Đề tài Chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc và tác động của nó đến thương mại toàn cầu

Trong những năm gần đây, với tốc độ tăng trưởng cao và ổn định của nền kinh tế, Trung Quốc đã vượt qua 3 trụ cột kinh tế chính đang phục hồi chậm chạp đó là Mỹ, Nhật Bản và Tây Âu về tốc độ tăng trưởng kinh tế. Vai trò của Trung Quốc trên trường quốc tế ngày càng tăng nhanh, nhất là trên lĩnh vực thương mại. Sự thành công đó một phần là nhờ vào việc hoạch định và điều hành các chính sách của chính phủ Trung Quốc khá sát với tình hình đất nước và trên thế giới. Với chính sách tỷ giá hiện nay của mình, Trung Quốc đang dần trở thành nguồn cung cấp hàng hoá cho toàn thế giới. Điều này đã khiến cho các nền kinh tế lớn lo ngại và trở thành đề tài chính trong các cuộc thương thảo về thương mại hiện nay. Trong năm 2010 những khái niệm như thâm hụt thương mại,chiến tranh tiền tệ là những chủ đề nóng nhất trên các diễn đàn thương mại thế giới,trong đó một trong những vấn đề được tranh cãi nhiều nhất đó là vấn đề về chính sách tỷ giá của Trung Quốc.Vậy để tìm hiểu sâu hơn về những vấn đề trên chúng em đã lựa chọn đề tài: "Chính sách tỷ giá của Trung Quốc và tác động của nó tới thương mại Toàn cầu".

doc62 trang | Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1757 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc và tác động của nó đến thương mại toàn cầu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Trong những năm gần đây, với tốc độ tăng trưởng cao và ổn định của nền kinh tế, Trung Quốc đã vượt qua 3 trụ cột kinh tế chính đang phục hồi chậm chạp đó là Mỹ, Nhật Bản và Tây Âu về tốc độ tăng trưởng kinh tế. Vai trò của Trung Quốc trên trường quốc tế ngày càng tăng nhanh, nhất là trên lĩnh vực thương mại. Sự thành công đó một phần là nhờ vào việc hoạch định và điều hành các chính sách của chính phủ Trung Quốc khá sát với tình hình đất nước và trên thế giới. Với chính sách tỷ giá hiện nay của mình, Trung Quốc đang dần trở thành nguồn cung cấp hàng hoá cho toàn thế giới. Điều này đã khiến cho các nền kinh tế lớn lo ngại và trở thành đề tài chính trong các cuộc thương thảo về thương mại hiện nay. Trong năm 2010 những khái niệm như thâm hụt thương mại,chiến tranh tiền tệ là những chủ đề nóng nhất trên các diễn đàn thương mại thế giới,trong đó một trong những vấn đề được tranh cãi nhiều nhất đó là vấn đề về chính sách tỷ giá của Trung Quốc.Vậy để tìm hiểu sâu hơn về những vấn đề trên chúng em đã lựa chọn đề tài: "Chính sách tỷ giá của Trung Quốc và tác động của nó tới thương mại Toàn cầu". Những vấn đề chung về chính sách tỷ giá hối đoái: Chính sách tỷ giá hối đoái là gì? Chính sách tỷ giá hối đoái là một hệ thống các công cụ được dùng để tác động tới quan hệ cung- cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối, từ đó giúp điều chỉnh tỷ giá hối đoái nhằm đạt tới những mục tiêu cần thiết. Về cơ bản, chính sách tỷ giá hối đoái gồm hai vấn đề lớn: một là vấn đề lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái và hai là vấn đề điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Các công cụ của chính sách tỷ giá hối