Đề tài Cơ cấu thị trường xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Thực trạng và xu hướng chuyển dịch cơ cấu thị trường

Trong xu hướng hội nhập toàn cầu hoá hiện nay, thế giới đang có những sự thay đổi lớn lao về nhiều mặt, thương mại quốc tế là một bộ phận quan trọng, gắn liền với tiến trình hội nhập đó.Nó có vai trò quyết định đến lợi thế của một quốc gia trên thị trường khu vực và thế giới. Vì vậy việc giao lưu thương mại nói chung và xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ nói riêng là một mục tiêu kinh tế hàng đầu không nằm trong phạm vi của một quốc gia nào cả.Và Việt Nam cũng không là một ngoại lệ.

doc62 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1298 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cơ cấu thị trường xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Thực trạng và xu hướng chuyển dịch cơ cấu thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu. Trong xu hướng hội nhập toàn cầu hoá hiện nay, thế giới đang có những sự thay đổi lớn lao về nhiều mặt, thương mại quốc tế là một bộ phận quan trọng, gắn liền với tiến trình hội nhập đó.Nó có vai trò quyết định đến lợi thế của một quốc gia trên thị trường khu vực và thế giới. Vì vậy việc giao lưu thương mại nói chung và xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ nói riêng là một mục tiêu kinh tế hàng đầu không nằm trong phạm vi của một quốc gia nào cả.Và Việt Nam cũng không là một ngoại lệ. Nước ta là một nước có nền kinh tế đang bước đầu phát triển, cơ sở vật chất kỹ thuật còn thấp kém, dân số phát triển với tỉ lệ cao, cán cân thương mại bị thâm hụt, mức dự trữ ngoại tệ còn nhỏ bé nên việc xuất khẩu để thu ngoại tệ,nâng cao cơ sở vật chất, cải thiện đời sống, phát triển kinh tế và hội nhập thế giới là một đòi hỏi tất yếu để phát triển tiềm lực kinh tế của đất nước.Chính vì vậy,để hiểu rõ hơn về vấn đề này, em đã chọn đề tài “Cơ cấu thị trường xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Thực trạng và xu hướng chuyển dịch cơ cấu thị trường.”Nghiên cứu đề tài này, em mong người đọc một phần nào có thể biết thêm được về thị trường xuất khẩu của Việt Nam trong thời mở cửa.Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do đề án môn học có hạn và kiến thức còn hạn chế, do đó bài viết không tránh khỏi sai sót.Rất mong nhận được sự đóng góp của thầy cô để bài viết của em được hoàn thiện hơn.Em xin chân thành cám ơn ! Phần nội dung. Chương I. Những vấn đề cơ bản về thị trường xuất khẩu hàng hoá. I. Bản chất và vai trò của thị trường xuất khẩu hàng hoá. 1. Các khái niệm liên quan đến thị trường xuất khẩu hàng hoá. 1.1. Hàng hoá xuất khẩu. Hàng hoá xuất khẩu được hiểu gắn với khái niệm thương mại hàng hoá ( phân biệt với xuất khẩu dịch vụ gắn với khái niệm thương mại dịch vụ) theo quy ước của liên hiệp quốc và của WTO là những sản phẩm hàng hoá hữu hình đựơc sản xuất và gia công tại các cơ sở sản xuất, gia công và các khu chế xuất với mục đích để tiêu thụ tại thị trường ngoài nước ( xuất khẩu) đi qua hải quan. Hàng tạm nhập tái xuất cũng được coi là hàng hoá xuất khẩu. Hàng hoá quá cảnh không thuộc diện của hàng hoá xuất khẩu. Hàng hoá xuất khẩu là hàng hoá khác biệt so với hàng hoá tiêu dùng ở trong nước. Những hàng hoá xuất khẩu phải đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng ở nước nhập khẩu. Chất lượng của hàng hoá phải đáp ứng được các thông số về tiêu dùng,kĩ thuật và môi trường và đạt được tính cạnh tranh cao ở nước người nhập khẩu.Ví dụ,sản xuất hàng thuỷ sản xuất khẩu và khối EU hay mỹ phải đạt