Đề tài Chủ nghĩa lãng mạn trong văn chương được thể hiện rõ nét qua các phương diện sau

Thuật ngữ chỉ chung các trào lưu văn học nghệ thuật ra đời vào khoảng cuối thế kỉ 18 và phát triển nhất vào thế kỉ 19 ở nhiều nước phương Tây. CNLM chủ trương dựa chủ yếu vào tình cảm và ước mơ, tưởng tượng của người nghệ sĩ để sáng tác. Thực tiễn cuộc sống cũng thông qua sự cảm nhận chủ quan và khát vọng riêng tư của từng nghệ sĩ để tự biểu hiện, chứ không dựa hẳn vào thực tại khách quan và sự miêu tả phân tích cụ thể của tác giả như trong chủ nghĩa hiện thực. CNLM xuất hiện ở Anh vào thế kỉ 18 với các nhà thơ được xem là những nhà tiền lãng mạn chủ nghĩa như Kisơ (E. E. Kisch), Câulơrit (S. T. Coleridge), Yăng (Ch. A. Young), Bairơn (G. G. N. Byron) và các nhà tiểu thuyết như Richơtxơn (S. Richardson), Gônxmit (O. Goldsmith), Xcôt (W. Scott). Từ Anh, trào lưu ấy lan ra khắp Châu Âu, phát triển cả vào kịch thành kịch bi lụy, "làm rơi nước mắt". Nhà triết học Đức Slêghen (F. Schlegel) đặt ra từ "romantish" để gọi trào lưu này và ở Pháp, nhà văn Thuỵ Sĩ gốc Pháp - bà Xtaen (G. N. Staël) là người đầu tiên dùng từ "romantisme". Đến thế kỉ 19, ở Pháp CNLM phát triển thành một trào lưu có hệ thống luận điểm, có phương pháp sáng tác riêng, phổ biến trên mọi lĩnh vực, thơ, tiểu thuyết như trong các tác phẩm của Lamactin (A. de Lamartine), Muyxê (A. de Musset), Vinhy (A. de Vigny), V. Huygô (V. Hugo). Theo nhà nghiên cứu mĩ học, triết học Hungari Lukac (G. Lukacs) thì cho đến nay có đến 11.396 định nghĩa về CNLM. Có thể rút ra một số nét phổ biến của CNLM trong văn học ở phương Tây với tư cách là một khuynh hướng và một phương pháp sáng tác: say đắm cảnh vật thiên nhiên, nhớ tiếc cuộc sống của con người thời nguyên thuỷ, nỗi nhớ nhung, đau khổ về tình yêu, những khát vọng vì một xã hội công bằng, bác ái, hạnh phúc, nhu cầu biểu hiện cá tính mãnh liệt.

doc24 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 4271 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chủ nghĩa lãng mạn trong văn chương được thể hiện rõ nét qua các phương diện sau, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chủ nghĩa lãng mạn trong văn chương được thể hiện rõ nét qua các phương diện sau: Đề tài Không phân biệt đề tài cao cả hay thấp hèn. Nếu trong chủ nghĩa cổ điển đề tài là cảnh sống giàu có, hành động đấu tranh cho lý tưởng cao cả của những ông hoàng bà chúa hoàn toàn không đề cập đế những khía cạnh đời sống của những tầng lớp dưới( những người bình dân). Thì ở chủ nghĩa lãng mạn mọi vấn đề của cuộc sống, mọi tầng lớp trong xã hội đều ngang nhau trở thành đề tài cho văn học nghệ thuật. Nhân vật Mọi người dù ở bất kỳ tầng lớp xã hội nào cũng đều được phản ánh qua các tác phẩm của chủ nghĩa lãng mạn, không phân biệt giai cấp, mọi người đều có quyền bước chân vào văn học. Văn học lãng mạn đã thành công khi thể hiện hình ảnh "đám đông" quần chúng với những kiếp người đau khổ. Vd: Hình ảnh đám đông trong Nhà thờ đức bà Paris của Victor Hugo. Thể loại Chủ nghĩa lãng mạn trong văn học không có sự phân biệt thiếu dân chủ (như trong chủ nghĩa cổ điển) không phân chia thể loại cao cả và thấp hèn, nhưng thể loại thích hợp và được sử dụng nhiều hơn cả là thơ trữ tình và tiểu thuyết. Ngôn ngữ Câu văn trở nên linh hoạt, thủ pháp nghệ thuật được sử dụng nhiều hơn. CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN: thuật ngữ chỉ chung các trào lưu văn học nghệ thuật ra đời vào khoảng cuối thế kỉ 18 và phát triển nhất vào thế kỉ 19 ở nhiều nước phương Tây. CNLM chủ trương dựa chủ yếu vào tình cảm và ước mơ, tưởng tượng của người nghệ sĩ để sáng tác. Thực tiễn cuộc sống cũng thông qua sự cảm nhận chủ quan và khát vọng riêng tư của từng nghệ sĩ để tự biểu hiện, chứ không dựa hẳn vào thực tại khách quan và sự miêu tả phân tích cụ thể của tác giả như trong chủ nghĩa hiện thực. CNLM xuất hiện ở Anh vào thế kỉ 18 với các nhà thơ được xem là những nhà tiền lãng mạn chủ nghĩa như Kisơ (E. E. Kisch), Câulơrit (S. T. Coleridge), Yăng (Ch. A. Young), Bairơn (G. G. N. Byron) và các nhà tiểu thuyết như Richơtxơn (S. Richardson), Gônxmit (O. Goldsmith), Xcôt (W. Scott). Từ Anh, trào lưu ấy lan ra khắp Châu Âu, phát triển cả vào kịch thành kịch bi lụy, "làm rơi nước mắt". Nhà triết học Đức Slêghen (F. Schlegel) đặt ra từ "romantish" để gọi trào lưu này và ở Pháp, nhà văn Thuỵ Sĩ gốc Pháp - bà Xtaen  (G. N. Staël) là người đầu tiên dùng từ "romantisme". Đến thế kỉ 19, ở Pháp CNLM phát triển thành một trào lưu có hệ thống luận điểm, có phương pháp sáng tác riêng, phổ biến trên mọi lĩnh vực, thơ, tiểu thuyết như trong các tác phẩm của Lamactin (A. de Lamartine), Muyxê (A. de Musset), Vinhy (A. de Vigny), V. Huygô (V. Hugo). Theo nhà nghiên cứu mĩ học, triết học Hungari Lukac (G. Lukacs) thì cho đến nay có đến 11.396 định nghĩa về CNLM. Có thể rút ra một số nét phổ biến của CNLM trong văn học ở phương Tây với tư cách là một khuynh hướng và một phương pháp sáng tác: say đắm cảnh vật thiên nhiên, nhớ tiếc cuộc sống của con người thời nguyên thuỷ, nỗi nhớ nhung, đau khổ về tình yêu, những khát vọng vì một xã hội công bằng, bác ái, hạnh phúc, nhu cầu biểu hiện cá tính mãnh liệt. Ở Việt Nam, ở các thế kỉ trước chưa có CNLM trong các loại hình thơ, chỉ từ loại thơ tức cảnh, thơ suy tư triết lí đến các truyện thơ thì mới có những yếu tố lãng mạn đậm nét về mặt cảm xúc và biểu hiện ngôn từ. "Truyện Kiều" của Nguyễn Du căn bản mang tính hiện thực nhưng chứa đựng những yếu tố lãng mạn sâu sắc về tả tình và tả cảnh. Trong các loại ca hát dân gian (quan họ, ca trù, lí...), tính chất lãng mạn thể hiện rất rõ qua các làn điệu, giai điệu, các lời hát uyển chuyển, duyên dáng, bộc lộ một tâm hồn nhạy cảm trước thiên nhiên, cảnh vật, một mơ ước tha thiết về tình yêu, tình người. Trước Cách mạng tháng Tám, văn học Việt Nam đã tiếp thu ảnh hưởng của thơ văn lãng mạn Pháp. Phong trào Thơ mới mang tính chất một trào lưu lãng mạn bao gồm cả quan điểm và phương pháp sáng tác mà đại diện là các nhà thơ Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ, Tế Hanh... Về tiểu thuyết, đại diện có nhóm tác giả trong Tự lực văn đoàn như Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo. Trong lĩnh vực âm nhạc, CNLM có ưu thế nghiêng về khuynh hướng tiến bộ. Nói chung, tác phẩm của những nhạc sĩ lãng mạn đều thể hiện nổi bật những tư tưởng yêu nước và dân chủ, tinh thần phản kháng chống sự áp bức dân tộc và xã hội, sự đè nén cá tính