Đề tài Các giải pháp lựa chọn công nghệ thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động chuyển giao công nghệ nước ngoài Việt Nam

Công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá (CNH-HĐH) mà toàn Đảng toàn dân ta tiến hành chỉ có thể thành công khi chúng ta thực sự tạo cho mình một trình độ sản xuất tiên tiến hiện đại. Để có một trình độ sản xuất tiên tiến hiện đại, trước tiên chúng ta phải đi trước một bước phát triển khoa học công nghệ. Cùng với giáo dục và đào tạo, khoa hoc- công nghệ sẽ là quốc sách hàng đầu trong quá trình đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) nói chung và trong công cuộc CNH- HĐH hiện nay nói riêng.

doc126 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1544 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các giải pháp lựa chọn công nghệ thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động chuyển giao công nghệ nước ngoài Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời cảm ơn Để có thể hoàn thành khoá luận này em xin cảm ơn các thầy cô giáo trường Đại học Ngoại thương đã trang bị cho em đầy đủ những kiến thức về chuyên môn và lý luận trong suốt 4 năm học tại trường. Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn cô giáo - thạc sỹ Mai Thu Hiền - giảng viên Bộ môn Đầu tư và chuyển giao công nghệ - Khoa kinh tế Ngoại thương - Trường Đại học Ngoại thương người đã trực tiếp hướng dẫn giúp đỡ, góp ý cho em trong quá trình hoàn thiện khoá luận này. Ngoài ra em xin cảm ơn tới các cô chú, anh chị trong thư viện trường Đại học Ngoại thương, thư viện Quốc gia Hà Nội, các đơn vị đã giúp em trong quá trình sưu tầm tài liệu và tổng hợp thông tin, cũng như sự giúp đỡ động viên to lớn của gia đình và bạn bè về vật chất và tinh thần để em có thể hoàn thành khoá luận này. Tuy nhiên do những hạn chế về trình độ bản thân trong lý luận và thực tế cũng như vì thời gian có hạn mà trong khóa luận này chắc chắn sẽ không tránh khỏi những sai sót nhất định. Hà Nội tháng 12 năm 2002 Sinh viên thực hiện : PhạmĐứcHưng. Lời nói đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài. Công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá (CNH-HĐH) mà toàn Đảng toàn dân ta tiến hành chỉ có thể thành công khi chúng ta thực sự tạo cho mình một trình độ sản xuất tiên tiến hiện đại. Để có một trình độ sản xuất tiên tiến hiện đại, trước tiên chúng ta phải đi trước một bước phát triển khoa học công nghệ. Cùng với giáo dục và đào tạo, khoa hoc- công nghệ sẽ là quốc sách hàng đầu trong quá trình đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) nói chung và trong công cuộc CNH- HĐH hiện nay nói riêng. Để nâng cao trình độ khoa học công nghệ trong nước đòi hỏi chúng ta phải đồng thời kết hợp giữa vấn đề tự nghiên cứu phát triển khoa học trong nước với việc du nhập tiến bộ khoa học công nghệ trên thế giới. Với điều kiện thực tế Việt Nam hiện nay chuyển giao công nghệ (CGCN) từ nước ngoài vào trong nước sẽ được ưu tiên trước một bước trong trọng tâm phát triển khoa học công nghệ. Tuy nhiên hoạt động CGCN từ nước ngoài vào Việt Nam mới chỉ thực sự mang đúng ý nghĩa của nó từ khi Đảng và Nhà nước ta tiến hành đổi mới mở cửa nền kinh tế. Do vậy đây là một hoạt động kinh tế đối ngoại còn mới mẻ ở Việt Nam. Chính vì lẽ đó mà bản thân các doanh nghiệp còn hạn chế rất nhiều về những kiến thức và kinh nghiệm trong quá trình thực hiện CGCN nước ngoài vào trong nước, từ đó làm cho hoạt động CGCN nước ngoài vào trong nước chưa mang lại những hiệu quả mong muốn, hoặc thậm chí phía Việt Nam còn