các tiêu chuẩn trong hệ thống HACCP. Vấn đề nhãn mác hàng hoá gắn liền với uy tín của doanh nghiệp và rất được các nước công nghiệp quan tâm. Ví dụ hàng hoá của Trung Quốc mang thương hiệu Made in China, hàng của Nhật Bản mang thương hiệu Made in Japan, trong khi đó Việt Nam lại chưa chú ý đúng mứcđể phát triển hàng hoá xuất khẩu mang thương hiệu Made in Việt Nam bởi hàng hoá của ta chất lượng kém, số lượng ít, khối lượng nhỏ. 1.2. Thị trường xuất khẩu hàng hoá. 1.2.1. Khái niệm. Thị trường xuất khẩu là tập hợp người mua và người bán có quốc tịch khác nhau tác động với nhau để xác định giá cả, số lượng hàng hóa mua bán, chất lượng hàng hoá và các điều kiện mau bán khác theo hợp đồng, thanh toán chủ yếu bằng ngoại tệ mạnh và phải làm thủ tục hải quan qua biên giới. Thị trường xuất khẩu hàng hoá bao hàm cả thị trường xuất khẩu hàng hoá trực tiếp (nước tiêu thụ cuối cùng) và thị trường xuất khẩu hàng hoá gián tiếp (xuất khẩu qua trung gian) . Chẳng hạn, một nước nào đó tạm nhập tái xuất hàng hoá của Việt Nam hoặc nhập hàng hoá của Việt Nam rồi mang ra xuất khẩu sang thị trường khác cũng được coi là thị trường xuất khẩu hàng hoá cua Việt Nam. Cần nhấn mạnh rằng thị trường xuất khẩu hàng hoá không chỉ giới hạn ở những thị trường nước ngoài. Thị trường trong nước trong nhiều trường hợp là thị trường xuất khẩu hàng hoá tại chỗ (nhất là đối với các nghành xuất khẩu dịch vụ: Du lịch, tài chính-ngân hàng,bảo hiểm…). Đối với hàng hoá xuất khẩu từ các khu chế xuất của Việt Nam vào chính thị trường Việt Nam thì khi đó thị trường nội địa có thể coi là một thị trường xuất khẩu hàng hoá đối với hàng hoá của các khu chế xuất. 1.2.2. Phân loại thị trường hàng hoá xuất khẩu. Có rất nhiều cách phân chia thị trường xuất khẩu dưới đây là một số loại thị trường xuất khẩu được phân chia theo một số tiêu thức đó là: - Căn cứ vào lịch sử quan hệ ngoại thương: * Thị trường truyền thống: Đây là thị trường xuất khẩu mà từ lâu đã xuất khẩu sang thị trường đấy và xuất khẩu thường xuyên cho đến bây giờ. Đây là thị trường khá quan trọng đối với nước ta. Khu vực thị trường các nước ASEAN là thị trường truyền thống của Việt Nam và một số thị trường khác nữa * Thị trường hiện có: Là thị trường xuất khẩu mà hiên tại bây giờ là nước nhập khẩu của nước xuất khẩu đó. Thị trường hiện có là thị trường quan trọng quyết định rất lớn đến vấn đề xuất khẩu của nước xuất khẩu trong thời gian hiện tại. Và từ thị trường hiện có này có thể giải quyết được các vấn đề xuất khẩu trong nước trong tương lai. Có thể nói thị trường hiện có bao gồm thị trường truyền thống và thị trường mới.ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều thị trường nhập khẩu hàng hoá như: Khu vực Đông Nam á, Mỹ, các nước EU... * Thị trường mới: Không phải là thị trường xuất khẩu từ lâu mà mới xuất hiện, tức là chỉ xuất khẩu hàng hoá sang thị trường này chưa được nhiều lần. Với những thị trường mới cần nghiên cứu xem xét kỹ tính chất cũng như văn hóa của thị trường này để từ đó cung cấp hàng hoá theo đúng nhu cầu và phù hợp nhất * Thị trường tiềm năng. Là thị trường mà từ đó nước xuất khẩu có thể xâm nhập thị trường và từ đó có thể phát triển việc xuất khẩu sang thị trường này.Thị trường tiềm năng có thể là thị trường mà nước xuất khẩu đã từng xuất khẩu sang hoặc chuẩn bị xuất khẩu sang đó.Tuỳ theo mặt hàng xuất khẩu có thể cho chúng ta biết được thị trường nào là thị trường tiềm năng về mặt hàng đó. Ví dụ, thị trường Trung Đông cũng là thị trường tiềm năng của Việt Nam. - Căn cứ mức độ quan tâm và tính ưu tiên trong