Đề tài Biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của Trạm đón tiếp khách nhà khách Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn

Kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận luôn là mục tiêu trước mắt lâu dài và thường xuyên của hoạt động kinh doanh, là nguồn động lực quan trọng của các doanh nghiệp. Muốn có lợi nhuận lớn, các doanh nghiệp phải tăng doanh thu bán, giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Đặc biệt, từ khi nền kinh tế được chuyển đổi sang cơ chế thị trường, vấn đề nâng cao hiệu quả kinh doanh thực sự là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp, giữ một vị trí quan trọng quyết định sự thành bại của mỗi Công ty.

doc99 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1220 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của Trạm đón tiếp khách nhà khách Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận luôn là mục tiêu trước mắt lâu dài và thường xuyên của hoạt động kinh doanh, là nguồn động lực quan trọng của các doanh nghiệp. Muốn có lợi nhuận lớn, các doanh nghiệp phải tăng doanh thu bán, giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Đặc biệt, từ khi nền kinh tế được chuyển đổi sang cơ chế thị trường, vấn đề nâng cao hiệu quả kinh doanh thực sự là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp, giữ một vị trí quan trọng quyết định sự thành bại của mỗi Công ty. Do đó, muốn tồn tại và phát triển vững chắc, tạo thế cạnh tranh mạnh mẽ với các doanh nghiệp khác, mỗi doanh nghiệp phải chủ động làm tốt công tác sản xuất kinh doanh, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của mình, nâng cao chất lượng dịch vụ hàng hoá mà Công ty cung cấp cho khách hàng, từ đó tăng doanh thu, tăng lợi nhuận, đảm bảo uy tín của Công ty với khách hàng. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải đi sâu nghiên cứu hiệu quả kinh doanh, hiểu rõ vấn đề và đưa ra những biện pháp kinh doanh phù hợp với tình hình thực tế và khả năng của doanh nghiệp nhằm tổ chức tốt hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh. Trạm đón tiếp khách nhà khách Bộ NN & PTNT là đơn vị hành chính sự nghiệp có thu, lấy thu bù chi, tự trang trải về kinh tế được thành lập và hoạt động trên 10 năm nay. Hiện tại, Trạm được sắp xếp vào loại đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động, ngân sách Nhà nước không phải cấp kinh phí để bảo đảm hoạt động thường xuyên cho đơn vị. Doanh thu và lợi nhuận của Trạm năm sau luôn cao hơn năm trước, thu nhập của cán bộ công nhân viên được cải thiện rất nhiều nhưng để có thể kết luận Trạm có đạt được hiệu quả kinh doanh hay không thì phải tiến hành phân tích, đánh giá thực trạng kinh doanh của Trạm trong những năm qua. Từ đó, phát hiện những ưu nhược điểm cũng như những thuận lợi và khó khăn của Trạm để đề ra các biện pháp kinh doanh phù hợp. Sau một thời gian dài học tập, nghiên cứu những kiến thức căn bản và cơ sở lý luận về Quản trị kinh doanh, em đã được các thày cô giáo khoa Thương mại Trường Đại học Kinh tế Quốc dân giới thiệu tới thực tập tại Trạm đón tiếp khách nhà khách Bộ NN & PTNT nhằm bổ sung những kiến thức thực tế để hoàn thành khoá học của mình. Được sự đồng ý và giúp đỡ nhiệt tình của Ban giám đốc nhà khách Bộ NN & PTNT, sau một thời gian thực tập nghiên cứu thực trạng hoạt động kinh doanh của nhà khách, em đã rút ra được những kiến thức bổ ích và hoàn thành bài viết chuyên đề tốt nghiệp với đề tài : “ Biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của Trạm đón tiếp khách nhà khách Bộ NN & PTNT “. Bố cục bài viết gồm 3 phần : Phần I : Lý luận chung về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Phần II : Thực trạng kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của Trạm đón tiếp khách nhà khách Bộ NN & PTNT. Phần III : Biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của Trạm đón tiếp khách nhà khách Bộ NN & PTNT trong những năm tới. Bài viết này được hoàn thành với sự hướng dẫn chỉ bảo và góp ý sửa đổi của PGS.TS Hoàng Đức Thân, em xin trân trọng cảm ơn thày đã tận tình giúp đỡ để em hoàn thành bài viết theo đúng yêu cầu. Đồng thời, em cũng xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo Nhà khách Bộ NN & PTNT cũng như tập thể cán bộ công nhân viên đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ em trong suốt quá trình thực tập. Vì kiến thức còn nhiều hạn chế nên không tránh khỏi một số sai sót. Em rất mong sự Agóp ý sửa đổi của các thày cô giáo và Ban lãnh đạo Nhà khách để bài viết được hoàn thiện hơn. Mặc dù vậy, em cũng hy vọng rằng bài viết này của em sẽ đóng góp được phần nào ý kiến nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của Nhà khách. Em xin trân trọng cảm ơn. Hà Nội 10 - 5 - 2002 Sinh viên thực hiện Nguyễn Hồng Trang Phần một Lý luận chung về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường I. Kinh doanh thương mại dịch vụ trong nền kinh tế thị trường 1. Khái niệm 1.1. Khái niệm về kinh doanh Để tồn tại và phát triển, con người cần nhiều nhu cầu khác nhau như: ăn, mặc, ở ,đi lại, chữa bệnh, học tập, giải trí... Muốn thoả mãn nhu cầu đó, con người phải thông qua sản xuất và trao đổi sản phẩm với nhau. Sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất đã làm tăng thêm lực lượng sản xuất xã hội và là một trong những động lực chủ yếu của tăng trưởng kinh tế và tiến bộ khoa học kỹ thuật. Chính yếu tố cách mạng hoá sản xuất đã đặt ra sự cần thiết phải trao đổi trong xã hội các sản phẩm giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Khi trao đổi hàng hoá phát triển đến trình độ xuất hiện tiền tệ làm chức năng phương tiện lưu thông thì trao đổi hàng hoá được gọi là lưu thông hàng hoá. Trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá, có một loại người chuyên dùng tiền để mua hàng hoá rồi đem bán. Kinh doanh thương mại xuất hiện. Kinh doanh thương mại là dùng tiền của, công sức vào việc mua bán hàng hoá nhằm mục đích kiếm lời. Kinh doanh thương mại, trước hết, đòi hỏi phải có vốn kinh doanh. Vốn kinh doanh là các khoản vốn bằng tiền và bằng các tài sản khác (nhà cửa, kho tàng, cửa hàng, vv...), có vốn mới thực hiện được các chức năng lưu thông hàng hoá. Thứ hai, kinh doanh thương mại đòi hỏi phải thực hiện hành vi mua để bán. Xét trên toàn bộ và cả quá trình thì hoạt động kinh doanh thương mại phải thực hiện hành vi mua hàng, nhưng mua hàng không để mình dùng mà mua hàng để bán cho người khác. Đó là hoạt động buôn bán. Thứ ba, kinh doanh thương mại dùng vốn (tiền của, công sức) vào hoạt động kinh doanh cũng đòi hỏi sau mỗi chu kỳ kinh doanh phải bảo toàn được vốn và có lãi. Có như vậy mới có thể mở rộng và phát triển kinh doanh. Ngược lại, thua lỗ dẫn tới doanh nghiệp phải phá sản. Như vậy, mục đích lợi nhuận là mục tiêu trước mắt, lâu dài và thường xuyên của hoạt động kinh doanh và nó cũng là nguồn động lực của kinh doanh. Muốn có lợi nhuận thì doanh thu bán hàng hoá và dịch vụ phải lớn hơn chi phí kinh doanh. Muốn có doanh thu lớn phải chiếm được khách hàng, phải bán được nhiều hàng hoá và dịch vụ, phải giảm chi phí kinh doanh. Trong điều kiện cạnh tranh trên thị thường, việc thu hút được khách hàng đòi hỏi doanh nghiệp phải kinh doanh loại hàng hoá phù hợp với nhu cầu của khách, được khách hàng chấp nhận, hàng hoá của doanh nghiệp phải đảm bảo chất lượng và luôn luôn đổi mới. Thế lực cũng là một mục đích của kinh doanh thương mại. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, trên thị trường có nhiều người cung ứng hàng hoá, cạnh tranh trên thị trường đòi hỏi kinh doanh thương mại phải thu hút được ngày càng nhiều khách hàng, phải không ngừng tăng doanh số bán hàng, phải không ngừng mở rộng và phát triển thị trường, tức là tăng được thị phần của mình trên thị trường. Mục đích thế lực là mục tiêu phát triển cả về qui mô kinh doanh, cả về thị phần trên thị trường. Từ qui mô nhỏ tiến lên qui mô lớn, từ chỗ chen được chân vào thị trường tiến tới chiếm lĩnh thị trường và làm chủ thị trường. An toàn cũng là một mục đích của kinh doanh thương mại. Trong thị trường cạnh tranh đầy biến động, có nhiều rủi ro, trong hoạt động kinh doanh, vấn đề bảo toàn vốn và phát triển vốn để kinh doanh liên tục phát triển đòi hỏi phải đặt ra mục tiêu an toàn trong kinh doanh thương mại. Với mục đích an toàn cần phải đa dạng hoá kinh doanh, phải có biện pháp bảo hiểm trong kinh doanh... Mỗi doanh nghiệp một lúc thường có rất nhiều nhu cầu và không phải lúc nào cũng thoả mãn được ngay tất cả các nhu cầu đó nên đòi hỏi phải có sự phân loại các nhu cầu, nghĩa là có sự lựa chọn mục tiêu. Những mục tiêu nào gần gũi nhất, có khả năng thực hiện lớn nhất sẽ được đặt lên hàng đầu. Đối với doanh nghiệp thương mại hoạt động trong lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá thường có 5 mục tiêu cơ bản như: khách hàng, chất lượng, đổi mới, lợi nhuận và cạnh tranh. Để có thể thực hiện thắng lợi mục tiêu kinh doanh, các doanh nghiệp thương mại hoạt động trên thị trường đòi hỏi phải tuân thủ những qui tắc sau: - Sản xuất và kinh doanh những hàng hoá dịch vụ có chất lượng tốt, đáp ứng nhu cầu của khách hàng. - Trong kinh doanh trước hết phải lôi cuốn khách hàng rồi sau đó mới nghĩ đến cạnh tranh. - Trong kinh doanh, khi làm lợi cho mình đồng thời phải làm lợi cho khách hàng. - Tìm kiếm thị trường đang lên và chiếm lĩnh thị trường nhanh chóng. - Đầu tư vào tài năng và nguồn lực để tạo ra được nhiều giá trị sản phẩm. - Nhận thức và nắm bắt được nhu cầu của thị trường để đáp ứng đầy đủ 1.2. Dịch vụ và sản phẩm dịch vụ Trên thế giới ngày nay, nền kinh tế không chỉ đơn thuần với những sản phẩm vật chất cụ thể, mà bên cạnh đó còn tồn tại các sản phẩm dịch vụ. Tổng thu nhập của một quốc gia cũng như doanh thu của một doanh nghiệp không thể không tính đến sự đóng góp của lĩnh vực dịch vụ, đặc biệt là những ngành dịch vụ có giá trị cao. Vậy dịch vụ là gì? Bằng cách tiếp cận dưới góc độ kinh tế, Các Mác cho rằng: dịch vụ là con đẻ của nền kinh tế sản xuất hàng hoá. Khi mà kinh tế hàng hoá phát triển mạnh, đòi hỏi một sự lưu thông trôi chảy, thông suốt, liên tục để thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của con người thì dịch vụ phát triển Vào những năm cuối thế kỉ 20, dịch vụ đã trở thành một ngành kinh tế quan trọng của các quốc gia và trở thành đối tượng nghiên cứu của các nhà khoa học. Theo lý thuyết kinh tế học, dịch vụ là một loại sản phẩm kinh tế không phải là vật phẩm mà là công việc của con người dưới hình thái lao động thể lực, kiến thức, kĩ năng chuyên nghiệp, khả năng tổ chức và thương mại. Do vậy có nhiều quan niệm khác nhau về dịch vụ. Theo cách chung nhất có 2 kiểu như sau: - Theo nghĩa rộng, dịch vụ được coi là ngành kinh tế thứ 3 trong nền kinh tế quốc doanh. Theo cách hiểu này, các hoạt động kinh tế nằm ngoài