Đề tài Biện pháp quản lý sinh viên nội trú tại trường Cao đẳng Sư phạm Hòa Bình

Đất nước ta đang trên đà phát triển mạnh mẽ, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh. Sau 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo luôn được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Chỉ thị 40-CT/TW ngày 15/06/2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã chỉ rõ: "Phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, là điều kiện phát huy nguồn lực con người" 1;1. Giáo dục và đào tạo là vấn đề then chốt của xã hội. Nghị quyết Trung ương II khoá VIII của Ban chấp hành Trung Ương Đảng khẳng định “Muốn tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá thắng lợi phải phát triển giáo dục và đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững” [12, tr.50]. Đại hội X của Đảng (2006) tiếp tục chỉ rõ nhiệm vụ: “Bồi dưỡng các giá trị văn hoá trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh con người Việt Nam” [13, tr 106] “ Con người là trung tâm của chiến lược phát triển đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, gia đình, nhà trường, từng tập thể lao động. Các đoàn thể và cộng đồng dân cư trong việc chăm lo, xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi; sống có văn hóa nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính

doc112 trang | Chia sẻ: lamvu291 | Lượt xem: 1281 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Biện pháp quản lý sinh viên nội trú tại trường Cao đẳng Sư phạm Hòa Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu Lý do chọn đề tài Đất nước ta đang trên đà phát triển mạnh mẽ, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh. Sau 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo luôn được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Chỉ thị 40-CT/TW ngày 15/06/2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã chỉ rõ: "Phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, là điều kiện phát huy nguồn lực con người" [1;1]. Giáo dục và đào tạo là vấn đề then chốt của xã hội. Nghị quyết Trung ương II khoá VIII của Ban chấp hành Trung Ương Đảng khẳng định “Muốn tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá thắng lợi phải phát triển giáo dục và đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững” [12, tr.50]. Đại hội X của Đảng (2006) tiếp tục chỉ rõ nhiệm vụ: “Bồi dưỡng các giá trị văn hoá trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh con người Việt Nam” [13, tr 106] “ Con người là trung tâm của chiến lược phát triển đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, gia đình, nhà trường, từng tập thể lao động. Các đoàn thể và cộng đồng dân cư trong việc chăm lo, xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi; sống có văn hóa nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính. Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách. Đơn vị sản xuất, công tác, học tập, chiến đấu phải là môi trường rèn luyện phong cách làm việc có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng xuất và hiệu quả cao, bồi đắp tình bạn, tình đồng chí, đồng đội, hình thành nhân cách con người và nền văn hóa Việt Nam” [14, tr.76,77]. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã chỉ rõ: “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân học tập suốt đời ” [14, tr.77] Nước ta đang đứng trước một thách thức lớn: Đến năm 2020 phải cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Trước mắt phải rút ngắn được khoảng cách về trình độ sản xuất và đời sống xã hội so với các nước đang phát triển trong khu vực và trên thế giới. Để có thể đạt được điều này thì việc phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Giáo dục (theo nghĩa rộng) là quá trình tác động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch, có nội dung và bằng phương pháp khoa học của nhà giáo dục tới người được giáo dục trong các cơ quan giáo dục nhằm hình thành nhân cách cho họ. [28, tr.22] Giáo dục (theo nghĩa hẹp) là quá trình hình thành cho người được giáo dục lí tưởng, động cơ, tình cảm, niềm tin, những nét tính cách của nhân cách, những hành