chính sách phát triển thị trường của nước xuất khẩu đối với các thị trường xuất khẩu: * Thị trường xuất khẩu trọng điểm hay thị trường chính. Đối với loại thị trường này, trong quan hệ ngoại thương nước xuất khẩu có thể phải chấp nhận một số thiệt thòi về lơị ích trước mắt để thu được lợi ích lâu dài (nhấtlà trong đàm phán kí kết các hiệp định thương mại cấp chính phủ) . Đây là một trong những thị trường mà một nước sẽ nhằm vào khai thác chính và trong một tương lai lâu dài. * Thị trường xuất khẩu tương hỗ. Đối với loại thị trường này, nước xuất khẩu duy trì quan hệ giao thương theo nguyên tắc tương hỗ-tức là hai nước có quan hệ ngoại thương dành cho nhau những ưu đãI và nhân nhượng tương xứng nhau, nhất là trong việc mở rộng thị trường. - Căn cứ vào mức độ mở cửa của thị trường mức, độ bảo hộ, tính chặt chẽ và khả năng xâm nhập thị trường. * Thị trường ‘’khó tính’’. Là thị trường rất khó xâm nhập, thị trường này có tính bảo hộ cao và rất chặt chẽ trong mọi vấn đề. Với thị trường này không phải lúc nào cũng thâm nhập được không phải nước nào cũng thâm nhập được, nên phảI nghiên cứu kỹ thị trường này trước khi muốn thâm nhập. Nhật Bản là một ví dụ của một thị trường xuất khẩu rất khó tính . * Thị trường “dễ tính”. Trái ngược với thị trường khó tính thì thị trường này rất dễ thâm nhập không có đòi hỏi cao hay nhiều gì trong xuất khẩu, chế độ bảo hộ không cao. Thị trường Nga được coi là thị trường xuất khẩu hàng hoá khá dễ tính - Căn cứ và loại hình cạnh tranh trên thị trường: * Thị trường độc quyền: Là thị trường duy nhất nhập khẩu hàng hoá của nước xuất khẩu, dẫn đến thành viên này có sức mạnh thị trường và là người đặt giá. Trong trường hợp này nước xuất khẩu dễ bị rơi vào thế bị động hay bị ép giá . * Thị trường độc quyền nhóm: Tức là một nhóm các thị trường liên kết với nhau tạo thành độc quyền nhóm. Trong nhóm đó thành viên nào tăng giá thì các thành viên khác cũng tăng theo và có nghĩa là họ cũng là người có khả năng ép giá. * Thị trường cạnh tranh hoàn hảo; * Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo: một dạng của loại hình này đã được nhiều nước ứng dụng thành công khi tìm kiếm thị trường là thị trường ngách. Thị trường ngách được xem như một loại hình thị trường cạnh tranh không hoàn hảo. Thị trường này đóng một vai trò rất quan trọng cho các nước đang phát triển theo chiến lược hướng về xuất khẩu, những nước mà khả năng cạnh tranh còn kém so với hàng hoá hiện có trên thị trường quốc tế. 1.2.3. Phát triển thị trường hàng hoá xuất khẩu. Khái quát về thị trường đã chỉ ra rằng: Phát triển thị trường có thể thực hiện về khía cạnh mặt hàng, theo chiều rộng và chiều sâu. Khi định hướng cho phát triển thị trường hàng hoá xuất khẩu, một nước có thể phát triển theo chiều rộng hay chiều sâu hoặc cùng một lúc phát triển theo cả hai hướng này. Phát triển về mặt hàng có thể thực hiện về lượng và về chất. Thứ nhất việc đưa ra ngày càng nhiều sản phẩm dựa trên nhu cầu đa dạng,mong muốc thoả mãn và khả năng thanh toán của con người trong một xã hội phát triển. Sự phát triển của khoa học kỹ thuậtvà công nghệ đã cho phép các doanh nghiệp ứng dụng vào sản xuất những sản phẩm đa dạng trên để đáp ứng nhu cầu của con người. Đây là việc phát triển mặt hàng thông qua tăng cường chủng loại hàng hoá trên thị trường để phục vụ nhiều loại nhu cầu của khách hàng. Bất kỳ một doanh nghiệp nào hay một đất nước nào phát hiện, khơI gợi, nắm bắt nhu cầu và thoả mãn nhu cầu đó với chất lượng cao thì sẽ chiến thắng trên thị trường. Thứ hai, việc phát triển các mặt