Đề tài Bảo vệ, sử dụng hợp lí tài nguyên nước

Nước là tài nguyên thiên nhiên quý giá, là thành phần thiết yếu của sự sống và môi trường. Nước không thể thiếu cho sự tồn tại và phát triển của thế giới sinh vật và nhân loại trên trái đất. Nước quyết định sự tồn tại, phát triển bền vững của đất nước; mặt khác nước cũng có thể gây ra tai họa cho con người và môi trường. Tài nguyên nước là nguồn tài nguyên vừa hữu hạn, vừa vô hạn. Ngày nay, cùng với tốc độ phát triển kinh tế xã hội và gia tăng dân số một cách mạnh mẽ, tài nguyên nước đang đứng trước nguy cơ suy thoái cạn kiệt. Sự suy thoái tài nguyên nước cùng với sự gia tăng ô nhiễm nước khiến cho nguồn nước sạch đang ngày một giảm sút rất nhanh chóng tại nhiều nơi. Nước là một tài nguyên có thể tái tạo nhưng dễ bị tổn thương nếu khai thác sử dụng không hợp lý. Do đó vấn đề bảo vệ và sử dụng hợp lí tài nguyên nước là vấn đề rất cấp thiết hiện nay. Bên cạnh đó nước còn là một là một tài nguyên có giá trị kinh tế nên trong sử dụng phải coi trọng giá trị kinh tế của tài nguyên nước.

doc16 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1901 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Bảo vệ, sử dụng hợp lí tài nguyên nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KĨ THUẬT TP HCM KHOA: CÔNG NGHỆ HOÁ VÀ THỰC PHẨM NGÀNH: CÔNG NGHỆ MÔI TRƯỜNG (( BÁO CÁO : BẢO VỆ, SỬ DỤNG HỢP LÍ TÀI NGUYÊN NƯỚC GVHD: ThS. Bùi Đức Kính Nhóm 02: Nguyễn Thị Lệ Hằng Mai Bích Hiền Tôn Thất Hưng Nguyễn Thị Kim Khanh Nguyễn Quang Luỹ TP HCM, 15 / 11 / 2008 MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 I. Tổng quan về tài nguyên nước 2 II. Sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước 3 1. Tình hình khai thác tài nguyên nước 3 2. Nguyên nhân gây suy giảm tài nguyên nước 5 ( Sự gia tăng dân số 5 ( Kết cấu hạ tầng khai thác, sử dụng nước xuống cấp và tình trạng sử dụng nước lãng phí, thiếu hiệu quả 5 ( Sự phát triển kinh tế 5 ( Tác động của biến đổi khí hậu 7 III. Phân tích tài nguyên nước dưới góc độ kinh tế 7 1. Giá trị kinh tế của tài nguyên nước 7 2. Một số công cụ dùng phân tích kinh tế tài nguyên nước 9 a) Phân tích tài chính và phân tích kinh tế 10 b) Phân tích chi phí và lợi ích 10 IV. Bảo vệ tài nguyên nước 11 V. Kết luận - Kiến nghị 13 TÀI LIỆU THAM KHẢO 14 MỞ ĐẦU Nước là tài nguyên thiên nhiên quý giá, là thành phần thiết yếu của sự sống và môi trường. Nước không thể thiếu cho sự tồn tại và phát triển của thế giới sinh vật và nhân loại trên trái đất. Nước quyết định sự tồn tại, phát triển bền vững của đất nước; mặt khác nước cũng có thể gây ra tai họa cho con người và môi trường. Tài nguyên nước là nguồn tài nguyên vừa hữu hạn, vừa vô hạn. Ngày nay, cùng với tốc độ phát triển kinh tế xã hội và gia tăng dân số một cách mạnh mẽ, tài nguyên nước đang đứng trước nguy cơ suy thoái cạn kiệt. Sự suy thoái tài nguyên nước cùng với sự gia tăng ô nhiễm nước khiến cho nguồn nước sạch đang ngày một giảm sút rất nhanh chóng tại nhiều nơi. Nước là một tài nguyên có thể tái tạo nhưng dễ bị tổn thương nếu khai thác sử dụng không hợp lý. Do đó vấn đề bảo