phải gánh chịu những thua thiệt lớn trong khi thực hiện kinh tế đối ngoại mới này. Để đáp ứng yêu cầu thực tế đặt ra, đã có rất nhiều những công trình tài liệu nghiên cứu đề cập đến lĩnh vực CNCG từ nước ngoài vào trong nước ở những góc độ, mức độ khác nhau. Với mong muốn góp một tiếng nói chung vào việc nâng cao hoạt động CGCN nước ngoài vào Việt Nam, và góp phần hoàn thiện hơn một bước những kiến thức liên quan hoạt động CGCN nước ngoài vào Việt Nam Khoá luận tốt nghiệp có đề tài :"Các giải pháp lựa chọn công nghệ thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động chuyển giao công nghệ nước ngoài Việt Nam" với những kiến thức về lý luận và thực tế liên quan đến hoạt động CNCG, người viết hy vọng rằng đây sẽ là một tài liệu tham khảo bổ sung cho các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình nghiên cứu, đưa ra quyết định lựa chọn CGCN ở đơn vị mình. 2. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của khoá luận là đi vào nghiên cứu và đi đến nắm vững các kiến thức liên quan hoạt động CGCN để từ đó có thể vận dụng linh hoạt vào từng trường hợp CGCN thực tế khác nhau. Và quan trọng hơn hết, người viết hy vọng rằng trên cơ sở nắm vững những kiến thức đó các doanh nghiệp có thể không ngừng nâng cao kiến thức kinh nghiệm của mình trong khi thực hiện hoạt động CGCN nước ngoài vào trong nước cũng như nâng cao hiệu quả của hoạt động đó, từ đó góp phần đẩy nhanh tiến trình CNH - HĐH ở Việt Nam. 3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu Khoá luận này đi vào nghiên cứu những lý luận chung nhất về công nghệ và CGCN trên cơ sở kết hợp phân tích đánh giá thực trạng về công nghệ và CGCN cũng như điều kiện thực tế của Việt Nam từ đó đi đến xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu phản ánh một giải pháp công nghệ thích hợp với Việt Nam. Và tiếp đó là chú trọng hướng vào việc nghiên cứu các vấn đề liên quan đến hoạt động CGCN trong mỗi doanh nghiệp. 4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu của khoá luận là kết hợp giữa nghiên cứu lý luận và thực nghiệm thực tế dựa trên quan điểm duy vật biện chứng . Khoá luận này được xây dựng trên cơ sở đánh giá phân tích tổng hợp các tài liệu, số liệu, thông tin thực tế liên quan đến CGCN cùng với việc tham khảo những kiến thức lý luận trong chương trình giảng dạy ở trường Đại học Ngoại thương qua các môn học như :Kinh tế ngoại thương; Quan hệ kinh tế Quốc tế; Đầu tư nước ngoài; Chuyển giao công nghệ ; Thanh toán quốc tế; Kỹ thuật nghiệp vụ Ngoại thương; Phân tích hoạt động kinh doanh xuât nhập khẩu và các môn học cơ bản, chuyên ngành khác. Khoá luận này còn xây dựng trên cơ sở tham khảo những định hướng của Đảng và Nhà nước về phát triển khoa học công nghệ . 5. Kết cấu nội dung Ngoài lời nói đầu và kết luận ra khoá luận được chia làm 3 chương sau: Chương I:Một số lý luận chung về công nghệ, chuyển giao công nghệ . Chương II: Thực trạng công nghệ và hoạt động chuyển giao công nghệ tại Việt Nam . Chương III: các giải pháp lựa chọn công nghệ thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam. Chương I Một số Lý luận chung về công nghệ, chuyển giao công nghệ I. Công nghệ 1. Khái niệm về công nghệ . Công nghệ là gì? Có nhiều định nghĩa khác nhau về công nghệ. Mỗi định nghĩa đề cập đến công nghệ ở những phương diện khác nhau. ã Công nghệ theo cách hiểu của các nhà khoa học thì “công nghệ” là hệ thống các giải pháp được tạo nên bởi sự ứng dụng các tri thức khoa học để giải quyết một vấn đề thực tiễn. ã Theo các nhà quản lý và các nhà kinh tế học nói một cách