hàng hiện thời, đó là quá trình không ngừng hoàn thiện cải tiến chất lượng sản phẩm, dịch vụ và tăng sức cạnh tranh của các mặt hàng đang được cung cấp trên thị trường. Hình thức phát triển này là hình thức phát triển về chất của hàng hoá nhằm đáp ứng những nhu cầu ngày càng đòi hỏi cao hơn của con người. Phát triển theo chiều rộng là việc thể hiện phát triển về số lượng khách hàng có cùng loại nhu cầu để bán nhiều hơn một loại sản phẩm hay dịch vụ nào đó. Đồng thời việc phát triển theo chiều rộng còn bao gồm cả việc phát triển cả về mặt không gian và phạm vi địa lý. Đó là việc đòi hỏi không ngừng nghiên cứu xu thế biến động của thế giới, các thị trường nước ngoài để tiến hành thâm nhập vào các thị trường đó. Phát triển theo chiều sâu về thực chất là phát triển thị trường về chất bao gồm những việc như nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, đưa ra thị trường những sản phẩm, dịch vụ có hàm lượng chất xám cao. Phát triển thị trường theo chiều sâu có thể được thực hiện theo cách cắt lớp, phân đoạn thị trường để thoả mãn nhu cầu muôn hình muôn vẻ của khách hàng. Theo nội dung này, phát triển hàng hoá xuất khẩu sẽ có tác dụng tích cực trong chiến lược hướng về xuất khẩu. Đó là việc tăng cường được số lượng thị trường nhập khẩu, tăng cường được xuất khẩu về chất lượng cũng như số lượng, thay đổi tích cực cơ cấu mặt hàng xuất khẩu. 2. Vai trò của thị trường xuất khẩu hàng hoá. 2.1. Vai trò của việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. - Xuất khẩu tạo điều kiện cho các quốc gia tận dụng được lợi thế so sánh của mình. Sức cạnh tranh của hàng hoá được nâng cao, tăng trưởng kinh tế trở lên ổn định và bền vững hơn nhờ các nguồn lực được phân bổ một cách hiệu quả hơn. Quá trình này cũng tạo ra xã hội lớn cho tất cả các nước nhất là những nước đang phát triển, đẩy mạnh công nghiệp hoá trên cơ sở ứng dụng thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật. - Xuất khẩu tạo nguồn chủ yếu cho nhập khẩu công nghệ, máy móc và những nguyên nhiên vật liệu cần thiết phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Hoạt động xuất khẩu còn kích thích các nghành kinh tế phát triển, góp phần tăng tích luỹ vốn, mở rộng sản xuất tăng thu nhập cho nên kinh tế, cải thiện mức sống của các tầng lớp dân cư. Ngoại tệ thu được từ hoạt động xuất khẩu là nguồn tăng dự trữ ngoại tệ. Dự trữ ngoại tệ dồi dào là điều kiện cần thiết giúp cho quá trình ổn định ngoại tệ và chống lạm phát. - Xuất khẩu đóng góp vào dịch chuyển cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất sản phẩm điều này có hai cách hiểu đó là xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa và xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ nhờ vậy sản xuất có thể phát triển và ổn định, tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất nâng cao năng lực sản xuất trong nước tạo ra những tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. - Xuất khẩu có tác động tích cực đến vấn đề giải quýêt việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Sản xuất hàng hoá xuất khẩu là nơi thu hút hàng triệu lao động vào làm việc với thu nhập cao. Tạo nguồn vốn nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu ngày càng cao của nhân dân. Đồng thời xuất khẩu cũng có tác động tích cực đến tay nghề và thay đổi thói quen của những người sản xuất hàng hoá. - Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại, tăng cường địa vị kinh tế của mỗi quốc gia trên thị trường thế giới. 2.2. Vai trò của thị trường xuất khẩu hàng hoá trong hoạt động xuất khẩu