hai ngành công nghiệp và nông nghiệp đều thuộc ngành dịch vụ. - Theo nghĩa hẹp, dịch vụ là những hoạt động hỗ trợ cho quá trình kinh doanh, bao gồm hỗ trợ trước, trong và sau khi bán, là phần mềm của sản phẩm được cung ứng cho khách hàng. Về bản chất, dịch vụ và sản phẩm vật chất có những nét rất khác biệt: - Là sản phẩm vô hình, chất lượng dịch vụ rất khó đánh giá, không thể xác định một cách cụ thể bằng tiêu chuẩn kỹ thuật, bằng các chỉ tiêu chất lượng một cách rõ ràng vì nó chịu nhiều yếu tố tác động như người bán, người mua và cả thời điểm mua bán dịch vụ đó, người được phục vụ chỉ có thể đánh giá bằng các giác quan của mình như nhìn, ngửi.... - Là sản phẩm vô hình, dịch vụ có sự khác biệt về chi phí so với các sản phẩm vật chất. Hoạt động sản xuất vật chất tạo ra sản phẩm hàng hoá, sản phẩm có chất lượng cao, thấp tạo ra uy tín cho hãng sản xuất và kinh doanh. “Sản phẩm” của hoạt động dịch vụ phụ thuộc rất cao vào chất lượng tiếp xúc, sự tương tác giữa người làm dịch vụ và được phục vụ. - Sản xuất và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời, nên cung cầu dịch vụ không tách rời nhau mà phải tiến hành cùng lúc. Hoạt động dịch vụ thường xuất hiện ở các địa điểm và thời điểm có nhu cầu cần phải đáp ứng. - Dịch vụ không thể cất giữ trong kho, làm phần đệm điều chỉnh sự thay đổi nhu cầu thị trường như các sản phẩm vật chất khác. Những đặc điểm này tạo ra những nét đặc thù cho các doanh nghiệp dịch vụ. Nếu các doanh nghiệp sản xuất cần 4Ps (product, price, place, promotion) cho hoạt động marketing của mình thì các nhà kinh doanh dịch vụ cần 5Ps với 4Ps trên và con người. Dịnh vụ trong hoạt động kinh doanh thương mại có vị trí quan trọng đối với hoạt động kinh doanh. Nó có quan hệ chặt chẽ từ khi sản phẩm hàng hoá được sản xuất ra đến khi sản phẩm được đưa vào tiêu dùng. Dịch vụ là các loại hình hoạt động có mục đích phục vụ cho các nhu cầu của đời sống dân cư hoặc trợ giúp, hoàn thiện, tiếp tục quá trình sản xuất kinh doanh. Mục đích của dịch vụ là để thu lợi nhuận cao qua thoả mãn yêu cầu của khách hàng. Dịch vụ có vai trò to lớn, phát triển hoạt động dịch vụ trong kinh doanh thương mại nhằm mục tiêu phục vụ khách hàng tốt hơn, tạo ra sự tín nhiệm, sự chung thuỷ, sự gắn bó của khách hàng đối với doanh nghiệp, từ đó doanh nghiệp thu hút được khách hàng, bán được nhiều hàng, thu được nhiều lợi nhuận, rút ngắn thời gian ra quyết định mua hàng của người tiêu dùng, đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển hàng hoá, tiền tệ. Dịch vụ lập nên hàng rào chắn, ngăn chặn sự xâm nhập của đối thủ cạnh tranh. Dịch vụ giúp cho việc phát triển thị trường và giữ thị trường ổn định, phát triển được thế và lực của doanh nghiệp, cạnh tranh thắng lợi. Đối với nền kinh tế quốc dân, dịch vụ làm thay đổi căn bản cơ cấu của nền kinh tế. Doanh thu của các ngành dịch vụ trong tổng thu nhập quốc dân có tỷ trọng ngày càng tăng. ở các nước phát triển, dịch vụ chiếm 50 - 60% lực lượng lao động, 60 - 70% thu nhập quốc dân, chi cho hoạt động dịch vụ chiếm 60 - 65% thu nhập của cá nhân. ở các nước đang phát triển, dịch vụ tuy không phát triển được như ở các nước phát triển nhưng cũng đang có những chuyển biến tích cực. Vai trò của kinh doanh thương mại dịch vụ Kinh doanh thương mại dịch vụ là lĩnh vực hoạt động chuyên nghiệp trong lưu thông hàng hoá, vì vậy nó có vị trí trung gian cần thiết giữa sản xuất và tiêu dùng, là tiền đề của sản xuất, là hậu cần của sản xuất và là khâu không thể thiếu được trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội. Kinh doanh thương mại dịch vụ có