vi, thói quen cư xử đúng đắn trong xã hội thông qua việc tổ chức cho họ thông qua hoạt động và giao lưu”. [28, tr.22] Giáo dục được hiểu là một hiện tượng xã hội mà bản chất là sự tiếp nối kinh nghiệm xã hội- lịch sử qua các thế hệ. Giáo dục có mục tiêu, nội dung, phương pháp và các hình thức tổ chức xác định. Mục tiêu cuối cùng của giáo dục nhằm phát triển toàn diện người được giáo dục. Sự phát triển toàn diện nhân cách đó bao hàm sự phát triển về thể chất, tâm lý và các năng lực thực tiễn. Như vậy, nhiệm vụ rất quan trọng của nhà trường là đào tạo nguồn nhân lực làm sao đáp ứng được nhu cầu cấp thiết trong thời kỳ mới hiện nay, đồng thời phù hợp với xu thế toàn cầu hóa lực lượng sản xuất, với yêu cầu người lao động phải được đào tạo trình độ đạt chuẩn. Chính vì thế, ngoài nhiệm vụ trang bị những kiến thức cơ bản, các nhà trường phải có những hoạt động giáo dục toàn diện cho học sinh. Thực hiện Nghị quyết của Đảng, chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo nhằm tạo ra những con người có học vấn cao để hội nhập với thế giới đòi hỏi ngành giáo dục nói chung và giáo dục học nói riêng phải đào tạo được nguồn nhân lực có chất lượng cả về tri thức khoa học và khả năng vận dụng những tri thức đó vào cuộc sống, đồng thời phải có tính sáng tạo, tự chủ trong học tập để trau dồi kiến thức nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nâng cao chất lượng đào tạo là nhiệm vụ cơ bản đầu tiên của nhà trường, đây chính là điều kiện để nhà trường tồn tại và phát triển. Trường Cao đẳng Sư phạm Hòa Bình nằm trong Hệ thống giáo dục Quốc dân, là một cơ sở đào tạo nguồn nhân lực cho tỉnh Hòa Bình đa dạng với các loại nghề nhằm đào tạo tại chỗ đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng của tỉnh nhà, góp phần tăng tiềm lực cán bộ khoa học, kỹ thuật cho địa phương. Chất lượng đào tạo phụ thuộc vào nhiều yếu tố: đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, của địa phương và của Nhà trường như: mục tiêu, nội dung, chương trình, hình thức, phương pháp, phương tiện dạy học, giáo viên, học sinh và bao trùm lên toàn bộ nhà trường là yếu tố quản lý giáo dục, trong đó công tác quản lý sinh viên giữ vai trò rất quan trọng. Với mong muốn góp phần xây dựng Trường Cao đẳng Sư phạm Hòa Bình ngày càng phát triển, chúng tôi chọn đề tài: Biện pháp quản lý sinh viên nội trú tại trường Cao đẳng Sư phạm Hòa Bình. Mục đích nghiên cứu Đề tài nghiên cứu đề xuất các biện pháp quản lý sinh viên nội trú tại trường Cao đẳng Sư phạm Hòa Bình nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho SV ở trường CĐSP Hòa Bình Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện các mục đích đề ra, luận văn tập trung triển khai các nhiệm vụ nhiên cứu dưới đây: - Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý sinh viên nội trú của các trường Cao đẳng. - Nghiên cứu thực trạng SV nội trú và công tác quản lý SV nội trú của trường CĐSP Hòa Bình - Đề xuất một số biện pháp quản lý SV nội trú tại trường CĐSP Hòa Bình. Khách thể và đối tượng nghiên cứu Khách thể nghiên cứu: Công tác quản lý sinh viên trong các trường Cao đẳng. Đối tượng nghiên cứu: Công tác quản lý SV nội trú của trường Cao đẳng Sư phạm Hòa Bình. Giả thuyết khoa học Nếu tìm ra được những biện pháp quản lý SV nội trú của trường CĐSP Hòa Bình phù hợp với yêu cầu đổi mới công tác quản lý của nhà trường như đã xác định trong đề tài thì công tác quản lý SV nội trú của trường sẽ có hiệu quả hơn, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho SV. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu các biện pháp quản lý SV nội trú của trường CĐSP Hòa Bình đối tượng là SV hệ Cao đẳng chính quy. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn sử dụng kết hợp các nhóm phương pháp nghiên cứu sau: Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết Phân tích, khái quát các tài liệu nghiên cứu lý luận và các văn bản nghị quyết của Nhà nước và các quy chế, quy định của ngành giáo dục và đào tạo có liên quan đến đề tài. 7.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn 7.2.1. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi Để tìm hiểu sinh viên nội trú ở trường CĐSP Hòa Bình, chúng tôi xây dựng các mẫu phiếu hỏi ý kiến đối với cán bộ quản lý nhà trường; giảng viên; sinh viên và một số đối tượng liên quan đến việc quản lý sinh viên. Trên cơ sở những thông tin thu được từ những phiếu xin ý kiến, chúng tôi tập hợp phân tích thực trạng, chỉ ra những mặt mạnh và những hạn chế trong công tác quản lý sinh viên nội trú của nhà trường; trên cơ sở đó đưa ra những biện pháp quản lý nhằm tăng cường hiệu quả công tác này. . Phương pháp phỏng vấn Tiến hành phỏng vấn, trao đổi trực tiếp với CBQL, GV, và sinh viên nhằm thu thập thêm thông tin bổ sung cho phần thực trạng. 7.2.3. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm Nghiên cứu tổng kết thực tiễn việc quản lý SV nội trú ở trường CĐSP Hòa Bình trong những năm gần đây, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho việc quản lý này đạt hiệu quả. 7.3. Phương pháp thống kê toán học Dùng phương pháp thống kê toán học để tổng hợp số liệu thu được từ phiếu hỏi, tính tỷ lệ % để phân tích, so sánh, đánh giá cho chính xác. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, luận văn được trình bày thành 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài Chương 2. Thực trạng SV nội trú và công tác quản lý SV nội trú của trường Cao đẳng Sư phạm Hòa Bình. Chương 3. Một số biện pháp quản lý sinh viên nội trú tại trường Cao đẳng Sư phạm Hòa Bình. chương 1 Cơ sở lý luận của đề tài Tổng quan nghiên cứu vấn đề Giáo dục là một chức năng của xã hội loài người, được thực hiện một cách tự giác, vượt qua ngưỡng “tập tính” của các giống loài động vật bậc thấp khác. Cũng như mọi hoạt động khác của xã hội loài người, sự ra đời của hoạt động giáo dục gắn liền với sự ra đời của hoạt động quản lý giáo dục và từ đó cũng xuất hiện khoa học về QLGD. Là người học. Người học vừa là đối tượng đào tạo, vừa là mục tiêu đào tạo. Để nâng cao chất lượng đào tạo ngoài việc xem xét các yếu tố người dạy, nội dung, chương trình, cơ sở vật chất...thì không thể không nghiên cứu trực tiếp là đối tượng người học. Xung quanh vấn đề người học có rất nhiều vấn đề cần nghiên cứu trong đó có vấn đề người học trong quá trình đào tạo tại các cơ sở giáo dục ở trong khu nội trú. Trước đây, phần lớn SV đến học tại các trường Cao đẳng, Đại học hầu hết đều được ở trong KTX nhưng hiện nay nhu cầu ở KTX của SV tại các cơ sở GD đại học không đáp ứng được vì quy mô đào tạo của các trường Cao đẳng, Đại học trong những năm gần đây phát triển không ngừng. Vấn đề nghiên cứu về quản lý SV nội trú ít được đề cập; có chăng cũng chỉ là những nghiên cứu liên quan đến việc tổ chức giáo dục ngoài giờ lên lớp ở các bậc học khác nhau như: Nguyễn Hữu Hợp (chủ biên), Nguyễn Dục Quang - “Công tác giáo dục ngoài giờ lên lớp ở trường tiểu học” (Giáo trình dành cho hệ tại chức đào tạo giáo viên tiểu học) – Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội 1995. Năm 1997 Bộ GD&ĐT ban hành riêng “Quy chế học sinh, sinh viên nội trú trong các trường đại học, cao đẳng, TCCN” nhằm quy định rõ trách nhiệm và quyền hạn của các trường trong việc tổ chức quản lý khu nội trú, quyền và nghĩa vụ của học sinh, sinh viên trong các khâu liên quan đến việc ăn, ở, học tập, sinh hoạt... trong khuôn viên nội trú của các trường đào tạo. Để phù hợp với mục tiêu đào tạo trong tình hình mới, ngày 18 tháng 10 năm 2002 Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã ký Quyết định số 41/2002/QĐ-BGD&ĐT về việc sửa đổi bổ xung công tác HSSV nội trú. Ngày 26/7/2011 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ký Thông tư số 27/2011/TT-BGD&ĐT về việc Ban hành Quy chế công tác HSSV nội trú tại các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. Thông tư này có hiệu lực thi hành ngày 10 tháng 8 năm 2011 và thay thế Quyết định số 2137/GD-ĐT ngày 29/6/1997 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc ban hành Quy chế công tác học sinh sinh viên nội trú trong các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề; Quyết định số 41/2002/QĐ-BGDĐT ngày 18 tháng 10 năm 2002 của Bộ trưởng Bộ Giỏo dục và Đào