọng để doanh nghiệp thực hiện chính sách Marketing có hiệu quả và tạo điều kiện thuận lợi trong công tác quản lý Nhà Nước về thương mại. Tuy nhiên, hiện nay việc phát triển siêu thị ở Hà Nội vẫn còn nhiều vấn đề đáng lo ngại. Tốc độ tăng trưởng của siêu thị còn chậm, chưa tương xứng với tiềm năng thành phố. Phát triển siêu thị còn thiếu tính bền vững ( phát triển không đều, không hiệu quả ), có nhiều vấn đề bất cập trong quy hoạch đô thị. Mặt khác, do thiếu chỉ dẫn về chiến lược và phát triển thiếu tự phát nên hoạt động kinh doanh của siêu thị còn chưa phù hợp đồng bộ với định hướng phát triển của thành phố nhất là trong thời điểm hiện nay khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO. Vì vậy, nhằm góp phần đẩy mạnh sự phát triển siêu thị cũng như khắc phục những nhược điểm trên nên tôi đã chọn đề tài “ Phát triển siêu thị ở Hà Nội đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 “ làm đề tài nghiên cứu. Tôi xin trân trọng cám ơn thầy giáo GS. TS Hoàng Đức Thân đã giúp tôi hoàn thành đề tài này! Đề tài được kết cấu thành 3 phần gồm 3 nội dung chính: Chương I: Lý luận chung về siêu thị trong hệ thống bán lẻ hàng hóa Chương II: Thực trạng phát triển siêu thị ở Hà Nội Chương III: Phương hướng và giải pháp phát triển siêu thị ở Hà Nội đến 2010 và tầm nhìn đến 2020. CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ SIÊU THỊ TRONG HỆ THỐNG BÁN LẺ HÀNG HÓA 1.1. Khái niệm và đặc điểm siêu thị 1.1.1. Tổng quát về bán lẻ hàng hóa Kênh phân phối hàng hóa: Phân phối hàng hóa, đó là chiếc cầu nối giữa nhà sản xuất với người tiêu dùng. Kênh phân phối hàng hóa được hình dung như một chuỗi gồm các không gian khác nhau tạo nên đường đi của sản phẩm, dịch vụ từ người sản xuất đến người tiêu dùng. Trung gian trong các kênh môi giới có thể là đại lý môi giới, người bán sỉ hoặc lẻ. Khái niệm về bán lẻ hàng hóa: Là hoạt động bán các sản phẩm cho người tiêu dùng, khâu cuối cùng của qúa trình lưu thông mua bán. 1.1.2. Siêu thị và phân loại siêu thị 1.1.2.1. Khái niệm: “Siêu thị” là từ dịch ra từ các thuật ngữ nước ngoài - “supermarket” (tiếng Anh) hay “supermarché” ( tiếng Pháp ), trong đó “super”nghĩa là “siêu” và “market” nghĩa là “chợ”. Hiện nay, siêu thị được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau tùy theo từng nước. Ví dụ: - Tại Hoa kỳ, siêu thị được định nghĩa”là cửa hàng tự phục vụ tương đối lớn có mức chi phí thấp, tỷ suất lợi nhuận không cao và khối lượng hàng hóa bán ra lớn, đảm bảo thỏa mãn đầy đủ nhu cầu của người tiêu dùng về thực phẩm, bột giặt, các chất tẩy rửa và những mặt hàng chăm sóc nhà cửa”. - Tại Anh người ta định nghĩa siêu thị là của hàng bách hóa bán đồ thực phẩm đồ uống và các loại hàng hóa khác. Siêu thị thường đặt tại thành phố hoặc dọc đường cao tốc hoặc trong khu vực buôn bán có diện tích khoảng từ 4000 đến 25000 bộ vuông. - Siêu thị ở Pháp được định nghĩa là cửa hàng bán lẻ theo phương thức tự phục vụ có diện tích từ 400m² đến 2500m² chủ yếu bán hàng thực phẩm và vật dụng gia đình. Tóm lại, có thể có rất nhiều định nghĩa khác nhau về siêu thị nhưng từ các định nghĩa này người ta vẫn thấy rõ nội hàm của siêu thị là: dạng cửa hàng bán lẻ, áp dụng phương thức tự phục vụ, hàng hóa tiêu dùng phổ biến. - Trong quy chế ”siêu thị, trung tâm thương mại ” của Bộ Thương mại đã định nghĩa “ Siêu thị là cửa hàng hiện đại; kinh doanh tổng hợp hoặc chuyên doanh; có cơ cấu chủng loại hàng hóa phong phú, đa dạng, đảm bảo chất lượng; đáp ứng các tiêu chuẩn về diện tích kinh doanh, trang bị kỹ thuật và trình độ quản lý, tổ chức kinh doanh; có phương thức phục vụ văn minh thuận tiên nhằm thỏa mãn nhu cầu mua sắm hàng hóa của khách hàng”. 