tác dụng nhiều mặt đối với lĩnh vực vật chất và lĩnh vực tiêu dùng của xã hội. Nó cung ứng những vật tư, hàng hoá dịch vụ cần thiết một cách đầy đủ kịp thời, đồng bộ, đúng số lượng, chất lượng một cách thuận lợi với qui mô ngày càng mở rộng. Thứ hai, kinh doanh thương mại thúc đẩy việc áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật - công nghệ vào sản xuất. Đồng thời thúc đẩy nhu cầu, gợi mở nhu cầu, bảo đảm cho người tiêu dùng những hàng hoá tốt, văn minh và hiện đại. Thông qua việc bảo đảm những loại máy móc, thiết bị, nguyên nhiên liệu mới, hiện đại, kinh doanh thương mại dịch vụ thúc đẩy doanh nghiệp sản xuất sử dụng các loại máy móc, thiết bị mới và hiện đại. Đối với hàng hoá tiêu dùng, nhờ tiếp xúc với thị trường trong và ngoài nước, kinh doanh thương mại đưa các loại hàng hoá tốt, thuận tiện, văn minh và hiện đại cho người tiêu dùng. Từ đó kích thích nhu cầu, hướng giới tiêu dùng vào những hàng hoá chất lượng cao. Thứ ba, kinh doanh thương mại thực hiện việc dự trữ các yếu tố của sản xuất và hàng tiêu dùng, đảm bảo cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và người tiêu dùng giảm bớt dự trữ lớn ở nơi sản xuất và dự trữ tiêu dùng cá nhân. Dự trữ hàng hoá trong khâu lưu thông tăng lên, bảo đảm sự linh hoạt và lưu chuyển nhanh, tránh được ứ đọng nhiều ở các khâu dự trữ “chết”. Thứ tư, kinh doanh thương mại dịch vụ bảo đảm điều hoà cung cầu. Nó làm đắt ở những nơi có nguồn hàng rẻ, nhiều, phong phú và làm rẻ hàng hoá ở những nơi đắt, ít, nghèo nàn. Trong phạm vi toàn nền kinh tế quốc dân, thương mại dịch vụ có tác dụng lớn trong việc thúc đẩy sử dụng nguồn lực và phân bổ các nguồn lực một cách có hiệu quả và hợp lý. Thứ năm, nhờ việc áp dụng ngày càng nhiều các dịch vụ trong kinh doang hàng hoá, các vật tư kỹ thuật được đảm bảo cung ứng ngày càng kịp thời, thuận tiện và văn minh cho các doanh nghiệp sản xuất; bảo đảm ngày càng nhiều hàng hoá tốt, chất lượng cao với dịch vụ thuận lợi cho người tiêu dùng. II. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thương mại – dịch vụ 1. Khái niệm và thực chất của hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thương mại – dịch vụ 1.1. Khái niệm Trong cơ chế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp đều có mục tiêu bao trùm là tối đa hoá lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu này, mỗi doanh nghiệp phải xây dựng chiến lược kinh doanh trước mắt và lâu dài phù hợp với sự biến động liên tục của cơ chế thị trường. Mặt khác, trong quá trình tổ chức xây dựng và thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải luôn kiểm tra đánh giá tính hiệu quả của chúng. Muốn kiểm tra đánh giá các hoạt đông sản xuất kinh doanh chung của toàn doanh nghiệp cũng như từng bộ phận, từng lĩnh vực bên trong doanh nghiệp thì doanh nghiệp không thể không thực hiện các tính toán hiệu quả kinh tế cuả hoạt động sản xuất kinh doanh. Vậy thì hiệu quả kinh doanh là gì? Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế, phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố của quá trình kinh doanh ở doanh nghiệp nhằm đạt kết quả cao nhất trong hoạt động kinh doanh với chi phí ít nhất. Nó không chỉ là thước đo trình độ tổ chức quản lý kinh doanh mà còn là vấn đề sống còn của doanh nghiệp. Hiện nay, có rất nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả kinh doanh. Điều này do điều kiện lịch sử và góc độ nghiên cứu khác nhau về vấn đề hiệu quả kinh doanh. Nhà kinh tế học người Anh Adam Smith cho rằng “Hiệu quả là kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế, là doanh thu tiêu thụ hàng