con người. Ngay trong thế kỉ 18 đã xuất hiện những trào lưu âm nhạc báo hiệu trước sự ra đời của CNLM, nhưng phải đến đầu thế kỉ 19 CNLM mới trở thành một khuynh hướng độc lập: Sube (F. Schubert), Vebơ (C. M. Weber), Sporơ (L. Spohr), Paganini (N. Paganini), Rôxini (G. Rossini)... và phát triển tiếp đến giữa thế kỉ đó: Sôpanh (F. Chopin), Menđenxơn (F. Mendelsohn), Suman (R. Schumann), Vecnơ (J. Verne), Lixtơ (F. Liszt), Becliôzơ (H. Berlioz), Ôbe (E. Auber), Mâyơbêơ (J. Meyerbeer), Belini (V. Bellinni), Vecđi (G. Verdi). Ở Việt Nam, trước Cách mạng tháng Tám, xuất hiện một số tác phẩm âm nhạc lãng mạn của Đặng Thế Phong, Văn Cao, Dương Thiệu Tước, Lê Thương, vv. Trong hội hoạ và điêu khắc, CNLM phản kháng kịch liệt những phép tắc ngặt nghèo của chủ nghĩa hàn lâm (xt. Xu hướng lãng mạn). Tiếng kèn thúc đẩy CNLM chính là cuộc Cách mạng tư sản Pháp (1789) với "Tuyên ngôn nhân quyền" đòi hỏi giải phóng con người. CNLM đã góp vào nghệ thuật thế giới nhiều tác phẩm mẫu mực về mọi thể loại. Vào khoảng cuối thế kỉ 19, CNLM rơi vào khủng hoảng và bất lực trước những nhu cầu mới của cuộc đấu tranh xã hội. CHỦ NGHĨA TƯỢNG TRƯNG:  trào lưu và trường phái văn học, nghệ thuật ở Châu Âu, Nga và Mĩ cuối thế kỉ 19; chủ trương thể hiện thế giới và sự vật không phải bằng những hình ảnh trực tiếp mà bằng những hình ảnh gián tiếp có tính cách gợi ra những ý niệm tương đương về thế giới, về sự vật. Theo quan điểm của các nghệ sĩ thuộc trường phái tượng trưng, thế giới, vũ trụ đều hiện ra dưới hình thức các biểu trưng. Bởi vậy, nghệ thuật muốn phản ánh thế giới phải tìm ra những "hiện thực ẩn giấu" bằng những suy tư triết học của người nghệ sĩ và thể hiện qua các biểu trưng thẩm mĩ. Chống đối xã hội tư sản nhưng mang nặng một quan niệm bi đát về xu thế của cuộc sống, CNTT chủ trương "nghệ thuật vị nghệ thuật" và tự đặt tên là "suy đồi" (từ của Veclen), tức chống lại chủ nghĩa thực dụng và các nghệ thuật thời thượng. Morêa (J. Moréas), người đứng đầu trường phái tượng trưng Pháp đã viết tuyên ngôn của trường phái này (1886). Các đại biểu lớn của trường phái tượng trưng: Veclen (P. Verlaine), Ranhbô (A. Rimbaud), Bôđơle (Ch. Baudelaire), Lôtơrêamông (I. D. Lautréamont) và sau này là Clôđen (P. Claudel) và Valêry (P. A. Valery); Mateclinkơ (M. Maeterlinck), Êliơt (T. S. Eliot; Anh), Rinkơ (R. M. Rilke), Blôc (A. A. Blok), Bêlưi (A. Belyj), Paođơ (E. Pound). Trong nghệ thuật tạo hình có Gôganh (P. Gauguin), Vruben (M. A. Vrubel'), vv. Ở Việt Nam trước đây, các nhà thơ Huy Cận, Chế Lan Viên đều tiếp thu ảnh hưởng của nghệ thuật tượng trưng ("Điêu tàn" của Chế Lan Viên, "Lửa thiêng" của Huy Cận). Thơ tượng trưng, ban đầu để gọi những sản phẩm của một thi phái vào cuối thế kỷ 19 ở Pháp, sau dùng để chỉ một thể loại thơ mà trong đó, nhà thơ vận dụng những biểu tượng và nhạc điệu để nói lên những tâm trạng, cảm xúc của tâm hồn. Các nhà thơ tượng trưng sáng tác chủ yếu dựa trên trực giác, điều này tạo nên sự phân biệt với thơ lãng mạn dựa trên cảm xúc, và thơ cổ điển dựa trên sự thông minh. Mục lục [ẩn]   Bàn thêm về ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ truyện Lê Xuân ( 3/17/2009 4:42:48 PM )          Nếu như “giai điệu”, “âm thanh” là ngôn