vệ và sử dụng hợp lí tài nguyên nước là vấn đề rất cấp thiết hiện nay. Bên cạnh đó nước còn là một là một tài nguyên có giá trị kinh tế nên trong sử dụng phải coi trọng giá trị kinh tế của tài nguyên nước. BẢO VỆ, SỬ DỤNG HỢP LÍ TÀI NGUYÊN NƯỚC I. Tổng quan về tài nguyên nước: Nước trên hành tinh phát sinh từ 3 nguồn: từ bên trong lòng đất, từ các thiên thạch đưa lại và từ lớp trên của khí quyển Trái Đất. Khối lượng nước chủ yếu trên Trái Đất (nước mặn, nước ngọt, hơi nước) đều bắt nguồn từ lòng đất (lớp vỏ giữa) trong quá trình phân hóa các lớp đá ở nhiệt độ cao. Nước hình thành trong quá trình này và khi thoát dần ra lớp vỏ ngoài thì biến thành chất khí, bốc hơi, cuối cùng ngưng tụ trở lại thành nước. Các khối nước ban đầu khi thoát ra và ngưng tụ lại đã tràn ngập những miền trũng, tạo nên các đại dương mênh mông và sông hồ nguyên thủy. Theo sự tính toán thì khối lượng nước ở trạng thái tự do phủ lên Trái Đất là 1,4 tỉ km3, nhưng so với trữ lượng ở lớp vỏ giữa (chừng 200 tỉ km3) thì nó chỉ chiếm không quá 1%. Nước ngọt có thể sử dụng được chiếm không đầy 1% toàn bộ khối lượng của thủy quyển. Nhưng nhờ quá trình khổng lồ là sự tuần hoàn nước mà trữ lượng nước ngọt được phục hồi liên tục. Sự trao đổi nước ngọt trong sông hồ diễn ra mạnh mẽ hơn nhiều so với nước mặn và nước băng hà. - Tài nguyên nước trên thế giới theo tính toán hiện nay là 1,39 tỷ km3, tập trung trong thủy quyển 97,2% (1,35 tỷ km3), phần còn lại chứa trong khí quyển và thạch quyển. 97% lượng nước của Trái Đất là nước mặn, 3% là nước ngọt, trong đó có khoảng hơn 3/4 lượng nước con người không thể sử dụng được vì nó nằm quá sâu trong lòng đất, bị đóng băng, ở dạng hơi trong khí quyển và ở dạng tuyết trong lục địa.Chỉ có khoảng 0,5% nước ngọt hiện diện trong sông, suối, ao, hồ mà con người đã và đang sử dụng. Lượng nước trong khí quyển chiếm khoảng 0,001%, trong sinh quyển 0,002%, trong sông suối 0,00007% tổng lượng nước trên Trái Đất. Lượng nước ngọt con người sử dụng thường có nguồn gốc ban đầu là nước mưa với tổng khối lượng mưa trên toàn bộ diện tích Trái Đất là 105.000km3/năm. Lượng nước con người sử dụng trong một năm khoảng 35.000km3, trong đó 8% cho các hoạt động sinh hoạt, 23% cho công nghiệp và 63% cho hoạt động nông nghiệp. - Tài nguyên nước của Việt Nam nhìn chung khá phong phú. Việt Nam là nước có lượng mưa trung bình vào loại cao, khoảng 2000m3/năm, gấp 2,6 lần lượng mưa trung bình của vùng lục địa trên thế giới. Tổng lượng mưa trên toàn bộ lãnh thổ là 650km3/năm, tạo ra dòng chảy mặt trong vùng nội địa là 324km3/năm. Ngoài dòng chảy phát sinh trong vùng nội địa hàng năm lãnh thổ Việt Nam nhận nguồn nước ngoại lai từ Trung Quốc, Lào và Campuchia là 132,8 tỷ m3/năm. So với nhiều nước, Việt Nam có nguồn nước khá dồi dào. Lượng nước bình quân đầu người đạt tới 17.000m3/năm. Hệ số bảo đảm nước là 68, lớn gấp 3 lần hệ số bảo đảm nước trung bình trên thế giới. Do nền kinh tế chưa phát triển nên nhu cầu dùng nước hiện nay chưa cao, khai thác chủ yếu nước các dòng sông chính để phục vụ cho nông nghiệp, công nghiệp và sinh