tổng quát “công nghệ” là hệ thống kiến thức về quy trình và kỹ thuật chế biến vật chất hoặc chế biến thông tin nhằm biến đổi các nguồn lực tự nhiên thành các nguồn lực sử dụng ã Theo tổ chức phát triển công nghiệp liên hiệp quốc UNIDO ( United Nations Industrial Development Orgnization) “công nghệ” là việc áp dụng khoa học vào công nghệ bằng cách sử dụng những nghiên cứu và xử lý có một hệ thống và có phương pháp. ã Theo Uỷ ban kinh tế xã hội Châu á-Thái Bình Dương ESCAP ( Economic and Social Commision for Asia and Pacific), “công nghệ” bao gồm tất cả các kỹ năng, kiến thức, thiết bị và phương pháp sử dụng trong sản xuất, chế tạo hoặc dịch vụ công nghiệp, dịch vụ quản lý, công nghệ luôn luôn gắn liền với quá trình sản xuất trực tiếp. Định nghĩa này đã được mở rộng khái niệm ứng dụng của công nghệ vào các lĩnh vực quản lý và dịch vụ. Định nghĩa này được áp dụng rộng rãi, đánh dấu một bước ngoặt lịch sử của quan niệm về công nghệ. ã Về phương diện kinh doanh khái niệm "công nghệ " được định nghĩa như sau: “Công nghệ” là hệ thống các giải pháp mà con người sử dụng trong quá trình thực hiện, như chế tạo một sản phẩm, xây dựng một công trình hay thực hiện một dịch vụ. Như chúng ta điều biết, khoa học và công nghệ khác nhau về bản chất mặc dù có quan hệ ngày càng mật thiết. Khoa học nhằm đạt đến sự tiến bộ của nhận thức trong khi đó công nghệ áp dụng nhận thức nhằm tìm cách biến đổi thực tại. Khoa học thường gắn với các khám phá, công nghệ gắn với hàng hoá dịch vụ. Công nghệ luôn là loại hàng hoá vô hình được mua bán trên thị trường thông qua hoạt động chuyển giao công nghệ. 2. Các yếu tố cấu thành công nghệ. 2.1. Hình thái vật chất của công nghệ. Hình thái vật chất của công nghệ được gọi là phần cứng (hardware) hay gọi tắt là trang thiết bị (technoware) bao gồm máy móc thiết bị, công cụ, hạ tầng kỹ thuật (các giải pháp đã được vật chất hoá). 2.2. Thông tin (informware). Thông tin là các sơ đồ, bản vẽ, thuyết minh, quy trình, phương pháp dự án, mô tả sáng chế, chỉ dẫn kỹ thuật… được thể hiện trong các ấn phẩm và các phương tiện lưu trữ thông tin khác. Phần thông tin rất quan trọng nó quyết định phần lớn sự thành công hay thất bại của chuyển giao công nghệ. Nó được tiến hành tìm kiếm trong một thời gian dài và được hoàn thiện trước thời gian ký hợp đồng. 2.3. Thiết chế (Orgaware). Thiết chế là cơ cấu tổ chức, quản lý, là động lực quan trọng thúc đẩy chuyển giao công nghệ bao gồm sự liên hệ, bố trí sắp xếp, đào tạo đội ngũ… cho các hoạt động như phân chia nguồn lực, tạo mạng lưới, lập kế hoạch, kiểm tra, tiến hành. 2.4. Yếu tố con người (Humanware) Yếu tố con người bao gồm kiến thức, kỹ năng công nghệ, kinh nghiệm sản xuất, kỷ luật sản xuất và tính sáng tạo. Ba yếu tố thông tin, thiết chế, yếu tố con người gộp lại gọi là phần mềm của công nghệ (Software) 3. Các thuộc tính (đặc điểm) của công nghệ. Công nghệ là một loại hàng hoá trên thị trường với tư cách là một hệ thống công cụ chế biến vật chất và chế biến thông tin, hàng hoá công nghệ có thuộc tính riêng. Những thuộc tính này do 4 yếu tố cơ bản của công nghệ tạo nên, nó quyết định và ảnh hưởng trực tiếp tới việc mua, bán, đánh giá, định giá, trao đổi, sử dụng công nghệ. 3.1 Tính hệ thống: Tính hệ thống thể hiện ở chỗ bất cứ một công nghệ nào cũng hàm chứa trong đó mối quan hệ hữu cơ giữa bốn yêú tố cấu thành nên nó. Trang thiết bị là cốt lõi của bất kỳ sự chuyển đổi. Nó được phát triển, lắp đặt, vận hành bởi con người. Yếu tố con người là yếu tố chủ chốt của bất kỳ thao tác chuyển đổi, nó được phần thông