hoá”. ở đây, hiệu quả được đồng nhất với chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, nó khó giải thích việc kết quả sản xuất kinh doanh có thể tăng do tăng chi phí, mở rộng sử dụng các nguồn sản xuất. Theo quan điểm này, với hai mức chi phí khác nhau mà đem lại cùng một kết quả thì chúng có cùng một hiệu quả như nhau. Quan niệm thứ hai cho rằng: “Hiệu quả kinh doanh là quan niệm tỉ lệ giữa phần tăng lên của kết quả và phần tăng thêm của chi phí”. Quan niệm này đã biểu hiện được quan hệ so sánh tương đối giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra. Tuy nhiên, sản xuất kinh doanh là một quá trình trong đó, các yếu tố tăng thêm có sự liên hệ mật thiết với các yếu tố sẵn có. Chúng trực tiếp hoặc gián tiếp tác động làm kết quả sản xuất kinh doanh thay đổi. Vì vậy, theo quan điểm này, tính hiệu quả kinh doanh chỉ được xét tới phần chi phí bổ sung và kết quả bổ sung. Quan niệm thứ ba cho rằng: “Hiệu quả kinh doanh được đo bằng hiệu số giữa kết quả và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó”. Ưu điểm của quan điểm này là phản ánh được mối quan hệ bản chất của hiệu quả kinh tế. Nó đã gắn được kết quả với toàn bộ chi phí, coi hiệu quả kinh doanh là sự phản ánh trình độ sử dụng các chi phí. Tuy nhiên, quan điểm này chưa biểu hiện được tương quan về lượng và chất giữa kết quả và chi phí, chưa phản ánh hết mức độ chặt chẽ của mối liên hệ này. Quan điểm thứ tư coi hiệu quả kinh doanh là mức độ thoả mãn yêu cầu của qui luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội, cho rằng tiêu dùng với tính cách là chỉ tiêu đại diện cho mức sống của mọi người trong các doanh nghiệp, là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh. Quan điểm này đã bám sát mục tiêu của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Song đời sống nhân dân nói chung và mức sống nói riêng rất đa dạng phong phú, nhiều hình, nhiều vẻ. Do đó, rất khó khăn trong việc xác định các chỉ tiêu đo mức độ thoả mãn nhu cầu hay mức độ nâng cao đời sống. Nhìn chung, để làm sáng tỏ bản chất và đi đến một khái niệm hiệu quả kinh doanh hoàn chỉnh thì vẫn chưa có cách giải quyết triệt để. Thật khó mà đánh giá mức độ đạt được hiệu quả kinh doanh của hoạt động thương mại hay doanh nghiệp kinh doanh thương mại khi mà bản thân phạm trù này chưa được định rõ những bản chất và biểu hiện của nó. Tuy nhiên, thông qua những khái niệm trên, ta có thể hiểu: Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế biểu hiện ở mức độ chiều sâu. Nó là thước đo ngày càng trở nên quan trọng, tạo đà tăng trưởng kinh tế, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực, tài lực, tiền vốn của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất trong quá trình sản xuất kinh doanh nhằm thực hiện mục tiêu sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp đã xác định. 1.2. Phân loại hiệu quả kinh doanh Trong công tác quản lý, phạm trù hiệu quả kinh doanh biểu hiện ở những dạng khác nhau, mỗi dạng thể hiện những đặc trưng, ý nghĩa cụ thể của hiệu quả. Việc phân loại hiệu quả kinh doanh theo những tiêu thức khác nhau có tác dụng thiết thực cho công tác quản lý thương mại. Nó là cơ sở để xác định các chỉ tiêu và mức hiệu quả kinh doanh, từ đó đề ra những biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thương mại. 1.2.1. Hiệu quả kinh doanh cá biệt và hiệu quả kinh tế xã hội của nền kinh tế quốc dân Hiệu quả kinh doanh cá biệt là hiệu quả thu được từ hoạt động thương mại của từng doanh nghiệp kinh doanh. Biểu hiện chung của hiệu quả cá biệt là lợi nhuận mà mỗi doanh nghiệp
Tài liệu liên quan