đoái: Nhóm công cụ trực tiếp: NHTW thông qua việc mua bán đồng ngoại tệ nhằm duy trì một tỷ giá cố định hay ảnh hưởng làm cho tỷ giá thay đổi đạt tới một mức nhất định theo mục tiêu đã đề ra. Hoạt động can thiệp trực tiếp của ngân hàng trung ương tạo ra hiệu ứng thay đổi cung tiền có thể tạo ra áp lực lạm phát hay thiểu phát không mong muốn cho nền kinh tế vì vậy đi kèm hoạt động can thiệp này của NHTW thì phải sử dụng thêm nghiệp vụ thị trường mở để hấp thụ lượng dư cung hay bổ sung phần thiếu hụt tiền tệ ở lưu thông. Nghiệp vụ thị trường mở ngoại tệ được thực hiện thông qua việc NHTW tham gia mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ. Một nghiệp vụ mua ngoại tệ trên thị trường của NHTW làm giảm cung ngoại tệ do đó làm tăng tỷ giá hối đoái và ngược lại. Do đó đây là công cụ có tác động mạnh lên tỷ giá hối đoái. Nghiệp vụ thị trường mở nội tệ là việc NHTW mua bán có chứng từ có giá. Tuy nó chỉ tác động gián tiếp đến tỷ giá nhưng lại có tác động trực tiếp đến các biến số kinh tế vĩ mô khác như lãi suất, giá cả. Nó được dùng phối hợp với nghiệp vụ thị trường mở ngoại tệ để khử đi sự tăng, giảm cung nội tệ do nghiệp vụ thị trường mở gây ra. Ngoài ra Chính phủ có thể sử dụng biện pháp can thiệp hành chính như biện pháp kết hối, quy định hạn chế đối tượng được mua ngoại tệ, quy định hạn chế mục đích sử dụng ngoại tệ, quy định hạn chế số lượng mua ngoại tệ, quy định hạn chế thời gian mua ngoại tệ, nhằm giảm cầu ngoại tệ, hạn chế đầu cơ và giữ cho tỷ giá ổn định. Nhóm công cụ gián tiếp: Lãi suất tái chiết khấu là công cụ hiệu quả nhất. Cơ chế tác động đến tỷ giá hối đoái của nó như sau: Khi lãi suất chiết khấu thay đổi kéo theo sự thay đổi cùng chiều của lãi suất trên thị trường. Từ đó tác động đến xu hướng dịch chuyển của dòng vốn quốc tế làm thay đổi tài khoản vốn hoặc ít nhất làm cho người sở hữu vốn trong nước chuyển đổi đồng vốn của mình sang đồng tiền có lãi suất cao hơn để thu lợi và làm thay đổi vốn của mình sang đồng tiền có lãi suất cao hơn để thu lợi và làm thay đổi tỷ giá hối đoái. Cụ thể lãi suất tăng dẫn đến xu hướng là một dòng vốn vay ngắn hạn trên thị trường thế giới sẽ đổ vào trong nước và người sở hữu vốn ngoại tệ trong nước sẽ có xu hướng chuyển đồng ngoại tệ của mình sang nội tệ để thu lãi suất cao hơn do đó tỷ giá sẽ giảm (nội tệ tăng) và ngược lại muốn tăng tỷ giá sẽ giảm lãi suất tái chiết khấu. Muốn giảm tỷ giá hối đoái thì Chính Phủ có thể quy định mức thuế quan cao, quy định hạn ngạch và thực hiện trợ giá cho những mặt hàng xuất khẩu chiến lược. Và ngược lại sẽ làm tăng tỷ giá hối đoái. Ngoài ra Chính Phủ có thể sử dụng một số biện pháp khác như điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ với NHTW, quy định mức lãi suất trần kém hấp dẫn đối với tiền gửi bằng ngoại tệ. Mục đích là phòng ngừa rủi ro tỷ giá, hạn chế đầu cơ ngoại tệ, làm giảm áp lực lên tỷ giá khi cung cầu mất cân đối. Tác động của chính sách tỷ giá hối đoái đến thương mại quốc tế: Cơ sở và mục đích của thương mại quốc tế: Đó chính là lợi thế so sánh và lợi thế nhờ quy mô. Sự khác biệt về tài nguyên thiên nhiên, trình độ sản xuất và