hoạt. II. Sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước: 1. Tình hình khai thác tài nguyên nước: Việt Nam có 708 đô thị bao gồm 5 thành phố trực thuộc Trung ương, 86 thành phố và thị xã thuộc tỉnh, 617 thị trấn với 21,59 triệu người (chiếm 26,3% dân số toàn quốc). Hiện có trên 240 nhà máy cấp nước đô thị với tổng công suất thiết kế là 3,42 triệu m3/ngày. Trong đó 92 nhà máy sử dụng nguồn nước mặt với tổng công suất khoảng 1,95 triệu m3/ngày và 148 nhà máy sử dụng nguồn nước dưới đất với tổng công suất khoảng 1,47 triệu m3/ ngày. Một số địa phương khai thác 100% nước dưới đất để cung cấp cho sinh hoạt sản xuất như Hà Nội, Hà Tây, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Quảng Ngãi, Bình Định, Sóc Trăng, Phú Yên, Bạch Liêu...; các tỉnh thành Hải Phòng, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Hà Tĩnh, Quảng Bình, KonTum, Gia Lai... khai thác 100% từ nguồn nước mặt; nhiều địa phương sử dụng cả 2 nguồn nước mặt và nước dưới đất. Tổng công suất hiện có của các nhà máy cấp nước đảm bảo cho mỗi người dân đô thị khoảng 150 lít nước sạch mỗi ngày. Tuy nhiên do cơ sở hạ tầng hệ thống cấp nước tại nhiều khu đô thị lạc hậu, thiếu đồng bộ nên hệ thống cấp nước khu đô thị chưa phát huy hết công suất, tỉ lệ thất thoát nước sạch khá cao (có nơi tỉ lệ thất thoát tới 40%). Chính vì vậy trên thực tế nhiều đô thị cung cấp nước chỉ đạt khoảng 40-50 lít/người/ngày. Đối với khu vực nông thôn Việt Nam có khoảng 36,7 triệu người dân được cấp nước sạch (trên tổng số người dân 60,44 triệu). Có 7.257 công trình cấp nước tập trung cấp nước sinh hoạt cho 6,13 triệu người và trên 2,6 triệu công trình cấp nước nhỏ lẻ khác. Tỉ lệ dân số nông thôn được cấp nước sinh hoạt lớn nhất ở vùng Nam Bộ chiếm 66,7%; đồng bằng sông Hồng 65,1%; đồng bằng sông Cửu Long 62,1%. Hiện nay, nông nghiệp vẫn là ngành dùng nước nhiều nhất, chiếm 75-80% tổng lượng nước sử dụng hàng năm, kế theo là nước dùng cho công nghiệp, dịch vụ và sinh hoạt. Lượng nước dùng cho sinh hoạt tuy có nhu cầu về tổng lượng ít nhưng chất lượng cao. Ngoài những ngành trên, còn có một số ngành sử dụng không tiêu hao hay tiêu hao không đáng kể như thuỷ sản, thuỷ điện, giao thông thuỷ. Theo tính toán, tổng nhu cầu sử dụng nước của nước ta vào năm 2010 là 122 tỷ m3, trong đó có ngành nông nghiệp dùng 92 tỷ m3, công nghiệp dùng 17 tỷ m3, dịch vụ dùng 11 tỷ m3. Đến năm 2040, tổng lượng nước cần dùng tăng lên 260 tỷ m3. Tỷ trọng của các ngành cũng có những thay đổi đáng kể: nông nghiệp và dịch vụ dùng 134 tỷ m3, công ngiệp 40 tỷ m3. Đối với nước dưới đất, hình thức sử dụng phổ biến hiện nay là cấp nước sinh hoạt và tưới tiêu. Khoảng 40% lượng nước cấp cho thành phố, thị xã ở nước ta là nước dưới đất. Theo thống kê đến năm 2005 cho thấy, nhiều tỉnh thành trong cả nước đang khai thác nước dưới đất với lưu lượng khá lớn sử dụng cho sinh hoạt và sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ như: Hà Nội: 750.000 m3/ngày, Thành phố Hồ Chí Minh: 1.600.000 m3/ngày, Tây Nguyên: 500.000 m3/ngày. Các tỉnh ven biển miền Tây Nam Bộ như Kiên Giang, Trà Vinh, Bến Tre, Long