tạo. Quản lý SV nội trú là vấn đề mới chưa được nghiên cứu nhiều tuy nhiên có một số tác giả nghiên cứu đề cập đến những khía cạnh khác nhau về quản lý người học. Có thể kể đến các công trình sau: Đề tài luận văn thạc sỹ QLGD: “Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực tự học của sinh viên trường Dự bị đại học dân tộc trung ương - Việt Trì - Phú Thọ” của Lê Trọng Tuấn năm 2001 đã đánh giá thực trạng năng lực tự học của sinh viên trường Dự bị Đại học Dân tộc trung ương và đề xuất một số giải pháp thích hợp nâng cao năng lực tự học của sinh viên; Đối với đề tài nghiên cứu việc quản lý sinh viên nội trú vùng miền núi phía bắc có công trình nghiên cứu của Bùi Sĩ Đức: “Các biện pháp quản lý sinh viên nội trú ở trường CĐSP Yên Bái” năm 2007 đã đánh giá thực trạng công tác quản lý SV nội trú của trường CĐSP Yên Bái và đề xuất một số giải pháp thích hợp nâng cao biện pháp quản lý SV nội trú. Đề tài nghiên cứu khoa học của Nguyễn Thị Thìn: “Kế thừa và phát triển các giá trị đạo đức truyền thống trong giáo dục sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Hòa Bình hiện nay” năm 2011. Những nghiên cứu trên đã tìm hiểu thực trạng công tác quản lý sinh viên trong đó có quản lý sinh viên nội trú và từ đó đề xuất các biện pháp quản lý. Tuy nhiên những nghiên cứu cụ thể áp dụng trong những môi trường cụ thể, của từng trường trong khi đó công tác quản lý SV nội trú lại phụ thuộc vào đặc thù của từng nhà trường. Trường Cao đẳng Sư phạm Hòa Bình cũng gặp phải vấn đề nan giải trong công tác quản lý SV như các trường khác nói chung nhưng xuất phát từ đặc điểm riêng của mỗi trường nên không áp dụng biện pháp quản lý của trường này vào trường khác. Do vậy, vấn đề “Biện pháp quản lý sinh viên nội trú tại trường Cao đẳng Sư phạm Hòa Bình” là vấn đề cần được nghiên cứu. 1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài 1.2.1. Quản lý 1.2.1.1. Khái niệm quản lý Lịch sử đã chứng minh rằng, để tồn tại và phát triển, ngay từ khi loài người xuất hiện trên trái đất, con người đã liên kết với nhau thành nhóm để thực hiện những mục tiêu mà họ không thể đạt được với tư cách là những cá nhân riêng lẻ, nhằm chống lại sự tiêu diệt của thú dữ và thiên nhiên, đồng thời cũng xuất hiện một loạt các mối quan hệ: quan hệ con người với con người, giữa con người với thiên nhiên, giữa con người với xã hội và cả con người với chính bản thân con người. Trong quá trình đó đã xuất hiện một số người có năng lực chi phối được người khác, cũng như điều khiển mọi hoạt động của nhóm sao cho phù hợp với mục tiêu chung. Những người đó đóng vai trò thủ lĩnh để quản lý nhóm, điều đó đã làm nảy sinh nhu cầu về quản lý. Như vậy, hoạt động quản lý xuất hiện từ rất sớm như một yếu tố cần thiết để phối hợp những nỗ lực cá nhân hướng tới những mục tiêu chung và nó tồn tại, phát triển cho đến ngày nay. Nói đến hoạt động quản lý, người ta thường nhắc đến ý tưởng sâu sắc của Các Mác: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa sự hoạt động của cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng ” [11,tr.480 ]. Còn theo H.Koontz “Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo sự phối hợp những nỗ lực của cá nhân nhằm đạt được mục đích của tổ chức. Mục đích của mọi nhà quản lý là hình thành môi trường mà trong đó con người có thể đạt được mục đích của tổ chức. Mục đích của mọi nhà quản lý là hình thành môi trường mà trong đó con người có thể đạt được các mục đích của mình với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất” [21,tr. 33]. Nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam, xuất phát từ các góc độ khác nhau cũng đã đưa ra những khái niệm quản lý: Xuất phát từ các loại hình hoạt động quản lý, các tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc cho rằng “Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra” [10,tr. 1 ]. Một xu hướng nghiên cứu phương pháp luận quản lý ở Việt Nam trong cuốn “Khoa học quản lý” của nhiều tác giả: Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Văn Bình, Nguyễn Quốc Chí... cho rằng: “Hoạt động quản lý nhằm làm cho hệ thống vận động theo