của nước ta. Thị trường nói chung và thị trường xuất khẩu nói riêng được xem là vấn đề nhạy cảm và có vai trò quan trọng trong xuất khẩu hànghoá. Xem xét tác động của thị trường xuất khẩu đối với hoạt động xuất khẩu dựa trên hai vấn đề: + Quy mô hàng hoá: Phát triển càng rộng thị trường xuất khẩu đặt ra yêu cầu đối với doanh nghiệp xuất khẩu phải sản xuất ra càng nhiều sản phẩm đáp ứng nhu cầu đa dạng, mong muốn thoả mãn và khả năng thanh toán của xã hội. Do đó sẽ làm cho số lượng hàng hóa xuất khẩu tăng lên, chủng loại phong phú, cơ cấu mặt hàng thay đổi để thoả mãn nhu cầu của khách hàng. + Chất lượng hàng hoá: Khi tham gia vào hoạt động kinh doanh trên thị trường xuất khẩu có nghĩa là các doanh nghiệp phải chịu sự cạnh tranh với các doanh nghiệp nội địa. Do đó mà các doanh nghiệp phải áp dụng không ngừng các thành tựu khoa học kĩ thuật và hoàn thành cải tiến nâng cao chất lương sản phẩm, tăng sức cạnh tranh của các mặt hàng đang và sẽ được cung cấp trên thị trường. Đảm bảo phù hợp giữa chất lượng giá cả hàng hoá so với hàng hoá cạnh tranh sẽ có tác động tích cực chiếm lĩnh thị trường là yếu tố quyết định đến thành công của doanh nghiệp. Như vậy, thị trường xuất khẩu tác động đến cả chất lượng và số lượng hàng hoá, nó đồng thời tác động đến hoạt động xuất khẩu của một quốc gia cả tích cực và tiêu cực. Nếu biết khai thác nhu cầu và tiềm lực một cách có hiệu quả sẽ làm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu và ngược lại. Đồng thời có ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế của một quốc gia. Do đó phát triển thị trường xuất khẩu được đảng và nhà nước ta xác định như một trong các chiến lươc xuất khẩu nói riêng và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nói chung. II. Những yếu tố của thị trường xuất khẩu hàng hoá. 1. Cầu về hàng hoá xuất khẩu. Xem xét cầu hàng hoá xuất khẩu trên các thị trường xuất khẩu tức là xem xét khối lượng hàng hoá và cơ cấu loại hàng hoá tiêu dùng. Tổng khối lượng hàng hoá chính là quy mô thị trường hiện tại mà sản phẩm đang được bán. Nghiên cứu quy mô thị trường xuất khẩu phảI nắm được cơ bản về thị hiếu, đối tượng tiêu dùng hàng hoá chính, thu nhập,…muốn vậy đòi hỏi công tác nghiên cứu thị trường phảI được quan tâm. 2. Cung về hàng hoá. Trên cơ sở để xác định xem khả năng sản xuất trong một thời gian các doanh nghiệp có khả năng cung ứng cho thị trường mà doanh nghiệp đang cung cấp là bao nhiêu. Dựa trên các yếu tố thông tin về lao động, vật tư tìên vốn, dự trữ vật tư hàng hoá và các tiềm năng khác của doang nghiệp để xác định cung của doanh nghiệp có khả năng đáp ứng trên thị trường,từ đó biết được quy mô của doanh nghiệp là lớn hay nhỏ. Ngoài đảm bảo về số lượng hàng hoá cung cấp trên thị trường cần phải quan tâm đặc biệt tới chất lượng của hàng hoá đó nữa bởi vì chất lượng là một yếu tố quan trọng để có thể đáp ứng nhu cầu tiêu dùng hàng ngày càng cao của con người và đảm bảo thoả mãn các điều kiện về tiêu chuẩn kỹ thuật mà nước nhập khẩu đặt ra đối với hàng hoá nhập khẩu vào thị trường nội địa. Chất lượng đóng vai trò đảm bảo cho hàng hoá có thể bán được và khẳng định vị trí của doanh nghiệp trên thị trường, đảm bảo cạnh tranh hàng hoá nội địa và hàng hoá của các đối thủ cạnh tranh. 