tin hướng dẫn. Thông tin được tạo ra và được con người sử dụng để quyết định và vận hành trang thiết bị. Thiết chế tiếp nhận và kiểm soát phần thông tin, phần con người và phần trang thiết bị để tiến hành quá trình chuyển đổi. Bốn yếu tố này liên kết trực tiếp với nhau. Trong đó yếu tố con người là phần tối quan trọng của công nghệ. Tính hệ thống thể hiện trình tự, bước thực hiện theo một chu trình nghiêm ngặt, theo quy trình, thời gian, địa điểm... trong từng yếu tố. Sự tương tác giữa các yếu tố của công nghệ được thể hiện trong sơ đồ sau. (Hình 1) Hình 1. Sự tương tác giữa các thành phần của công nghệ Nguồn: Đoàn Châu Thanh - Chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam trong công cuộc CNH - HĐH nền kinh tế - Luận văn Thạc sĩ kinh tế - Trường Đại học Ngoại thương, tr4. Qua hình 1 cho ta thấy chỉnh thể thống nhất của công nghệ. Công nghệ đó là tổng hoà mọi yếu tố từ yếu tố công nghệ hiện thân trong con người, đến công nghệ hiện thân trong vật thể biểu hiện ở phần kĩ thuật, công nghệ hiện thân trong tài liệu kĩ thuật biểu hiện ở phần thông tin, cho đến công nghệ hiện thân trong thể chế biểu hiện ở phần tổ chức. Như vậy khi đề cập đến công nghệ hay CGCN, chúng ta phải đồng thời phần tích các yếu tố cấu thành nên công nghệ trong một chỉnh thể thống nhất không tách rời, nếu không chúng ta sẽ phạm phải sai lầm khó tránh khỏi khi đưa ra quyết định lựa chọn công nghệ. 3.2. Tính sinh thể và tiến hoá: Đây là thuộc tính của cơ thể sống, tức là bảo đảm cung cấp các yếu tố đầu vào, có môi trường tốt, được thích nghi hoá, có bảo dưỡng, duy trì và hoàn thiện. Công nghệ chỉ có thể tồn tại và phát triển nếu được nuôi dưỡng. Nếu xem công nghệ như một đối tượng tĩnh, một sản phẩm “chết" thì trước sau công nghệ sẽ trở thành gánh nặng cho người sử dụng nó. Công nghệ nào cũng có riêng vòng đời của mình cho dù công nghệ nhập từ nước ngoài hay công nghệ phát sinh trong nước đều trải qua những giai đoạn có quan hệ mật thiết lẫn nhau mà người ta gọi nó là vòng đời công nghệ.Vòng đời của công nghệ gồm 4 giai đoạn: nghiên cứu (Research), triển khai (Development), sản xuất (Production) và thị trường (Marketing) . Qua hình 2 ta thấy 4 giai đoạn này gắn liền và có quan hệ tương hỗ với chu kỳ của sản phẩm.Tuy nhiên, công nghệ luôn đi trước và có trước sản phẩm nên giữa công nghệ và sản phẩm luôn có độ chênh lệnh và chính từ đó xuất hiện nhu cầu đổi mới của công nghệ . Hình 2: Sơ đồ chu kì sống và công nghệ của sản phẩm R&D Công nghệ Sản phẩm Ra đời tăng trưởng Chuyển đổi thị trường Độ chênh Bão hoà Bão hoà Độ chênh giữa CN&SP Nhu cầu đổi mới công nghệ CN: SF: R&D Công nghệ Sản phẩm Hoạt động nghiên cứu và triển khai Nguồn: Đoàn Châu Thanh - Chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam trong công cuộc CNH - HĐH nền kinh tế - Luận văn Thạc sĩ kinh tế - Trường Đại học Ngoại thương, tr3 Qua hình 2 cho thấy điểm bão hoà trong chu kì sống của công nghệ luôn xuất hiện trước điểm bão hoà trong chu kì sống của sản phẩm. Mặc dù một sản phẩm còn đang trong giai đoạn tăng trưởng của chu kì sống song công nghệ chế tạo ra sản phẩm đó đã dừng lại ở điểm bão hoà trong chu kì sống. Vì vậy công tác đổi mới công nghệ đối với một doanh nghiệp phải được chú trọng ngay từ khi sản phẩm do công nghệ đó chế tạo ra còn ở giai đoạn tăng trưởng. Nếu công tác đổi mới công nghệ sản xuất chỉ dược tiến hành khi sản phẩm do công nghệ đó chế tạo ra ở điểm bão hoà của chu kì sống, thì chắc chắn rằng việc đổi mới công nghệ của doanh nghiệp đã muộn và doanh nghiệp khó mà giữ được vị