1.1.2.2. Phân loại siêu thị: Để phân loại siêu thị có thể dựa trên các tiêu chí như: Phương thức kinh doanh, phương thức phục vụ… * Phân loại theo phương thức kinh doanh - Siêu thị bán buôn Bán buôn tiêu biểu cho bộ phận kinh tế chủ yếu, có giá trị kinh tế cao và có vai trò thích hợp như một mô hình phân phối có thể đáp ứng nhu cầu kinh doanh của nhiều đối tượng khách hàng chuyên nghiệp. Bán buôn phục vụ tất cả các khách hàng làm kinh doanh bao gồm nhà sản xuất, chế tạo, những người bán sỉ khác, nhà bán lẻ, các công ty dịch vụ, ví dụ như nhà hàng, khách sạn và bất cứ khách hàng chuyên nghiệp nào khác. Bán buôn đáp ứng mọi nhu cầu kinh doanh bao gồm nhu cầu “bán lại” và chế biến, nhu cầu đầu tư và tất cả các nhu cầu bổ sung khác để phục vụ kinh doanh. Thông thường bán buôn được định nghĩa là bán hàng đến những đơn vị kinh doanh khác có cùng chức năng trong hệ thống cung ứng. Bán buôn không giới hạn ở mức độ bán đến người bán lại mà bao gồm cả việc bán hàng đến tất cả các loại hình kinh doanh bất kể họ có bán lại, có chế biến hoặc chỉ sử dụng hàng hoá cho một mục đích chuyên môn nào đấy. Những người bán buôn được chia làm 3 loại chính: + Người bán buôn sở hữu hàng hoá thực sự. + Đại lý, môi giới và nhà bán buôn hưởng hoa hồng. + Chi nhánh và đại diện bán của nhà sản xuất. Sở dĩ coi chi nhánh và đại diện bán hàng của nhà sản xuất như người bán buôn là do họ thực hiện các chức năng bán buôn là chủ yếu. Mỗi đối tượng kinh doanh bán buôn có quy mô, phương thức kinh doanh và sức mạnh thị trường riêng, vì vậy họ có thể đóng vai trò quan trọng trong hệ thông phân phối. - Siêu thị bán lẻ: Là loại hình bán hàng đến người tiêu dùng cuối cùng. Người bán lẻ bao gồm các doanh nghiệp và cá nhân bán hàng hoá trực tiếp cho người tiêu dùng cá nhân hoặc hộ gia đình. Các chức năng chủ yếu của người bán lẻ là: + Tiếp xúc với khách hàng, phát hiện nhu cầu tiêu dùng, thu thập thông tin thị trường và chuyển các thông tin này trở lại người sản xuất. + Thực hiện bán hàng, quảng cáo và trưng bày sản phẩm. + Phân chia và sắp xếp hàng hoá thành những khối lượng phù hợp với người mua. + Dự trữ hàng hoá sẵn sàng cung cấp cho người tiêu dùng. + Cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Những người bán lẻ có thể được phân chia thành nhiều loại theo nhiều tiêu thức khác nhau. Ví dụ: theo mặt hàng mà người bán lẻ bán, người ta chia ra thành cửa hàng chuyên doanh, cửa hàng bách hoá, siêu thị, cửa hàng tiện dụng…Cửa hàng chuyên doanh bán những dòng sản phẩm hẹp và chuyên sâu. Cửa hàng bách hoá bày bán nhiều mặt hàng khác nhau, mỗi mặt hàng là một quầy riêng. Và siêu thị là trung tâm bán lẻ lớn chi phí thấp, tự phục vụ, giá thấp, doanh số bán cao. Cửa hàng tiện dụng là những cửa hàng bán lẻ nhỏ, bán một số mặt hàng phục vụ nhu cầu thường xuyên của người tiêu dùng. Các đối tượng bán lẻ khác nhau có quy mô, phương thức kinh doanh và sức mạnh chi phối thị trường khác nhau, tất nhiên họ cũng có khả năng điều khiển hệ thống phân phối khác nhau. * Phân loại theo hàng hoá kinh doanh Phân theo tiêu thức hàng hoá kinh doanh trong siêu thị, có thể chia ra các loại siêu thị sau: - Siêu thị tổng hợp: Siêu thị tổng hợp là siêu thị bán nhiều loại hàng hoá cho mọi loại khách hàng. Hiện nay siêu thị tổng hợp đang ngày càng phát triển có những siêu thị từ vài ngàn đến vài chục ngàn loại hàng hoá được bày bán trong siêu thị. Những siêu thị này cung cấp một chuỗi hoàn chỉnh những mặt hàng thực phẩm, phi thực phẩm đáp ứng mọi nhu cầu và cho phép mua đủ loại hàng hoá đến mọi điểm dừng. - Siêu thị chuyên doanh: Siêu thị chuyên doanh là siêu thị bán một hay một số loại hàng hoá của một ngành nào đó. Một số loại siêu thị chuyên doanh (như siêu thị thực phẩm, siêu thị rượu, siêu thị trái cây, siêu thị sách, siêu thị giày, siêu thị máy tính, siêu thị địa ốc, siêu thị vật liệu xây dựng, siêu thị điện thoại di động…). Siêu thị chuyên doanh cung cấp các loại hàng hoá có tính chuyên sâu cao có tính đặc thù của ngành hàng mà không một ngành hàng nào có thể cung cấp. 1.1.3. Vai trò của siêu thị Các siêu thị tổng hợp và chuyên doanh giải quyết được rất nhiều mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu dùng hàng hoá: Trong khi người tiêu dùng có nhu cầu về nhiều loại hàng hoá với khối lượng nhỏ nhưng người sản xuất để đảm bảo lợi nhuận phải sản xuất một hoặc một số hàng hoá với khối lượng lớn, để đạt hiệu quả sản xuất. Tuy nhiên, sản xuất khối lượng lớn không thể cung ứng trực tiếp cho nhiều người tiêu dùng, do đó hệ thống siêu thị giải quyết tốt sự khác biệt giữa sản xuất quy mô lớn và tiêu dùng đa dạng khối lượng nhỏ. Bằng cách mua từ nhiều nhà sản xuất khác nhau cung cấp cho nhiều người tiêu dùng tại một địa điểm. Trong nền kinh tế có sự khác biệt về không gian giữa sản xuất và tiêu dùng. Do nhiều người sản xuất tại nhiều địa điểm khác nhau nhiều người tiêu dùng ở nhiều nơi khác nhau. Siêu thị giúp giải quyết vấn đề này trong quá trình phân phối hàng hoá. Siêu thị mua hàng hoá của ngưới sản xuất về một địa điểm để bán lại cho người tiêu dùng với giá thấp nhất trong hệ thống phân phối. Siêu thị còn giúp giải quyết sự khác biệt về không gian giữa sản xuất và thời gian tiêu dùng không trùng khớp, có thể sản xuất có tính thời vụ còn tiêu dùng quanh năm hoặc ngược lại. Vì sản xuất thường không xảy ra cùng thời gian với nhu cầu tiêu dùng sản phẩm nên phải dự trữ hàng hoá. Sự ăn khớp về thời gian giữa sản xuất và tiêu dùng được các siêu thị giải quyết một phần sự khác biệt này. Mặt khác, quá trình phân phối hàng hoá các siêu thị nắm bắt được nhu cầu thực tế của thị trường cả về sản phẩm, thời gian và không gian nên có thể chuyển tải những thông tin cần thiết về nhu cầu thị trường cho những người sản xuất và cung ứng hàng hoá, vì thế tạo lập cầu nối để dẫn dắt người sản xuất định hướng vào nhu cầu thị trường, giảm thiểu các tầng, nấc trung gian trong hệ thống phân phối, do đó sẽ có mức giá bán lẻ thấp nhất trong mạng lưới bán