ngữ của âm nhạc; “màu sắc”, “đường nét” là ngôn ngữ của hội họa; “mảng, khối” là ngôn ngữ của kiến trúc, thì “ngôn từ” là chất liệu của tác phẩm văn học. Hình tượng văn học là hình tượng ngôn ngữ. Mắc-xim Gorky (nhà văn Nga) đã nói: “Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học”. Nhà thơ Lê Đạt nói mình là “phu chữ”. Trong bài viết nhỏ này, tôi chỉ trình bày một cách ngắn gọn về Sự giống và khác nhau của ngôn ngữ thơ ca và ngôn ngữ truyện. Từ đó ta có thể lựa chọn từ ngữ như thế nào để đưa vào bài thơ hay truyện cho đúng lúc, đúng chỗ nhằm chuyển tải được những cảm xúc, ý nghĩ của mình đạt hiệu quả thẩm mỹ cao.        Một bài thơ hay với nhiều tầng liên tưởng không dễ gì ta cảm nhận ngay được, có khi chỉ bằng linh cảm mà nhận ra cái “ý tại ngôn ngoại” ấy. Đọc rồi, đọc nữa, suy ngẫm, đối chiếu ta mới nhận ra thứ ánh sáng, màu sắc, hương thơm man mát bên trong hình tượng thơ. Chẳng thế mà nhà thơ Hoàng Đức Lương đã rất đề cao nàng thơ: Thơ là sắc đẹp ở ngoài sắc, vị ngọt ở ngoài vị, không thể trông bằng mắt thường được, chỉ có thi nhân trông thì mới thấy đẹp, nếm mới thấy ngon...  Hay như Sóng Hồng (cố Tổng Bí thư Trường Chinh) viết: Thơ là nghệ thuật kỳ diệu bậc nhất của trí tưởng tượng. Vì vậy để viết được bài thơ hay nhà thơ không thể không khổ công đi tìm ý, tứ, câu, chữ và bao yếu tố khác trong thơ và ngoài thơ.        Một truyện ngắn hay đọc rồi còn đọng lại trong ta bao điều trăn trở vui buồn trước tình đất, tình người. Nếu nhà văn sáng tác theo lý thuyết “tảng băng trôi” như Hê-min-uê thì nội dung, ý nghĩa của truyện nằm sâu ở bảy phần chìm dưới nước không dễ gì nhận ra ngay như ba phần nổi. Muốn khám phá phần chìm ấy ta không thể bỏ qua đội “âm binh” ngôn ngữ mà nhà văn đã dày công lựa chọn.        Chúng ta thừa nhận một cách tương đối: Văn học chia làm 3 thể loại: thơ (trữ tình), truyện (tự sự) và kịch (xét ở góc độ kịch bản văn học). Riêng loại thơ văn xuôi, và truỵện thơ vừa có các yếu tố của thơ vừa có yếu tố của truyện. Giữa ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ truyện vừa có sự giống nhau lại vừa có sự khác nhau. Song, chúng đều được gọi chung là “ngôn ngữ văn học”. Ngôn ngữ văn học có 3 đặc trưng cơ bản là tính chính xác, tính hình tượng và tính biểu cảm. 1- Sự giống nhau:       Cả thơ và truyện đều dùng chất liệu chính là ngôn ngữ để xây dựng tác phẩm. Trong kho tàng ngôn ngữ vô cùng phong phú của toàn dân, nhà thơ hay nhà văn lựa chọn những từ ngữ cần thiết nhất để đưa vào tác phẩm. Đó là quá trình khổ luyện, tìm tòi, tích lũy vốn sống... mới có được những chữ “thần” để có thể “lóe sáng” lên ở câu thơ, câu văn làm cho tác phẩm “nổi gió”, “cất cánh”. Nhà thơ Nga Mai-a-côp-ski đã viết:                                 Phải phí tổn ngàn cân quặng chữ                                 Mới thu về một chữ mà thôi                                 Những chữ ấy làm cho rung động                                 Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài.       