thế cạnh tranh trước đó. 3.3. Công nghệ mang bản chất thông tin. Bắt nguồn từ khoa học, công nghệ cũng mang bản chất thông tin. Thông tin công nghệ không dừng ở việc mô tả bản chất của các giải pháp công nghệ, mối quan hệ giữa các yếu tố hàm chứa trong công nghệ, mà còn tổng hợp về giá cả, điều kiện áp dụng, khả năng đạt hiệu quả khi sử dụng công nghệ. Do đó, việc xác định sở hữu, bảo vệ, đánh giá, xử lý, cập nhật trong việc mua bán công nghệ là hết sức phức tạp. Nó đòi hỏi có sự can thiệp và bảo hộ của hệ thống luật pháp không chỉ ở phạm vi quốc gia mà cả quốc tế. Đồng thời nó cũng đòi hỏi các kỹ năng linh hoạt và các kinh nghiệm trong quá trình thăm dò, tình báo, đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ. Để đảm bảo thông tin công nghệ khỏi bị đánh cắp và công nghệ không bị bắt chước, có một thông tin trung gian là thông tin Patent (về các sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi xuất xứ của hàng hoá). Thông tin Patent thể hiện được điểm cốt lõi của công nghệ, nhưng còn thiếu mức độ chi tiết và thiếu yếu tố kỹ thuật, thương mại đồng bộ kèm theo để có thể nắm được công nghệ. Patent là một văn bằng mà nội dung của nó được Nhà nước bảo hộ độc quyền, là bộ phận của hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ thế giới thông qua các hiệp định quốc tế. Việc sử dụng thông tin Patent điều phải được phép của chủ sở hữu và đăng ký với cơ quan quản lý có thẩm quyền (Cục quản lý phát minh sáng chế). Giữa thông tin công nghệ và thông tin khoa học có sự khác nhau. Sự nhầm lẫn về bản chất này có thể dẫn đến những thiếu sót khi xử lý thông tin và thất bại khi sử dụng công nghệ. Thông tin công nghệ là thông tin có thể đem lại lợi nhuận ngay hôm nay hoặc ngày mai, còn thông tin khoa học có thể đem lại lợi nhuận sau một thời gian dài 5 năm chẳng hạn. Thông tin khoa học thường đề cập sâu hơn về một đối tượng, ngược lại thông tin công nghệ lại thường tổng hợp nhiều khía cạnh. Thông tin công nghệ thường rất rộng, không chỉ dừng ở khía cạnh kĩ thuật, mà còn bao quát cả khía cạnh thương mại hoá, sở hữu công nghiệp và những vấn đề xung quanh hoạt động CGCN. Như vậy, công nghệ không chỉ đem lại thông tin về chi tiết kỹ thuật mà còn cung cấp cả các chi tiết khác về mặt công nghệ như đào tạo, huấn luyện, chuyên gia. Để sử dụng công nghệ cần có đầy đủ thông tin để đưa ra các quyết định đầu tư đúng đắn. 3.4. Tính đặc thù. 3.4.1. Đặc thù theo mục tiêu (Objective Specific) Mặc dù khái niệm công nghệ rất rộng nhưng rất cụ thể, công nghệ luôn gắn liền với việc giải quyết một mục tiêu cụ thể. Mỗi một công nghệ cho ra một sản phẩm nhất định với số lượng và chất lượng nhất định, tương ứng với một lượng hao phí nhất định về nhân vật lực để tạo ra sản phẩm đó. Xuất phát từ thuộc tính đặc thù của công nghệ hoạt động (R&D) được định hướng cụ thể tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của mỗi doanh nghiệp và mỗi quốc gia khác nhau. 3.4.2. Đặc thù về địa điểm (Location specific) Khi một công nghệ được chuyển giao từ nơi này sang nơi khác thì nó trở nên khác trước. Khi trở nên lạc hậu ở một nước không còn đáp ứng việc tạo ra sản phẩm mới thì ở nước nước khác nó có thể vẫn được coi là mới và thích hợp. Điều đó có nghĩa là lúc sản phẩm đang ở giai đoạn thoái trào tại nước phát triển công nghệ thì nó lại ở trong giai đoạn cao trào ở nước tiếp nhận công nghệ có nền công nghệ kém phát triển hơn. Sự khác nhau này là do yếu tố của con người, môi trường, thị trường, các yếu tố đầu vào, văn hoá của một nước quyết định. Điều này cho thấy rằng, chuyển