điều kiện sản xuất dẫn tới sự khác biệt về chi phí sản xuất và giá cả sản phẩm giữa các nước. Thông qua trao đổi quốc tế, các nước có thể cung cấp cho thế giới những loại hàng mà họ sản xuất tương đối rẻ hơn và mua từ thế giới những loại hàng tương đối rẻ hơn từ các nước khác. Những lợi ích thương mại này càng lớn khi kết hợp với lợi thế kinh tế nhờ quy mô. Thay vì mỗi nước phải có nhiều cơ sở sản xuất quy mô nhỏ không khai thác được công suất tối ưu,các nước khác nhau có thể hợp tác xây dựng những cơ sở sản xuất có qui mô lớn và mọi người đều được lợi do việc giảm bớt những chi phí về sản xuất. Trước hết, dựa vào lợi thế so sánh của mình các nước sẽ xuất khẩu những sản phẩm mà mình sản xuất tương đối có hiệu quả đó là những hàng hoá cần nhiều nguồn lực mà họ dồi dào và nhập khẩu những sản phẩm mà họ sản xuất tương đối kém hiệu quả hay đó là những hàng hoá cần nhiều nguồn lực mà họ không có nhiều. Do các nước có nguồn lực khác nhau, nên một nước có thể có nhiều lao động, tài nguyên phong phú nhưng thiếu vốn và trình độ công nghệ trong khi nước khác có ít lao động nhưng trình độ công nghệ cao nên khi tham gia vào thương mại quốc tế các nước có thể phát huy được lợi thế của mình. Bên cạnh đó, khi tham gia thương mại quốc tế khả năng tiêu dùng ở mỗi nước được mở rộng, mỗi người dân được cung cấp nhiều loại hàng hoá hàng với chất lượng được cải thiện hơn, phong phú hơn và thoả mãn được những nhu cầu cao hơn. Mặt khác, dựa vào lợi thế kinh tế nhờ qui mô khi tham gia quan hệ thương mại quốc tế cũng thu được lợi ích, ngoài những lợi ích thu được từ lợi thế so sánh. Lợi thế qui mô giải thích tại sao các nước lại tiến hành thương mại trong ngành đó là việc một nước vừa xuất khẩu và nhập khẩu cùng một loại hàng hoá nào đó. Do ngày nay sự phát triển của các nước công nghiệp ngày càng trở nên giống nhau về trình độ công nghệ và các nguồn lực, lợi thế so sánh ở nhiều ngành không bộc lộ rõ nữa, cho nên để tiếp tục duy trì thương mại quốc tế lợi thế về qui mô thực hiện sự trao đổi nhiều chiều trong nội bộ ngành được coi là biện pháp chiến lược. Thông qua thương mại trong ngành, một nước cùng một lúc có thể giảm bớt số loại sản phẩm tự mình sản xuất và tăng thêm sự đa dạng của hàng hoá cho người tiêu dùng trong nước. Do sản xuất ít chủng loại hơn, nước đó có thể sản xuất mỗi loại hàng hoá ở qui mô lớn hơn, với năng xuất lao động cao hơn và chi phí thấp hơn. Vì vậy, người sản xuất sẽ có lợi nhuận cao hơn và người tiêu dùng cũng được lợi hơn bởi chi phí rẻ hơn và có phạm vi lựa chọn rộng hơn. Mọi quốc gia khi tham gia vào thương mại quốc tế đều có thể thu được lợi, những lợi ích cụ thể này lại phụ thuộc vào điều kiện và trình độ phát triển của từng quốc gia. Nhưng cho dù với bất kỳ quốc gia nào thì không thể phủ nhận lợi ích thu được từ thương mại quốc tế. Và việc sử dụng tỷ giá hối đoái vừa là chính sách, vừa là công cụ có tác động lớn tới quy mô và mức độ của những lợi ích này. Vai trò của thương mại quốc tế đến sự phát triển kinh tế của các nước: Từ sự phân tích trên, chúng ta thấy rằng thương mại quốc tế đều manglại lợi ích cho các quốc gia tham gia. Nếu