lẻ hàng hoá thông thường. Cách thức tổ chức các quá trình phân phối sản phẩm của siêu thị sẽ giải quyết các mâu thuẫn cố hữu của nền kinh tế. Các chức năng chính của siêu thị là mua và bán, vận chuyển, lưu kho, tiêu chuẩn hoá và phân loại, tài chính, chịu rủi ro, thông tin thị trường. Siêu thị còn đóng vai trò chức năng tài chính cung cấp tiền mặt và tín dụng cần thiết cho hoạt sản xuất hàng hoá: Ví dụ: Siêu thị Metro đã cung cấp tài chính cho các hộ nông dân sản xuất rau sau đó mua lại rau để bán trong siêu thị. Siêu thị còn đóng vai trò như là người chia sẻ rủi ro với các nhà sản xuất. Nếu như trước kia các nhà sản tự phân phối hàng hoá và tự gánh chịu rủi ro đối với hàng hoá của mình thì hiện nay một số siêu thị đã bắt đầu tự kinh doanh rủi ro. Họ thường mua đứt hàng hoá của các doanh nghiệp (với giá thấp) sau đó tự chịu trách nhiệm về bảo hành, vận chuyển hàng hoá đối với khách hàng nhằm thu được lợi nhuận cao hơn. Siêu thị còn có vai trò cung cấp thông tin thị trường, do bán hàng trực tiếp cho khách hàng nên các siêu thị là người hiểu rõ nhất nhu cầu của khách hàng, những thay đổi về thị hiếu của khách hàng để từ đó cung cấp thông tin phản hồi đối với các nhà sản xuất, tác động tới sản xuất để các nhà sản xuất có thể tạo ra các sản phẩm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Ngoài ra siêu thị còn giữ một số vai trò khác như: hoàn thiện thêm sản phẩm, có thể là bao gói, gắn nhãn mác hoặc đóng hộp. Một số siêu thị còn thực hiện một số công đoạn chế biến một phần đặc biệt là đối với hàng thực phẩm. Ngoài ra siêu thị còn giữ vai trò tạo dựng và duy trì mối liên hệ với những người mua tiềm năng. 1.1.4. Đặc điểm của siêu thị Siêu thị là một dạng của cửa hàng bán lẻ hàng hóa: hoạt động kinh doanh của siêu thị được tổ chức dưới hình thức cửa hàng có trang thiết bị và cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại. Siêu thị thực hiện chức năng bán lẻ trực tiếp hàng hóa cho người tiêu dùng cuối cùng để họ sử dụng chứ không phải để bán lại. Phương thức bán hàng: tự phục vụ là phương thức bán hàng mà siêu thị áp dụng. Khách hàng có quyền tự do đi lại trong cửa hàng, tự do tiếp xúc, xem xét, ngắm nghía, so sánh, chọn lựa sau đó tự đưa hàng đã chọn đến quầy thu ngân để thanh toán. Đó chính là tính tự phục vụ hoàn toàn. Điều này tạo ra tính kinh tế cho hoạt động siêu thị vì nó có mức giá thấp hơn và hấp dẫn, khêu gợi, kích thích nhu cầu mua sắm của khách hàng. Hàng hóa bán tại siêu thị: siêu thị thường có danh mục hàng bày bán rất đa dạng, phong phú bao gồm cả hàng thực phẩm và phi thực phẩm. Hàng hóa ở siêu thị thường là các đơn vị sản phẩm lẻ, hoàn chỉnh, phục vụ trực tiếp cho tiêu dùng cá nhân được bày bán trên kệ theo từng loại và niêm yết giá công khai, dễ dàng để khách hàng dễ quan sát, chọn lựa và toàn quyền quyết định mua sản phẩm họ ưng ý nhất. Siêu thị thể hiện sự sáng tạo trong nghệ thuật trưng bày hàng hóa: ngoài việc tạo ra phương thức bán hàng tự phục vụ, siêu thị còn thể hiện được nghệ thuật trưng bày hàng hóa nhằm tối đa hiệu quả không gian bán hàng. Điều này cũng có nghĩa hàng hóa trong siêu thị phải có khả năng tự quảng cáo và lôi cuốn người mua. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ bán hàng: cơ sở vật chất kỹ thuật, hạ tầng, trang thiết bị kỹ thuật cấu thành một siêu thị như nhà cửa, kho hàng, thiết bị vật dụng cần thiết…tương đối hiện đại nhằm đảm bảo sự tiện nghi phục vụ tốt, tạo thoải mái cho khách hàng khi đi mua sắm. Điều này giúp tăng khả năng cạnh tranh với các siêu thị khác và với loai hình bán lẻ khác. Doanh số hàng hóa bán ra: do phải đầu tư nhiều vào các thiết bị và chi phí khấu hao tài sản cố định cao nên siêu thị đòi hỏi mức doanh số cao hơn rất nhiều so với các cửa hàng thông thường, mặt khác giá bán cũng phải khống chế ở mức có khả năng hấp dẫn khách hàng, vì vậy siêu thị phải được hoạch định ở tầm hoạt động rộng lớn. Quy mô của siêu thị tương đối lớn: siêu thị có quy mô tương đối lớn vì hình thức kinh doanh này lấy quan điểm khách hàng tự phục vụ và chi phí thấp, lợi nhuận thấp làm cơ sở hoạt động. Do đó để đảm bảo tính kinh tế đòi hỏi siêu thị phải có quy mô hợp lý mới có thể tiêu thụ được khối lượng hàng hóa lớn đủ để bù đắp chi phí kinh doanh và có lãi. 1.2. Cấu trúc cơ bản về tổ chức và hoạt động siêu thị 1.2.1. Tiêu chuẩn siêu thị Trong Quy chế siêu thị, trung tâm thương mại của Bộ Thương mại siêu thị được phân chia thành 3 hạng: Hạng I, hạng II và hạng III. - Siêu thị hạng I: - Áp dụng đối với siêu thị kinh doanh tổng hợp: + Có diện tích kinh doanh từ 5.000 m2 trở lên + Có danh mục hàng hoá kinh doanh từ 20.000 tên hàng trở lên + Công trình kiến trúc được xây dựng vững chắc, có tính thẩm mỹ cao, có thiết kế và trang thiết bị kỹ thuật tiên tiến, hiện đại, đảm bảo các yêu cầu phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an toàn và thuận tiện cho mọi đối tượng khách hàng; có bố trí nơi trông giữ xe và khu vệ sinh cho khách hàng phù hợp với quy mô kinh doanh của Siêu thị; + Có hệ thống kho và các thiết bị kỹ thuật bảo quản, sơ chế, đóng gói, bán hàng, thanh toán và quản lý kinh doanh tiên tiến, hiện đại; + Tổ chức, bố trí hàng hóa theo ngành hàng, nhóm hàng một cách văn minh, khoa học để phục vụ khách hàng lựa chọn, mua sắm, thanh toán thuận tiện, nhanh chóng; có nơi bảo quản hành lý cá nhân; có các dịch vụ ăn uống, giải trí, phục vụ người khuyết tật, phục vụ trẻ em, giao hàng tận nhà, bán hàng qua mạng, qua bưu điện, điện thoại. Áp dụng đối với Siêu thị chuyên doanh: tiêu chuẩn là từ 1.000 m2 trở lên; tiêu chuẩn là từ 2.000 tên hàng trở lên; các tiêu chuẩn khác như Siêu thị kinh doanh tổng hợp. - Siêu thị hạng II: Áp dụng đối với Siêu thị kinh doanh tổng hợp: + Có diện tích kinh doanh từ 2.000 m2 trở lên + Có Danh mục hàng hóa kinh doanh từ 10.000 tên hàng trở lên + Công trình kiến trúc được xây dựng vững chắc, có tính thẩm mỹ, có thiết kế và trang thiết bị kỹ thuật hiện đại đảm bảo các yêu cầu phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an toàn và thuận tiện cho khách hàng; có bố trí nơi trông giữ xe và khu vệ sinh cho khách hàng phù hợp với quy mô kinh doanh của Siêu thị; + Có kho và các thiết bị kỹ thuật bảo quản, đóng gói, bán hàng, thanh toán và quản lý kinh doanh hiện đại; + Tổ chức, bố trí hàng hóa theo ngành hàng, nhóm hàng một cách văn minh, khoa học để phục vụ khách hàng lựa chọn, mua sắm, thanh toán thuận tiện, nhanh chóng; có