An do nguồn nước ngọt trên các sông rạch, ao hồ không đủ phục vụ cho nhu cầu của đời sống và sản xuất vì vậy nguồn nước cung cấp chủ yếu được khai thác từ nguồn nước dưới đất. Khoảng 80% dân số ở 4 tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau đang sử dụng nước ngầm mỗi ngày. Tại tỉnh Trà Vinh hiện có khoảng 41.512 giếng khoan; Thành phố Cà Mau hơn 90% người dân trong xã đã khoan và sử dụng nước ngầm. Việc khai thác nước ngầm qúa mức đã làm tầng nước ngầm tụt giảm từ 12m đến 15m ở khu vực này; “giúp” cho tỉnh Trà Vinh gần hơn với mặt nước biển khoảng 2-2,5m. Ngoài ra, hiện nay khoảng 70- 80% nguồn nước sinh hoạt cấp cho nông thôn là từ nước dưới đất bằng các loại công trình giếng đào, giếng khoan và mạch lộ. Tổng lượng nước dưới đất cung cấp cho nông thôn ước tính khoảng 540 triệu m3/ năm. Khả năng khai thác nước dưới đất để phục vụ cho tưới là khá lớn, chủ yếu tập trung cho một số cây trồng có giá trị kinh tế như: cà phê ở Tây Nguyên, vải ở Bắc Giang... theo thống kê sơ bộ, lượng nước dưới đất sử dụng cho tưới khoảng 425 triệu m3/năm. Việc sử dụng nước ngầm để tưới mang lại hiệu quả kinh tế cao, nhưng do việc khai thác ồ ạt vào mùa khô ở một số nơi đã vượt quá khả năng cung cấp của tầng chứa nước dẫn đến làm giảm mực nước ngầm.  2. Nguyên nhân gây suy giảm tài nguyên nước: ( Sự gia tăng dân số: Sự gia tăng dân số và các hoạt động của con người sẽ ngày càng tác động mạnh mẽ đến môi trường tự nhiên nói chung và môi trường nước nói riêng. Sự gia tăng dân số sẽ kéo theo sự gia tăng về nhu cầu nước sạch cho ăn uống và lượng nước cần dùng cho sản xuất. Đồng thời, tác động của con người đến môi trường tự nhiên nói chung và tài nguyên nước nói riêng sẽ ngày càng mạnh mẽ. Những hoạt động tự phát, không có quy hoạch của con người như chặt phá rừng bừa bãi, canh tác nông lâm nghiệp không hợp lý và thải chất thải bừa bãi vào các thuỷ vực... đã và sẽ gây nên những hậu quả rất nghiêm trọng, làm cho nguồn nước bị cạn kiệt, bị ô nhiễm, hạn hán có khả năng càng khốc liệt. Nguy cơ thiếu nước sạch càng trầm trọng, nhất là vào mùa cạn ở các vùng mưa ít. ( Kết cấu hạ tầng khai thác, sử dụng nước xuống cấp và tình trạng sử dụng nước lãng phí, thiếu hiệu quả: Kết cấu hạ tầng đã và đang bị xuống cấp nghiêm trọng cùng với những yếu kém trong quản lý dẫn đến tình trạng khai thác, sử dụng nước không hiệu quả, lãng phí. Ở nhiều hệ thống cấp nước đô thị, lượng nước thất thoát lên đến 40-50%, khả năng cấp nước theo thiết kế của các hệ thống thuỷ lợi đang suy giảm. Nhiều công trình trên sông (hồ chứa và đập tràn), do khi thiết kế hệ thống không chú ý đầy đủ đến nhu cầu bảo đảm dòng chảy cho hạ lưu đã dẫn đến tình trạng suy thoái dòng chảy nghiêm trọng ở hạ lưu sông, tăng xâm nhập mặn và ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận nguồn nước của người dân sống ở vùng hạ lưu sông. ( Sự phát triển kinh tế: Ở nước ta, tài nguyên nước đang chịu những áp lực ngày càng lớn bởi quá trình phát triển kinh tế xã hội, nhất là trong bối cảnh đất nước đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa như hiện nay làm