Xuất phát từ đặc trưng của thể loại Thơ và Truyện mà ngôn ngữ văn học ở hai thể loại này được các tác gỉa sử dụng ở những cấp độ khác nhau. 2- Sự khác nhau:         Đối với truyện, do nhà văn phải xây dựng nhân vật điển hình trong những hoàn cảnh điển hình nên việc miêu tả ngoại hình, nội tâm nhân vật, bối cảnh xã hội... thường phải cụ thể qua nhiều tình tiết, mâu thuẫn. Ở mỗi đoạn, mỗi chương lại có sự phát triển tâm lý nhân vật một cách trực tiếp hay gián tiếp. Số câu chữ có thể giãn ra hay co lại theo ý đồ tác giả. Nhưng nhìn chung là nó không có sự cô đúc như từ ngữ thơ ca.      Ví dụ: Khi miêu tả bộ mặt một tên quan huyện không thiện cảm mà dân ta thường gọi là “Quan phụ mẫu”, Nguyễn Công Hoan viết:           Quan phụ mẫu là người có nhiều cái đặc biệt. Đứng trước ngài ta có cảm tưởng hỗn xược như phải ăn một mâm cỗ đầy ăm ắp những thịt mỡ khi ta đã no nê. Nghĩa là ta phát ngấy về sự phì nộn của ngài. Ngài cúi mặt xuống, cả tấm thịt trên quai hàm bị cổ áo là cứng, nó đùn lên, nó vẽ nên một nếp nhăn chia má ra làm hai khu đều nhau, khu nào cũng phinh phính và nung núc những thịt. Cái tấm má ấy đầy đặn đến nỗi, giá chỉ một mũi ghim nhỏ nhỡ đụng vào là có thể chảy ra hàng lít nước nhờn nhờn mà ta quen gọi là mỡ. Lông mi ngài rậm và vòng lên đối với đôi mắt hùm hụp cong xuống. Từ thái dương đến chung quanh miệng ngài người ta tưởng mặt ngài làm bằng cứt sắt vì nó đen đen. Nhưng không, đấy chỉ là di tích của một bộ râu quai nón mà sáng nay ngài quên chưa cạo. Ngài đặt lên đầu một vòng khăn không xứng đáng vì đối với cái bộ mặt vĩ đại ấy nó phải nhiều nếp hơn. Nó đai quanh đầu ngài một cách rất chướng như cái đai quanh thùng gỗ đựng nước mắm. Tất ai trong mặt trận dân chủ cũng phải vô phép ngài ấn thật mạnh đằng sau xuống cho nó trùm nốt gáy...?      Nguyễn Du miêu tả bộ mặt rất mập và xấu của Tú Bà- trùm nhà chứa:                                           Nhác trông nhờn nhợt màu da                                     Ăn gì to béo đẫy đà làm sao.   (Truyện Kiều)      Ban zắc trong tiểu thuyết “Ơ-giê-ni Grăng-đê” đã miêu tả rất hay tâm lý của cô Ơ-giê-ni khi chớm yêu cậu em họ Sác-lơ:       Trong cuộc đời trong trắng và tẻ nhạt của các cô thiếu nữ bỗng đến một lúc cõi lòng bừng đón ánh nắng và tiếp nhận nỗi niềm tỉ tê của hoa lá. Lúc ấy sự sống dào dạt dâng lên từ con tim phập phồng hòa tan mọi ý nghĩ và niềm thèm khát mơ hồ. Cái giờ phút ấy là giờ phút bâng khuâng thơ ngây và vui mừng thấm thía. Khi đứa trẻ nhìn thấy sự việc thì nó mỉm cười. Khi cô thiếu nữ cảm thấy yêu đương chớm nở trong lòng, thiếu nữ cũng mỉm cười như thời thơ ấu. Như nói ánh sáng là mối tình đầu trong đời người thì tình yêu không phải là ánh sáng trong lòng người sao?       Cũng viết về nỗi rung động đầu đời, nhà thơ Xuân Diệu lại có cách diễn đạt khác:                                    Con đường nho nhỏ gió hiu hiu                                    La lả cành hoang nắng trở chiều                                    Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn                                    Lần đầu rung động nỗi thương yêu. (Thơ duyên) Ở đây, tôi chỉ xin bàn sâu thêm về ngôn ngữ Thơ. a-Đặc trưng ngôn ngữ thơ:        Khác với văn xuôi, thơ ca chỉ dùng một lượng hữu hạn các đơn vị ngôn ngữ để biểu hiện cái vô hạn của cuộc sống bao gồm các sự kiện tự nhiên và xã hội cũng như những điều thầm kín trong tâm linh con người (TS Hữu Đạt).        