mục tiêu đặt ra tính đến trạng thái có chất lượng mới” [3,tr.176]. Quản lý về bản chất bao gồm quá trình “quản” và quá trình “lý”. “Quản” là coi sóc giữ gìn, duy trì sự ổn định của hệ. “Lý” là sửa sang, sắp xếp, đổi mới, tạo ra sự phát triển của hệ. Hệ ổn định mà không phát triển tất yếu sẽ suy thoái. Hệ phát triển mà không ổn định tất yếu sẽ dẫn đến rối ren. Quản lý nhằm ngăn chặn mọi sự suy thoái và rối ren. Nếu người đứng đầu tổ chức chỉ lo việc “quản” tức là chỉ lo việc coi sóc, giữ gìn thì tổ chức dễ trì trệ, tuy nhiên nếu chỉ quan tâm tới việc “lý” tức là chỉ lo việc sắp xếp tổ chức. đổi mới mà không đạt nền tảng của sự ổn định, thì sự phát triển của tổ chức không bền vững. Trong “quản” phải có “lý” trong lý phải có “quản” để động thái của hệ ở thế cân bằng động. Hệ vận động phù hợp, thích ứng và có hiệu quả mong muốn tương tác giữa các yếu tố bên trong với các nhân tố bên ngoài. Qua các cách giải thích về quản lý của các tác giả trong và ngoài nước, tuy có nhiều cách hiểu, cách diễn đạt khác nhau, song có thể kết luận: Quản lý là hệ thống những tác động có chủ định, phù hợp với quy luật khách quan của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý (đối tượng quản lý) nhằm khai thác và tận dụng tốt nhất những tiềm năng và cơ hội của khách thể quản lý để đạt đến mục tiêu quản lý trong một môi trường luôn biến động. Quản lý vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Là khoa học vì nó là những tri thức được hệ thống hóa và là đối tượng nghiên cứu khách quan đặc biệt. Quản lý là khoa học nghiên cứu, lý giải các mối quan hệ, đặc biệt là mối quan hệ giữa chủ và khách thể quản lý. Là nghệ thuật bởi nó là hoạt động đặc biệt đòi hỏi sự khéo léo, tinh tế và linh hoạt trong việc sử dụng những kinh nghiệm đã quan sát được, những tri thức đã được đúc kết nhằm tác động một cách có hiệu quả nhất tới khách thể quản lý. Như vậy, quản lý là một khái niệm rộng bao gồm nhiều lĩnh vực, mỗi một lĩnh vực có một hệ thống lý luận riêng: các nhà kinh tế thiên về quản lý nền sản xuất xã hội, các nhà luật học thiên về quản lý nhà nước, các nhà điều khiển học thiên về quan điểm cho hệ thống. Cho nên khi đưa các định nghĩa về quản lý, các tác giả thường gắn với các loại hình quản lý cụ thể hoặc phụ thuộc nhiều vào lĩnh vực hoạt động hay nghiên cứu của mình. Nhưng, bất cứ một tổ chức, một lĩnh vực nào, từ sự hoạt động của nền kinh tế quốc dân, của một doanh nghiệp, một đơn vị hành chính sự nghiệp.... đến một tập thể nhỏ như tổ chuyên môn, tổ sản xuất, bao giờ cũng có hai phân hệ: người quản lý và đối tượng được quản lý. Đó là một loại hoạt động xã hội bắt nguồn từ tính chất cộng đồng dựa trên sự phân công và hợp tác để làm một công việc nhằm đạt một mục tiêu chung. Vì vậy, những nhà quản lý phải luôn luôn mềm dẻo, linh hoạt để vận dụng những nguyên tắc quản lý khác nhau trong từng lĩnh vực và tình huống cụ thể cho phù hợp nhằm đạt được hiệu quả quản lý cao nhất. * Các chức năng quản lý + Lập kế hoạch (thiết kế mục tiêu, chương trình hành động). + Tổ chức thực hiện (phân công công việc, sắp xếp con người). + Chỉ đạo điều hành. + Kiểm tra (giám sát hoạt động của bộ máy nhằm kịp thời điều chỉnh sai sót, đưa bộ máy đạt mục tiêu đã xác định). + Thông tin (là công cụ không thể thiếu trong hoạt động quản lý, cần thiết cho tất cả các chức năng quản lý. Đây là quá trình hai chiều, trong đó mỗi người vừa là nguồn phát vừa là nguồn thu nhận) [26,t r.2] Có bốn chức năng cơ bản của quản lý liên quan mật thiết với nhau, đó là: lập kế hoạch; tổ chức, chỉ đạo thực hiện; kiểm tra đánh giá, trong đó thông tin là trung tâm của quản lý. Bên cạnh 4 chức năng cơ bản của quản lý, còn rất nhiều vấn đề liên quan khác như: Dự đoán; động viên; điều chỉnh, đánh giá, thông tin phản hồi, ra quyết định... Các chức năng cơ bản của quản lý tạo thành một hệ thống thống nhất, không được coi nhẹ một chức năng nào. Để các chức năng của quản lý vận hành có hiệu quả, vấn đề thông tin đóng vai trò là trung tâm; tất cả các chức năng của quản lý thực hiện được đều phải đảm bảo sự thu thập thông tin; phân tích thông tin và ra quyết đị