3. Giá cả thị trường Đứng ở góc độ doanh nghiệp thì giá cả thị trường là một yếu tố quan trọng đánh giá doanh thu của doanh nghiệp. Có nhiều yếu tố tác động vào giá cả hàng hoá như chi phí đầu vào, các yếu tố của thị trường mà hàng hoá cung cấp trên đó như quan hệ cung cầu, giá hàng hoá nội địa của các doanh nghiệp cạnh tranh khác, mục tiêu và chính sách của doanh nghiệp hoặc sự ảnh hưởng của giá hàng hoá đến việc tiêu thụ ở một số thị trường khác…Cũng tuỳ vào từng giai đoạn mà doanh nghiệp xuất khẩu có các quyết định về giá hàng hoá của mình để có thể cạnh tranh trên thị trường. Nếu như sản phẩm mới đưa vào thị trường xuất khẩu thì đòi hỏi phải đưa ra một số chiến lược về giá để hàng hoá có chỗ đứng trên thị trường như: thâm nhập thị trường,bám chắc thị trường. Nếu như hàng hoá đã có vị trí trên thị trường thì phải có chiến lược thích hợp để phát triển và mở rộng thị trường của mình đảm bảo khả năng cạnh tranh trên thị trường. 4. Khả năng cạnh tranh trên thị trường. Các nhà sản xuất trong nước khi xuất khẩu sang nước ngoài sẽ chịu sức ép cạnh tranh rất lớn. Vì vậy để kiếm tìm được một vị thế thích hợp trên thị trường thị các doanh nghiệp hay nước xuất khẩu đó phảI xác định được: Ai là đối thủ cạnh tranh? Ai có thể là đối thủ cạnh tranh, cơ cấu cạnh tranh…? Trên cơ sở nắm bắt và tìm hiểu các đối thủ cạnh tranh các nhà quản trị phải biết phân loại đối thủ cạnh tranh. Doanh nghiệp có vị trí thế nào trên thị trường là tuỳ thuộc vào những ứng biến và khả năng tiên đoán, xử lý thông tin của doanh nghiệp. Thực tế cho thấy rằng sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam còn thấp, do kinh nghiệm và thông tin về đối thủ cạnh tranh trên thị trường củadoanh nghiệp Việt Nam còn thiếu. 5. Thương hiệu Có thể nói thương hiệu là hình thức biểu hiện bên ngoài, tạo ấn tượng thể hiện bên trong (cho các sản phẩm và doanh nghiệp). Thương hiệu tạo ra nhận thức và niềm tin của người tiêu dùng đối với hàng hoá mà doanh nghiệp cung cấp. Giá trị của thương hiệu là triển vọng lợi nhuận mà doanh nghiệp đó có thể đem lại cho nhà đầu tư trong tương lai. Nói cách khác thương hiệu là tài sản vô hình của doanh nghiệp. Xem xét thương hiệu bao gồm thương hiệu hàng hoá, thương hiệu doanh nghiệp và chỉ dẫn địa lý và tên gọi hàng hoá. Hàng hoá xuất khẩu của nước ta trên thị trường thế giới vẫn chưa tạo dựng được nhiều thương hiệu nổi tiếng, chưa được người tiêu dùng ở các nước nhập khẩu biết đến nhiều. Như vậy khó khăn lớn nhất của hang hoá Việt Nam là chưa xây dựng được thương hiệu trong lòng người tiêu dùng, công tác tiếp thị còn yếu kém, nhiều khi không tìm hiểu kỹ nhu cầu, quy luật của thị trường. Đây là một vấn đề lớn trong khâu đảm bảo thành công trên thị trường của nước ta. III. Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu hàng hoá. 1. Công cụ chính sách thương mại thuộc về thuế quan. Thuế xuất khẩu được dùng làm công cụ để điều tiết và quản lý xuất khẩu. Thuế này được đánh vào hàng hoá xuất khẩu nhằm hạn chế hay khuyến khích xuất khẩu. Theo kinh nghiệm nhiều nước,nếu dùng chính sách thuế quan để làm công cụ cho chính sách khuyến khích sản xuất thay thế hàng nhập khẩu sẽ dẫn tới tình trạng duy trì một nghành sản xuất kém hiệu quả, kém khả năng cạnh tranh và do đó người tiêu dùng sẽ bị thiệt thòi nhất. Tuy nhiên, trong nền kinh tế hội nhập với việc buôn bán tự do giữa các nước có sự cạnh tranh gay gắt về giá cả và chất lượng hàng hoá thì việc sử dụng thuế như một công cụ quản lý xuất khẩu sẽ không còn hữu hiệu, Bởi thuế xuất khẩu luôn làm cho giá cả hàng hoá tăng cao so với khi không đánh thuế hoặc thuế suất bằng không. 2. Các công cụ chính sách thương mại phi thuế quan. Quan hệ chính trị ngoại giao. Quốc gia muốn phát triển thị trường hàng hoá xuất khẩu thì trước hết phải có đường lối chính trị mở cửa hội nhập với thế giới một cách nh
Tài liệu liên quan