Do vậy, ngôn ngữ thơ là thứ ngôn ngữ chính xác, hàm súc, giàu hình tượng, biểu cảm và giàu sức tưởng tượng. Các yếu tố đó hòa quện vào nhau tạo nên hình tượng thơ lung linh, đa nghĩa. Đó là thứ ngôn ngữ gợi hình, gợi cảm góp phần tạo nên tính họa, tính nhạc trong thơ. Nó biến hóa qua nhiều sắc thái ảo thực bất ngờ, thú vị. -Tính chính xác (hay còn gọi là tính tinh luyện, hàm súc): Mỗi từ ngữ trong câu thơ phải diễn tả được đúng điều mà nhà thơ nhìn thấy, cảm thấy và những điều sẽ thấy. Lựa chọn được một từ ngữ “đắt” để diễn đạt một ý không phải lúc nào cũng suôn sẻ. Trong một trường liên tưởng của từ ngữ có nhiều từ cùng nghĩa, gần nghĩa, trái nghĩa..., người viết cần liệt kê vài từ để chọn. Tản Đà đã suy nghĩ rất nhiều khi chọn từ “khô” để đưa vào câu thơ: Non cao những ngóng cùng trông/ Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày (Thề non nước). Nếu thay từ khô bằng từ tuôn, hay từ trôi thì hiệu quả sẽ như thế nào? Hay từ “ép” trong câu: Tuổi già hạt lệ như sương/ Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan là một “nhãn tự” (mắt chữ) trong bài Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến. Nguyễn Du là bậc thầy về dùng từ ngữ chính xác trong Truyện Kiều: Ghế trên ngồi tót sổ sàng (Hoài Thanh bình: chỉ một từ tót thôi, Nguyễn Du đã giết chết tên Giám Sinh họ Mã). Hay:    Rẽ song đã thấy Sở Khanh lẻn vào. Hoặc Đại quân đồn đóng cõi đông/ Làm cho động địa kinh thiên đùng đùng (8 phụ âm đ), tạo cảm giác như có tiếng súng nổ.       Cũng có khi những từ ngữ trong câu thơ là những hư từ hoặc từ địa phương, từ khẩu ngữ rất bình thường nhưng được đặt đúng vào vị trí câu thơ thì nó vẫn tỏa sáng, diễn tả được đúng ý định của nhà thơ, khắc họa rõ tâm trạng nhân vật trữ tình.       Vídụ: Bài “Tiếng Nghệ” của Nguyễn Bùi Vợi hay bài “Nhớ” của Hồng Nguyên, từ địa phương chiếm một tỉ lệ cao. Đó là các từ như trong nớ, tớ, lũ, o, ni, lắc lắc, rẻ viền, ví chắc, bây chừ, cái cươi, chộ, kha, nhỡi, sèm, đọi, trôốc... Điều này các nhà thơ sẽ học tập được nhiều ở ca dao-dân ca (Vd: Ca dao Nam Bộ có câu: Gío đưa buồn ngủ lên bờ/ Mùng qua có rộng cho bậu ngủ nhờ một đêm. Hay: Giơ tay em bứt ngọn ngò/ Thương anh đứt ruột giả đò làm ngơ). Nói tính chính xác của từ ngữ trong thơ ca có khi mang tính tuyệt đối, có khi chỉ là tương đối (Xem thêm: Những con số thực và ảo trong văn chương- LX). - Tính hình tượng:   Theo “Từ điển văn học”, thì: Hình tượng: là sự phản ánh hiện thực một cách khái quát bằng nghệ thuật dưới những hiện tượng cụ thể, sinh động, điển hình, được nhận thức trực tiếp bằng cảm tính (chung cho các loại hình nghệ thuật). Hình tượng văn học: là bức tranh sinh động nhất của cuộc sống được xây dựng bằng ngôn ngữ nhờ có trí tưởng tượng và óc sáng tạo và cách đánh giá của nhà nghệ sĩ. Hình tượng thơ: là bức tranh sinh động và tương đối hoàn chỉnh về cuộc sống được xây dựng bằng một hệ thống các đơn vị ngôn ngữ có vần điệu với trí tưởng tượng sáng tạo và cách cảm nhận của nhà thơ.      Từ đó, ta thấy được ngôn ngữ mang tính hình tượng là ngôn ngữ gợi hình cụ thể. Nhà thơ không nói bằng phạm trù của tư duy lô-zic như trong các môn khoa học tự nhiên mà thông qua hình ảnh cụ thể để diễn đạt những ý niệm trừu tượng.  