nơi bảo quản hành lý cá nhân; có các dịch vụ ăn uống, giải trí, phục vụ người khuyết tật, phục vụ trẻ em, giao hàng tận nhà, bán hàng qua bưu điện, điện thoại. Áp dụng đối với Siêu thị chuyên doanh: tiêu chuẩn là từ 500 m2 trở lên; tiêu chuẩn là từ 1.000 tên hàng trở lên; các tiêu chuẩn khác như Siêu thị kinh doanh tổng hợp. - Siêu thị hạng III: Áp dụng đối với Siêu thị kinh doanh tổng hợp: + Có diện tích kinh doanh từ 500 m2 trở lên + Có Danh mục hàng hóa kinh doanh từ 4.000 tên hàng trở lên + Công trình kiến trúc được xây dựng vững chắc, có thiết kế và trang thiết bị kỹ thuật đảm bảo các yêu cầu phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an toàn, thuận tiện cho khách hàng; có bố trí nơi trông giữ xe và khu vệ sinh cho khách hàng phù hợp với quy mô kinh doanh của Siêu thị; + Có kho và các thiết bị kỹ thuật bảo quản, đóng gói, bán hàng, thanh toán và quản lý kinh doanh hiện đại; + Tổ chức, bố trí hàng hóa theo ngành hàng, nhóm hàng một cách văn minh, khoa học để phục vụ khách hàng lựa chọn, mua sắm, thanh toán thuận tiện, nhanh chóng; có nơi bảo quản hành lý cá nhân, có các dịch vụ phục vụ người khuyết tật, giao hàng tận nhà. Áp dụng đối với Siêu thị chuyên doanh: tiêu chuẩn là từ 250 m2 trở lên; tiêu chuẩn là từ 500 tên hàng trở lên; các tiêu chuẩn khác như Siêu thị kinh doanh tổng hợp. 1.2.2. Cấu trúc cơ bản về tổ chức hoạt động siêu thị Siêu thị độc lập: đây là dạng siêu thị có quy mô nhỏ và vừa, thuộc quyền sở hữu của một gia đình hay công ty nhỏ. Số lượng nhân viên, hàng hóa ở mức trung bình hoặc thấp. Cấu trúc tổ chức tổng quát thích hợp theo dạng chức năng. Siêu thị mắt xích: được điều hành bởi các công ty, tập đoàn lớn, hoạt động trên địa bàn rộng. Cấu trúc tổ chức thích hợp theo dạng ma trận, cho phép siêu thị tận dụng các lợi thế về vốn và nguồn nhân lực. *Hoạt động của các bộ phận chức năng Bộ phận khách hàng: bộ phận này có hoạt động chủ yếu là mua đúng hàng để đáp ứng các nhu cầu của khách hàng, đảm bảo đúng về số lượng, chất lượng quy cách mẫu mã, chủng loại của hàng hóa. Bộ phận hoạt động: có nhiệm vụ quản lý, trưng bày hàng hóa và bán hàng, thực hiện các dịch vụ khác. Bộ phận Marketing: nhiệm vụ chính là nghiên cứu thị trường, đề ra các chiến lược Marketing và có biện pháp thực hiện hiệu quả. Hệ thống thông tin quản lý của siêu thị: thông tin về số lượng hàng hóa, số lượng giao dịch diễn ra. 1.2.3. Mối quan hệ siêu thị với các loại hình bán lẻ khác 1.2.3.1. Siêu thị với các loại hình bán lẻ hỗ trợ Loại hình bán lẻ hỗ trợ hay còn gọi là “đối thủ cạnh tranh tốt” của siêu thị là loại hình bán lẻ hoạt động trên những phân khúc thị trường khác, với mục đích và phương thức hoạt động khác, không xâm phạm vào thị trường của siêu thị. Siêu thị và các loại hình bán lẻ hỗ trợ có thể tồn tại bên cạnh nhau, liên kết với nhau thành hệ thống. Như vậy, cần phân biệt khi xem xét mối quan hệ giữa siêu thị với các hình thức tổ chức bán lẻ cũng như những của hàng mắt xích. Cửa hàng mắt xích hay cửa hàng bán lả độc lập là cách thức sở hữu, quản lý khác nhau của các doanh nghiệp. Siêu thị cũng có thể là các thành viên của một hệ thống mắt xích hay tồn tại độc lập. 1.2.3.2. Siêu thị với
Tài liệu liên quan