phát sinh những mâu thuẫn trong quá trình khai thác, sử dụng tài nguyên nước. Việc gia tăng nhiều nhà máy, xí nghiệp từ quy mô nhỏ hộ gia đình đến quy mô lớn dẫn đến nhu cầu về nguồn nước tăng, không những nước phục vụ cho sản xuất mà còn phục vụ sinh hoạt cho một số lượng lớn công nhân từ nhiều vùng khác nhau tập trung về. Đặc biệt ở các khu vực chưa có hệ thống cấp nước, mật độ khai thác nước dưới đất sẽ gia tăng nhanh, từ đó dẫn đến tình trạng cạn kiệt nguồn nước và sụp lún đất. Bên cạnh đó, do khai thác quá mức các tài nguyên liên quan như đất và rừng phục vụ cho sản xuất công nghiệp đã dẫn đến những tác động tiêu cực đến tài nguyên nước, thay đổi chế độ dòng chảy tự nhiên vốn có, tăng dòng chảy lũ, giảm dòng chảy cạn, tăng mức độ xói mòn lưu vực, gây bồi lắng,v.v… Thêm vào đó là sự khai thác, sử dụng thiếu ý thức và thiếu sự kiểm soát tài nguyên nước mặt và nước dưới đất đã làm cạn kiệt, khan hiếm nguồn nước. Sự thiếu hiểu biết và thiếu những biện pháp phòng chống ô nhiễm cần thiết cũng làm cho tài nguyên nước suy thoái thêm về chất. Việc xả nước thải sản xuất từ các nhà máy, khu chế xuất khu công nghiệp chưa được xử lý vào sông rạch, ao hồ gây ô nhiễm nước mặt, nước dưới đất. Thậm chí có nơi còn cho nước thải chảy tràn trên mặt đất để tự thấm xuống đất hoặc đào các hố dưới đất để xả nước thải làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến các tầng nước dưới đất. Trong lĩnh vực nông nghiệp cũng gây ra những ô nhiễm đáng kể. Việc chăn nuôi gia súc, gia cầm ở hộ gia đình vùng nông thôn còn chưa có ý thức tiết kiệm nguồn nước trong việc vệ sinh, vệ sinh chuồng trại, chưa có hệ thống xử lý chất thải nước thải, phần lớn cho vào ao hồ, bể tự hoại để thấm vào đất dễ gây ô nhiệm môi trường đặt biệt là nguồn nước ngầm. Nhiều giếng khoan ngoài ruộng vườn để tưới tiêu không đảm bảo kỹ thuật gây nhiễm bẫn, nhiễm các hóa chất và thuốc trừ sâu … Hệ thống tưới tiêu và hình thức tưới tiêu không hợp lý là nguyên nhân gây thất thoát lưu lượng nước lớn trong ngành trồng trọt. ( Tác động của biến đổi khí hậu:            Sự biến đổi của khí hậu toàn cầu đã, đang và sẽ tác động mạnh mẽ đến tài nguyên nước. Theo đánh giá bước đầu, vào khoảng năm 2070, với kịch bản nhiệt độ không khí tăng thêm 2,5 - 4,50C, lượng dòng chảy sông ngòi cũng sẽ biến đổi tuỳ theo mức độ biến đổi của lượng mưa, nếu lượng mưa giảm 10% thì dòng chảy năm có thể giảm 17 - 53% đối với kịch bản nhiệt độ không khí tăng 2,50C và giảm 26 - 90% với kịch bản nhiệt độ không khí tăng 4,50C. Mức độ biến đổi mạnh nhất xảy ra ở Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ.            Ngoài ra, trái đất nóng lên sẽ làm cho nước biển có thể dâng cao thêm 0,3 - 1,0 m và do đó nhiều vùng thấp ở đồng bằng sông Cửu Long, vùng đồng bằng châu thổ Bắc Bộ và ven biển Trung Bộ sẽ bị ngập chìm trong nước biển. Nếu nước biển dâng 1m, diện tích ngập lụt là 40.000 km2, chủ yếu ở đồng bằng sông Cửu Long, 1700 km2 vùng đất ngập nước cũng bị đe doạ và 17 triệu người sẽ chịu hậu quả của lũ lụt.            