Ví dụ:                            Ước ao có một gian nhà                                 Có trưa đưa võng đón bà lên chơi.    (Em đi – Lê Đình Cánh)  Đó là ước mơ của một cô giáo vùng núi cao mong có nhà, có con để đón bà lên bế cháu, đưa võng trưa hè. Nói một cách khác là ước mơ được làm vợ, làm mẹ. Cũng ở bài thơ trên, tác giả đã nói tới sự xót xa của các cô khi tuổi của xuân đã mòn phai, quá lứa lỡ thì:                                      Ở rừng tự hát ru nhau                               Lá trầu chị héo quả cau em già. Lá trầu, quả cau là biểu tượng cho hôn nhân hạnh phúc, nhưng ở đây lá trầu héo, quả cau già, tuổi xuân đã quá “đát”.     Hay ở bài thơ “Mười cô gái ở Ngã ba Đồng Lộc”, nhà thơ Đồng Đức Bốn đã có liên tưởng như các cô vẫn còn sống đâu đây giữa cỏ cây, hoa lá:                                     Cầm cỏ thì thấy mồ hôi                              Cầm đất thì thấy dấu môi vẫn hồng                                     Sông La tóc sóng bềnh bồng                               Cầm mây, áo gái chưa chồng còn thơm. Tố Hữu viết về bốn mùa (đông, xuân, hè, thu) ở Việt Bắc bằng ngôn ngữ giàu tính họa (có người gọi đây là bức tranh tứ bình):                                  Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi                           Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng                                  Ngày xuân mơ nở trắng rừng                          Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang                                 Ve kêu rừng phách đổ vàng                          Nhớ cô em gái hái măng một mình                                 Rừng thu trăng rọi hòa bình                          Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung. Khương Hữu Dụng viết Một tiếng chim kêu sáng cả rừng (Hành quân qua đèo Hải Vân) tạo cảm giác như ta vừa bước từ bóng tối ra ánh sáng, thật sung suớng. Hay như Nguyễn Duy trong bài “Lời ru đồng đội”, viết:                                  Ngủ hầm, ngủ võng, ngủ bưng                           Gối đầu tay ngủ cầm chừng mỗi đêm                                  Có người ngủ thế thành quen                            Đã nghe sợi tóc bạc trên tay mình. Có nhà thơ so sánh mái tóc dài của thiếu nữ khá độc đáo: Tóc em dài như một tiếng chuông ngân. (chuyển từ quan sát bằng thị giác sang thính giác). Hay Trần Đăng Khoa cảm nhận được âm thanh rất nhẹ của chiếc lá đa rơi trong bài “Đêm ngủ ở Côn Sơn”: Ngoài thềm rơi chiếc lá đa/ Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng... (chuyển sự cảm nhận từ thính giác sang thị giác). Tất cả những câu thơ trên đều gợi liên tưởng, tạo hình tượng khá rõ. Nếu không có trí tưởng tượng kỳ diệu thì khó mà viết được những câu thơ như thế. Để có được những từ ngữ “lóe sáng” đó, ngoài vốn từ vựng phong phú, nhà thơ còn phải biết kết hợp các biện pháp tu từ như: so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa, điệp từ, tượng trưng, nói quá, nói giảm...trong cách diễn đạt.      Ví dụ:  Bài “Hỏi”của Xuân Diệu có thể xem16 câu thơ như 16 câu hỏi tu từ:       Một năm, thêm mấy tháng rồi, Thu đi, đông lại, bồi hồi sắp xuân.       Gặp em, em gặp mấy lần, Tưởng quen mà lạ, tưởng gần mà xa.       Ai làm cách trở đôi ta, Vì anh