các nước này biết khai thác các cơ sở thương mại của mình thì sẽ đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu và có thể đẩy nhanh quá trình phát triển nền kinh tế. Trước hết là hoạt động xuất khẩu, có tác động rất lớn đến phát triển kinh tế của đất nước. Hoạt động xuất khẩu kích thích các ngành kinh tế phát triển, góp phần tăng tích luỹ vốn, mở rộng sản xuất trong nước, nâng cao trình độ tay nghề và thói quen làm việc của những lao động trong sản xuất hàng xuất khẩu, tăng thu nhập, cải thiện mức sống của nhân dân. Bên cạnh đó, ngoại tệ thu được sẽ làm tăng nguồn dự trữ ngoại tệ giúp cho quá trình ổn định đồng nội tệ và chống lạm phát dẫn đến ổn định nền kinh tế. Vai trò của xuất khẩu còn thể hiện ở việc tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. Điều đó tạo ra những lợi thế so sánh mới của một nước và thúc đẩy ngoại thương của nước đó phát triển. Khi mà xuất khẩu càng phát triển, càng có điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm và tăng khả năng cung cấp những nguồn lực khan hiếm cho quá trình sản xuất và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Đối với các nước đang phát triển thì xuất khẩu có thể nâng cao năng lực sản xuất trong nước, còn đối với các nước phát triển xuất khẩu có thể giải quyết được mâu thuẫn giữa sản xuất và thị trường. Với vai trò to lớn đối với nền kinh tế như vậy, các nước cần khai thác hợp lý những lợi ích thu được từ hoạt động xuất khẩu, nhất là trong giai đoạn đầu khi mới tham gia vào thương mại quốc tế. Song song với hoạt động xuất khẩu là hoạt động nhập khẩu. Nếu như xuất khẩu được coi là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế xã hội thì nhập khẩu lại được coi là nền tảng để thực hiện vai trò đó. Thực tế đã cho thấy, nhập khẩu có thể tác động trực tiến đến sản xuất, kinh doanh và thương mại thông qua việc đổi mới trang thiết bị, công nghệ sản xuất, cung cấp các nguồn lực khan hiếm....Đồng thời nhập khẩu còn giúp cho việc cải thiện và nâng cao đời sống dân cư của một nước bằng việc cung cấp nhiều hàng hoá hơn, chất lượng hơn và rẻ hơn. Tuy nhiên, không nên khai thác quá mức lợi ích của nhập khẩu, nếu không sẽ có thể biến quốc gia thành bãi thải của công nghệ lạc hậu, không thúc đẩy sản xuất trong nước, tạo tâm lý tiêu dùng trong nước không tốt... Tác động của chính sách tỷ giá hối đoái tới thương mại: Có thể nói, tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái là những côngcụ kinh tế vĩ mô chủ yếu để điều tiết cán cân thương mại quốc tế theo mụctiêu định trước của một nước. Trước hết, tỷ giá và những biến động của tỷ giá có ảnh hưởng trực tiếp đến mức giá cả hàng hoá dịch vụ xuất nhập khẩu của một nước. Khi tỷgiá thay đổi theo hướng làm giảm sức mua đồng nội tệ, thì giá cả hàng hoá dịch vụ của nước đó sẽ tương đối rẻ hơn so với hàng hoá dịch vụ nước khác ở cả thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Dẫn đến cầu về xuất khẩu hàng hoá dịch vụ của nước đó sẽ tăng, cầu về hàng hoá dịch vụ nước ngoài của nước đó sẽ giảm và tạo ra sự thặng dư của cán cân thương mại. Ví dụ: Trước đây 1USD = 14000VND . Một chiếc máy tính giá 750USD