Theo báo cáo của Liên Hiệp Quốc công bố ngày 5/3/2003 được thảo luận tại diễn đàn thế giới lần thứ 3 về nước, tổ chức tại Kyoto (Nhật Bản) từ ngày 16-23/3/2003 cho thấy, nguồn nước sạch toàn cầu đang cạn kiệt một cách đáng lo ngại do sự bùng nổ dân số, tình trạng ô nhiễm môi trường cùng với nhiệt độ trái đất nóng lên sẽ làm mất đi khoảng 1/3 nguồn nước sử dụng trong 20 năm tới. III. Phân tích tài nguyên nước dưới góc độ kinh tế: 1. Giá trị kinh tế của tài nguyên nước: Tài ở Việt Nam đều có vai trò đặc biệt quan trọng đối với hầu hết các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội: cấp nước cho sinh hoạt, công nghiệp và dịch vụ; tưới cho các vùng đất canh tác nông nghiệp; phát triển thủy điện; nuôi trồng và đánh bắt thủy sản; giao thông vận tải thủy; du lịch sinh thái; chuyển tải nước sang các khu vực thiếu nước. Ngoài ra, các dòng sông còn đảm nhận vai trò tiêu thoát nước cho các khu đô thị, khu công nghiệp; là nguồn cung cấp cát xây dựng; giữ vai trò đặc biệt quan trọng về mặt môi trường và sinh thái. Do đặc điểm là một nước nông nghiệp, nguồn nước ở Việt Nam chủ yếu phục vụ cho nông nghiệp. Theo tính toán, năm 1985 đã sử dụng 41 tỷ m3, chiếm 89,9% tổng lượng nước tiêu thụ toàn quốc, năm 1990 đã sử dụng 46,9 tỷ m3, chiếm 90% và năm 2000 sử dụng khoảng trên 60 tỷ m3. Đến nay, cả nước đã có 75 hệ thống thủy lợi vừa và lớn, rất nhiều hệ thống thủy lợi nhỏ với tổng giá trị tài sản cố định khoảng 60.000 tỷ đồng (chưa kể giá trị đất đai và công sức nhân dân đóng góp). Các hệ thống thủy lợi năm 2000 đã đảm bảo tưới cho 3 triệu héc-ta đất canh tác, tiêu thoát nước cho 1,4 triệu héc-ta đất tự nhiên ở các tỉnh Bắc bộ, ngăn mặn 70 vạn héc-ta, cải tạo 1,6 triệu héc-ta đất chua phèn ở Đồng bằng sông Cửu Long. Trong năm 2000, diện tích lúa được tưới cả năm gần 7 triệu héc-ta, trong đó có 2,86 triệu héc-ta lúa Đông - Xuân, 2,19 triệu héc-ta lúa Hè - Thu và 1,64 triệu héc-ta lúa mùa. Ngoài ra, các công trình thủy lợi còn tưới trên 1 triệu héc-ta màu, cây công nghiệp và cây ăn quả. Nguồn thủy điện với tổng công suất lắp máy chiếm 75% tổng công suất ngành điện toàn quốc, đang và sẽ là nguồn năng lượng chủ chốt của quốc gia. Ngoài ra, các ngành công nghiệp, nhiệt điện (sử dụng nước để giải nhiệt), vận tải thủy, nuôi trồng thủy sản đều cần đến nước. Nước sạch cho sinh hoạt và xử lý nước thải là những điều kiện tối quan trọng để bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Kinh phí đầu tư cho ngành nước chiếm 25% tổng kinh phí đầu tư vào các lĩnh vực công cộng của quốc gia. Điều đó cho thấy là chính sách về tài nguyên nước có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với nền kinh tế vĩ mô. Các khía cạnh kinh tế trong việc khai thác, sử dụng và quản lý nguồn nước ở các sông lớn chủ yếu liên quan đến: - Tiềm năng kinh tế của nguồn nước được khai thác, sử dụng cho dân sinh và các ngành kinh tế; - Các vấn đề về cơ chế đầu tư vào lĩnh vực khai thác và phát triển tài nguyên nước; - Các vấn đề về cơ chế quản lý và các chính sách về giá và thuế đối với tài nguyên nước; - Hiệu quả kinh tế của việc khai thác và vận hành các công trình về nước; - Chi phí sử dụng