giao công nghệ không đơn thuần là chuyển dịch công nghệ từ vị trí địa lý này sang vị trí khác mà là cả quá trình cải tiến sửa đổi thích nghi hoá, "địa phương hoá" cho phù hợp với điều kiện của môi trường mới. 4. Phân loại công nghệ 4.1 . Căn cứ vào mức độ tiên tiến của công nghệ. Căn cứ vào mức độ tiên tiến của công nghệ chia làm 3 loại công nghệ chính: - Công nghệ cao - Công nghệ thường - Công nghệ thấp Những chỉ tiêu đối với một công nghệ cao là: - Tiêu hao một lượng lớn về chi phí (R&D) công nghệ. - áp dụng những giải pháp hoặc kiến thức khoa học mới nhất, sử dụng nhiều phát minh sáng chế mới. - Trình độ tự động hoá cao. - Vận dụng phức hợp nhiều giải pháp công nghệ - Có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghệ khác. Tuy nhiên khái niêm công nghệ cao, chỉ có ý nghĩ tương đối, khái niệm này biến đổi theo thời gian, và được hiểu không giống nhau ở các nước có trình độ công nghệ khác nhau. Một công nghệ cao được hiểu theo những tiêu chí ở trên quá thiên về mặt kỹ thuật, nó chưa tính đến khía cạnh thương mại, bởi lẽ có công nghệ cao chưa hẳn đã đảm bảo thành công về mặt thương mại vì nó phụ thuộc và sự chấp nhận của thị trường. Do đó đứng trên góc độ doanh nghiệp, khi đánh giá công nghệ không thể tách rời các yếu tố kỹ thuật ra khỏi các yếu tố thương mại. Tóm lại một công nghệ được coi là công nghệ cao hiện đại còn cho phép nhà đầu tư đạt được hiệu quả kinh doanh tương ứng thể hiện ở mức độ sinh lợi, giá trị gia tăng, năng suất cao hơn các công nghệ tương tự. 4.2. Căn cứ vào mức độ hàm lượng các nguồn lực trong công nghệ Chia làm 3 công nghệ chính: - Công nghệ có hàm lượng lao động cao (Labour intensive): may mặc, dệt; lắp ráp. - Công nghệ có hàm lượng vốn cao (Capital intensive): đóng tàu cơ khí; khai khoáng. - Công nghệ có hàm lượng tri thức cao (Know intensive): phần mềm, công nghệ sinh học... Các nước phát triển thuộc tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đều đã trải một cách tuần tự trong những “bậc thang công nghệ” đó là chuyển dần từ công nghệ có hàm lượng lao động cao sang công nghệ có hàm lượng vốn và tri thức cao. Tuy nhiên việc giải bài toán “nhảy cóc công nghệ” (thực hiện chu trình công nghệ đứt đoạn : nhảy từ chu trình công nghệ hiện có sang một chu trình công nghệ cao hơn tiên tiến hơn của các nước phát triển), là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đặt ra với các nước đang phát triển trong thời đại ngày nay để rút ngắn khoản cách về trình độ và năng suất của nền sản xuất so với nền sản xuất của các nước phát triển. 5. Xu hướng phát triển của công nghệ thế giới hiện nay Hiện nay, trên thế giới theo OECD, những ngành mũi nhọn công nghệ cao đang được phát triển mạnh mẽ ở những nước công nghiệp như Mỹ, Nhật, các nước Đông Âu và đặc biệt các nước công nghiệp mới (NICs) ở Châu á đó là những ngành công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ gia công chính xác trong chế tạo máy, tự động hoá, năng lượng mới, công nghệ hàng không vũ trụ... Đây là những ngành thể hiện những xu thế phát triển chủ yếu hiện nay của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ thế giới. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ này đã đưa vai trò của các yếu tố lợi thế so sánh cạnh tranh có tính truyền thống như tài nguyên, vốn, sức lao động xuống hàng thứ yếu sau yếu tố về trí tuệ (kỹ năng công nghệ). Tổ chức hoạt động khoa học có tính sáng tạo sẽ là nền tảng của sự phát triển thịnh vượng và giàu có của mỗi quốc gia và xã hội. Điện tử tin học, công nghệ sinh học và
Tài liệu liên quan