được nhập khẩu và tính ra đồng nội tệ của Việt Nam là 10.500.000VND. Đến nay, giả sử giá chiếc máy tính không đổi, trong khi tỷ giá thay đổi1USD = 15000VND thì cũng chiếc máy tính đó được nhập khẩu và bán vớigiá 11.250.000VND. Giá đắt hơn, nhu cầu nhập máy tính sẽ giảm. Nhưngđối với xuất khẩu thì ngược lại khi tỷ giá 1USD = l4000VND, giá xuất khẩu1 tấn gạo với chi phí sản xuất là 3,5 triệu VND là 250USD, nhưng với chi phí sản xuất không đổi thì giá bán chỉ khoảng 233USD. Giá giảm cầu xuất khẩu sẽ tăng. Trong trường hợp ngược lại, khi tỷ giá biến đổi theo hướng làm tăng giá đồng nội tệ. Sự tăng giá của đồng nội tệ có tác động hạn chế xuất khẩu vì cùng một lượng ngoại tệ thu được do xuất khẩu sẽ đổi được ít hơn đồng nội tệ. Tuy nhiên, đây là cơ hội tốt cho các nhà nhập khẩu, nhất là nhập khẩu nguyên liệu, máy móc để phục vụ cho nhu cầu sản xuất trong nước. Đồng thời, lượng ngoại tệ chuyển vào trong nước có xu hướng giảm xuống làm khối lượng dự trữ ngoại tệ ngày càng bị xói mòn vì khuynh hướng giá tăng nhập khẩu để có được lợi nhuận, có thể gây nên tình trạng mất cân đối cán cân thương mại quốc tế. Tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái không chỉ tác động trực tiếp đến ngoại thương thông qua sự tác động của nó đến xuất khẩu, mà còn tác động một cách gián tiếp đến ngoại thương thông qua sự tác động làm thay đổi luồng di chuyển tư bản ra vào quốc gia. Như khi tỷ giá thay đổi theo hướng giảm giá đồng nội tệ sẽ có tác động gia tăng việc thu hút đầu tư nước ngoài. Khi luồng vốn chảy vào trong nước sẽ tạo điều kiện mở rộng sản xuất trong nước, tránh được những rào cản của chính sách bảo hộ thương mại, sẽ đẩy mạnh hoạt động ngoại thương. Những tác động kể trên của tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái đến hoạt động ngoại thương nói riêng và nền kinh tế nói chung làm cho các nhà quản lý ở các quốc gia đều muốn quản lý, điều tiết tỷ giá và chính sách tỷ giá theo những mục tiêu kinh tế xã hội đã định. Chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc trong quá trình cải cách và chuyển đổi: Thời kì chuyển từ tỷ giá cố định sang thả nổi theo sát với những diễn biến của tỷ giá thị trường: (1981-1993) Cho đến đầu những năm 1980, Trung Quốc thực hiện chính sách tỷ giá cố định, gắn đồng NDT luôn cao hơn giá trị thực của nó. Điều này kéo theo một loạt tiêu cực như: hàng xuất khẩu kém sức cạnh tranh, mất cân đối nghiêm trọng trong nền kinh tế. Ngân sách quốc gia hàng năm phải bù lỗ nhiều cho cả sản xuất và tiêu dùng. Như năm 1989 mức bù lỗ là 76,3 tỷ NDT tương đương với 29% thu nhập tài chính. Vào lúc này tổng số nợ của Trung Quốc lên tới 47 tỷ USD, trong khi dự trữ ngoại tệ quốc gia hầu như cạn kiệt và lạm phát trong nước lên cao. Để đẩy mạnh xuất khẩu, nhằm đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, đồng thời cùng với việc thực hiện các biện pháp cải cách kinh tế, Trung Quốc đã liên tục tiến hành điều chỉnh tỷ giá hối đoái danh nghĩa theo hướng giảm giá trị đồng NDT bị đánh giá cao trước đây cho phù hợp với sức mua thực tế của nó trên thị trường trong suốt thời gian đầu của quá trình cải cách cho đến đầu