nước trong cơ cấu giá thành của một đơn vị sản phẩm; - Các tổn thất về mặt kinh tế và xã hội do ô nhiễm, suy thoái tài nguyên nước và do lũ lụt gây nên, v.v... Ví dụ trường hợp cụ thể sông Đồng Nai Sông Đồng Nai là một trong những con sông lớn ở Việt Nam và là sông nội địa lớn nhất nước ta với tổng diện tích tự nhiên của lưu vực trên 42,6 km2 trải ra trên phần lớn diện tích của 9 tỉnh miền Đông Nam bộ và một phần của Nam Đắc Lắc và Long An. Nguồn nước ở lưu vực sông Đồng Nai (LVSĐN) có vai trò đặc biệt quan trọng đối với hầu hết các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội trên lưu vực: Cấp nước sinh hoạt, công nghiệp và dịch vụ; thủy điện - thủy lợi; nuôi trồng thủy sản; giao thông vận tải thủy. Tiềm năng kinh tế của nguồn nước sông Đồng Nai có thể nói là rất lớn, đặc biệt đối với một số lĩnh vực, ngành nghề kinh tế quan trọng như sau: - Khai thác sử dụng nguồn nước trên các sông Đồng Nai, La Ngà và sông Bé để phát điện cho 5 nhà máy thủy điện trên lưu vực (Đa Nhim, Trị An, Hàm Thuận, Đa Mi, Thác Mơ) với tổng công suất lắp máy là 1.185 MW, cung cấp sản lượng điện trung bình hàng năm khoảng 4.941 GWh (năm 2000). Dự kiến tiềm năng này còn sẽ được phát triển mạnh hơn trong tương lai đến năm 2025 với tổng số 11 nhà máy thủy điện có tổng công suất lắp máy 2.287 MW, cung cấp sản lượng điện trung bình hàng năm khoảng 8.972 GWh; - Cung cấp nước phục vụ cho sản xuất nông nghiệp với 1.842.576 ha đất canh tác trên toàn lưu vực, trong đó tưới trực tiếp cho 205.000 ha diện tích cây trồng với lượng nước tưới hàng năm lên đến 2.878 triệu m3 (năm 2000). Dự báo đến năm 2025, diện tích cây trồng được tưới bằng nguồn nước sông Đồng Nai lên đến 324.000 ha với lượng nước tưới hàng năm lên đến 4.823 triệu m3; - Cung cấp nước cho sinh hoạt, công nghiệp và dịch vụ tại các khu đô thị, khu công nghiệp tập trung trên lưu vực với lượng nước cấp ước tính khoảng 1.400.000 m3/ngày và cấp nước cho sinh hoạt ở khu vực nông thôn khoảng 260.000 m3/ngày (năm 2000). Dự báo các con số tương ứng đến năm 2025 là 4.390.000 m3/ngày và 654.000 m3/ngày; - Khai thác mặt nước cho giao thông vận tải thủy, đặc biệt là trên tuyến luồng hàng hải Sài Gòn - Vũng Tàu với tổng lượng hàng hóa khô thông qua cụm cảng Sài Gòn lên đến 21,5 triệu tấn/năm (năm 2000) và dự báo sẽ tăng lên 30,5 triệu tấn/năm đến năm 2010. Nếu xét trên toàn vùng Đông Nam bộ, khối lượng vận tải hàng hóa bằng đường thủy dự báo sẽ đạt mức 90 triệu tấn/năm vào năm 2010. Các con số này cho thấy rằng, nguồn nước ở vùng hạ lưu hệ thống sông Đồng Nai - Sài Gòn có tiềm năng kinh tế rất lớn; Tiềm năng kinh tế của nguồn nước LVSĐN còn được thể hiện qua việc khai thác sử dụng mặt nước để nuôi trồng và đánh bắt thủy sản. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, năm 1997, tổng diện tích nuôi cá nước ngọt của 4 tỉnh vùng hạ lưu hệ thống sông Đồng Nai (TP.HCM, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu và Bình Dương) là 27.349 ha với sản lượng cá nước ngọt nuôi đạt 12.997 tấn/năm; diện tích nuôi tôm là 2.828 ha với sản lượng tôm nuôi đạt 1.079 t
Tài liệu liên quan