những năm 90. Từ năm 1981-1985, Trung Quốc luôn luôn muốn thực hiện chế độ một loại giá hàng, một tỷ giá thống nhất nhưng do nhiều nguyên nhân nên trong giai đoạn cải cách này bên cạnh sự tồn tại tỷ giá giao dịch thương mại nội bộ, tỷ giá chính thức thường xuyên thay đổi, hầu hết là phá giá. Theo thống kê, đồng NDT được điều chỉnh 23 lần trong năm 1981, 28 lần trong năm 1982 và 56 lần trong năm 1984 ở các mức độ khác nhau để tiến tới tỷ giá thực của nó. Cải cách, điều chỉnh phần lớn là phá giá dẫn đến tỷ giá chính thức ngang bằng với tỷ giá nội bộ vào cuối 1984, và cuối cùng là thống nhất một tỷ giá. Cho tới cuối những năm 80, tỷ giá chính thức ít biến động nhưng lại có mức phá giá nhanh khi biến động, bên cạnh đó sự phát triển của thị trường ngoại hối đã tạo nên sự biến đổi mạnh mẽ của tỷ giá. Rađời từ đầu những năm 1980 ở Trung Quốc, thị trường ngoại hối phát triển rất nhanh từ sau năm 1986 dẫn tới hình thành một mạng lưới thanh toán dựa vào thị trường . Cơ sở cho sự tồn tại thị trường này là quyền tự chủ của các doanh nghiệp xuất khẩu do Trung Quốc cho phép các nhà xuất khẩu được được giữ một phần ngoại hối, nhằm khuyến khích tăng khả năng hoạt động xuất khẩu. Với sự hiện diện của thị trường này, đã làm cho tỷ giá trao đổi từng bước được dao động tự do hơn. Chính sách tỷ giá trong thời kỳ này đã giúp Trung Quốc đẩy mạnh xuất khẩu, giảm thâm hụt cán cân thương mại, cán cân thanh toán và đưa đất nước ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế. Nếu như năm 1978 tổng kinh ngạch xuất nhập khẩu chỉ đạt 20,64 tỷ USD bằng 9,8% GDP, đứng thứ 27 trên thế giới về buôn bán đối ngoại,cán cân thương mại bị thâm hụt 15.002 triệu USD thì nhờ thương mại phát triển đến năm 1990 cán cân thương mại đã đạt được mức thặng dư 8.646 triệuUSD. Sau những điều chỉnh thử nghiệm thành công ban đầu, chính phủTrung Quốc quyết định tiếp tục điều chỉnh chính sách tỷ giá theo hướng đã vạch ra. Vào đầu những năm 90 (1991- 1993), Trung Quốc chính thức công bố áp dụng một tỷ giá thả nổi. Trong giai đoạn này, tỷ giá trao đổi của đồng NDT thường xuyên dao động, đồng NDT hầu như hạ giá. Nhờ tăng tỷ lệ ngoại hối phân bổ thông qua tương tác giữa cung và cầu trên thị trường,những hoạt động kiểm soát về ngoại hối đã giảm dần, trong khi đó các lực lượng thị trường được tính đến nhiều hơn trong các quyết định liên quan đến tỷ giá. Sau khi tỷ giá được điều chỉnh tương đối sát với biến đổi của thị trường và sức mua thực tế của đồng NDT, tỷ giá danh nghĩa giữa đồng NDTvới USD tương đối ổn định ở mức 5,2 - 5,8 NDT/USD. Tuy nhiên, mức điều chỉnh này được dựa vào mức giá giữa Trung Quốc và Mỹ đã làm cho lạm phát cao ở Trung Quốc tác động xấu tới mục tiêu tăng trưởng và thúc đẩy xuất khẩu của nền kinh tế. Như từ mức thặng dư thương mại là 9.165triệu USD với tốc độ lạm phát 3,06% năm 1990 thì đến năm 1993 cán cân thương mại bị thâm hụt 10.654 triệu USD và tốc độ lạm phát là 14,58%. Có thể nói đây là những bước đầu tiên của quá trình chuyển đổi tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá ở Trung Quốc, là giai đoạn để cho tỷ giá ấn định trước đây được thả nổi theo sát với những diễn biến của thị trường. Thời kì phá giá mạnh đồng Nhân dân tệ và thống nhất hai tỷ giá hướng tới một đồng Nhân dân tệ có khả năng chuyển đổi: (1994-1997) Nhận thấy nguy cơ đồng NDT có khả năng trở lại tình trạng bị đánh giá cao so với sức mua thực tế, chính phủ Trung Quốc đã quyết định chuyển hướng điều chỉnh chính sách tỷ giá hối đoái. Ngày 1-1-1994, đồng NDT chính thức bị tuyên bố phá giá mạnh từ 5,8 NDT/USD xuống 8,7 NDT/USD, và thống nhất các mức giá thành một tỷ giá chung. Tuy nhiên, tỷ giá danh nghĩa bắt đầu lên giá chậm chạp và cuối cùng ổn định ở mức 8,3NDT/USD. Để giảm bớt tác động của sự thay đổi trong chính sách tỷ giá lên thị trường tiền tệ, vào thời kỳ này chính phủ Trung Quốc đã ban hành một loạt những biện pháp hỗ trợ và quản lý ngoại hối như: thực hiện chế độ ngân hàng kết hối, xoá bỏ sự găm giữ ngoại tệ và tăng giá ngoại hối của các công ty, xây dựng thị trường giao dịch ngoại tệ liên ngân hàng; cải tiến cơ chế hình thành tỷ giá hối đoái; xoá bỏ kế hoạch mang tính mệnh lệnh đối với thu chi ngoại hối… kết hợp với các biện pháp kiểm soát chặt chẽ của ngân hàng Trung Ương Trung Quốc. Đối với công ty nước ngoài, Trung Quốc yêu cầu phải có bảng cân đối ngoại tệ hàng năm. Đối với các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài phải có giấy phép đổi ngoại tệ mạnh sang NDT. Còn đối với doanh nghiệp nhà nước, yếu cầu phải nộp 100% ngoại tệ thu được thay vì 50% trước đây. Tuy nhiên, Trung Quốc đã có những điều chỉnh quản lý ngoại hối lỏng hơn như: cho phép các công nước ngoài từng bước được giao dịch, mua bán ngoại tệ mạnh, tạo điều kiện để đồng NDT xâm nhập mạnh hơn vào thị trường tiền tệ, tài chính thế giới… Kết quả của điều chỉnh và phá giá mạnh đồng NDT trong thời kỳ này của Trung Quốc đã giúp nước này không chỉ thu được những lợi ích trong ngắn hạn, nhanh chóng đẩy mạnh xuất khẩu, chiếm lĩnh nhiều thị phần quan trọng trên thị trường quốc tế, mà còn tạo cơ sở để Trung Quốc duy trì chính sách tỷ giá ổn định trong một thời gian dài, giảm thiểu những rủi ro hối đoái và tạo môi trường hấp dẫn thu hút mạnh các nguồn đầu tư nước ngoài. Dưới đây là số liệu về FDI, lạm phát và xuất nhập khẩu của Trung Quốc trong thời kì này. Chính sách tỷ giá duy trì ổn định đồng NDT yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu, tăng trưởng kinh tế cao và giảm những cú sốc từ bên ngoài (1997-2005). Dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, môi trường kinh tế quốc tế đã có nhiều biến động đáng kể. Các nước bị khủng hoảng rơi vào tình trạng suy thoái, mức sống của người dân bị sụt giảm đáng kể. Cuộc khủng hoảng này đã làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế và thương mại toàn cầu chậm lại. Trung Quốc không phải là một ngoại lệ. Xuất khẩu và đầu tư nước ngoài giảm mạnh. Vấn đề sản xuất dư thừa ngày càng trở nên trầm trọng trong các ngành công nghiệp chế biến. Giá thị trường liên tục giảm xuống và dần dần xuất hiện những dấu hiệu giảm phát. Trước tình hình đó, chính phủ Trung Quốc đã có chủ trương không phá giá đồng NDT, tỷ giá vẫn giữ ở mức 8,3NDT/USD, với biên độ giao động nhỏ. Nhờ đó mà n