Đề tài Cơ chế điều hành lãi suất ở các nước phát triển & Việt Nam hiện nay

Trong thời gian qua, Việt Nam đã và đang đạt được những thành tựu to lớn trong lĩnh vực kinh tế với chủ trương xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong sự phát triển đó, Ngân hàng Trung ương (NHTW) đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc định hướng nền kinh tế, điều tiết các mối quan hệ trong nền kinh tế, chống lạm phát, thiểu phát và các nhân tố phát sinh trong nền kinh tế thị trường . Một trong những công cụ được NHTW sử dụng nhiều nhất để thực hiện các chức năng của mình là công cụ lãi suất. Đây là một công cụ của chính sách tiền tệ được nhiều nhà nghiên cứu kinh tế quan tâm và nhiều quốc gia sử dụng như một công cụ hữu hiệu để điều tiết nền kinh tế. Đồng thời, đây cũng được coi là một công cụ nhạy cảm nhất và là vấn đề nóng bỏng thu hút được nhiều sự quan tâm của các thành phần dân cư trong xã hội. Nó tác động mạnh đến quyết định tiết kiệm hay chi tiêu dùng của người dân, đầu tư công nghệ hay giảm thiểu chi phí của doanh nghiệp.; đồng thời có thể ảnh hưởng đến rất nhiều thị trường trong nền kinh tế mà đặc biệt là thị trường chứng khoán. Là một công cụ có vai trò quan trọng như vậy, nên lãi suất là một trong những biến số được theo dõi một cách chặt chẽ. Việc nghiên cứu cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng trung ương nói chung và cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng trung ương các nước phát triển nói riêng có ý nghĩa quan trọng trong việc nhận thức, đánh giá, so sánh về cơ chế điều hành lãi suất nói riêng và chính sách tiền tệ nói chung của NHTW.

docx26 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1480 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cơ chế điều hành lãi suất ở các nước phát triển & Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT ' & ' TIỂU LUẬN MÔN NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Đề tài: CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT Ở CÁC NƯỚC PHÁT TRIỂN & VIỆT NAM HIỆN NAY Giảng viên hướng dẫn: Tiến sỹ HOÀNG CÔNG GIA KHÁNH Học viên thực hiện: Nhóm 02 Nguyễn Hùng Dương Vũ Chí Dương Trần Thị Hương Giang Lương Ngọc Hạnh Võ Văn Hoàng Lớp: Cao học khóa 10 – Kinh tế Tài chính Ngân hàng @ & ? Tp. Hồ Chí Minh tháng 3 năm 2011 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cần thiết của đề tài Trong thời gian qua, Việt Nam đã và đang đạt được những thành tựu to lớn trong lĩnh vực kinh tế với chủ trương xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong sự phát triển đó, Ngân hàng Trung ương (NHTW) đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc định hướng nền kinh tế, điều tiết các mối quan hệ trong nền kinh tế, chống lạm phát, thiểu phát và các nhân tố phát sinh trong nền kinh tế thị trường . Một trong những công cụ được NHTW sử dụng nhiều nhất để thực hiện các chức năng của mình là công cụ lãi suất.  Đây là một công cụ của chính sách tiền tệ được nhiều nhà nghiên cứu kinh tế quan tâm và nhiều quốc gia sử dụng như một công cụ hữu hiệu để điều tiết nền kinh tế. Đồng thời, đây cũng được coi là một công cụ nhạy cảm nhất và là vấn đề nóng bỏng thu hút được nhiều sự quan tâm của các thành phần dân cư trong xã hội. Nó tác động mạnh đến quyết định tiết kiệm hay chi tiêu dùng của người dân, đầu tư công nghệ hay giảm thiểu chi phí của doanh nghiệp...; đồng thời có thể ảnh hưởng đến rất nhiều thị trường trong nền kinh tế mà đặc biệt là thị trường chứng khoán. Là một công cụ có vai trò quan trọng như vậy, nên lãi suất là một trong những biến số được theo dõi một cách chặt chẽ. Việc nghiên cứu cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng trung ương nói chung và cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng trung ương các nước phát triển nói riêng có ý nghĩa quan trọng trong việc nhận thức, đánh giá, so sánh về cơ chế điều hành lãi suất nói riêng và chính sách tiền tệ nói chung của NHTW. 2. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài Trong từng thời kỳ nhất định, việc tìm ra và thi hành một chính sách lãi suất phù hợp là vô cùng phức tạp mà vai trò quyết định thuộc về ngân hàng trung ương. Cùng với sự thay đổi và phát triển không ngừng của nền kinh tế, chính sách lãi suất của NHTW cũng thường xuyên được điều chỉnh cho phù hợp với  các tình hình mới của nền kinh tế, tạo điều kiện cho phát triển cho các ngân hàng thương mại và các tổ chức kinh tế khác. Do đó, nhiệm vụ của đề tài là đi làm rõ về cơ chế điều hành lãi suất của các quốc gia phát triển và ở Việt Nam hiện nay. Từ đó đưa ra các nhận định, đánh giá, giải thích và so sánh cơ chế điều hành lãi suất ở Việt Nam so với các quốc gia khác. 3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Do hạn chế về thời gian, nhóm thực hiện đề tài tập trung nghiên cứu cơ chế lãi suất của các nước phát triển và Việt Nam hiện nay; từ đó đưa ra nhận xét, đánh giá, so sánh và đề xuất giải pháp đối với cơ chế điều hành lãi suất tại Việt Nam. 4. Kết cấu của tiểu luận Nhóm thực hiện kết cấu tiểu luân gồm 4 phần sau: Phần LỜI MỞ ĐẦU: giới thiệu tính cần thiết, mục đích, ý nghĩa, phạm vi nghiên cứu, kết cầu của tiểu luận. Phần NỘI DUNG TIỂU LUẬN: Tổng quan về Lãi suất Cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Trung ương các nước phát triển hiện nay Cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hiện nay Đề xuất giải pháp Phần KẾT LUẬN Phần TÀI LIỆU THAM KHẢO NỘI DUNG TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ LÃI SUẤT * Khái niệm:  Lãi suất là một phạm trù kinh tế tổng hợp có liên quan chặt chẽ đến các phạm trù kinh tế khác, phản ánh mối quan hệ giữa chủ thể sử dụng vốn (người vay vốn) với chủ thể sở hữu vốn (người cho vay) theo nguyên tắc hoàn trả có kỳ hạn kèm theo lãi ở thị trường vốn ở một thời điểm nhất định.  Nói cách khác, lãi suất là giá cả của quyền được sử dụng vốn trong một thời gian nhất định mà người sử dụng trả cho người sở hữu nó. Lãi suất được sinh ra là bởi lẽ người đi vay đã sử dụng vốn đó để phục vụ các nhu cầu sinh lợi của mình (trong hoạt động sản xuất kinh doanh hay tiêu dùng) trong khi người cho vay đã hi sinh quyền đó. Đánh đổi cho sự hi sinh quyền được sử dụng tiền tệ ngày hôm nay của người cho vay chính là lãi suất * Phân loại:  Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau (thời hạn tín dụng, loại hình tín dụng, lãi suất, mức ổn định,…) mà lãi suất lại được chia thành nhiều loại:  - Lãi suất tiền gửi là lãi suất được trả cho các khoản tiền gửi của người đi vay. - Lãi suất tiền vay là lãi suất người đi vay phải trả cho ngân hàng do việc sử dụng vốn vay của ngân hàng. - Lãi suất chiết khấu là lãi suất mà ngân hàng cho khách hàng vay dưới hình thức chiết khấu thương phiếu hay các giấy tờ có giá trị khác chưa đến hạn thanh toán của khách hàng. Lãi suất chiết khấu được xác định trên tỉ lệ % mệnh giá của giấy tờ có giá trị và được khấu trừ ngay khi ngân hàng phát tiền vay cho khách hàng. - Lãi suất tái chiết khấu là lãi suất mà NHTW tái cấp vốn cho các ngân hàng dưới hình thức chiết khấu lại các thương phiếu hay các giấy tờ có giá ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán cho các ngân hàng . Nó được tính bằng tỉ lệ % trên mệnh giá của giấy tờ có giá và cũng được khấu trừ ngay khi NHTW cấp vốn tiền vay cho Ngân hàng. - Lãi suất liên ngân hàng là lãi suất mà các ngân hàng cho nhau vay trên thị trường liên ngân hàng.   - Lãi suất cơ bản là lãi suất được NHTW công bố, được các ngân hàng sử dụng làm cơ sở ổn định mức lãi suất kinh doanh của mình. CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG Ở CÁC NƯỚC PHÁT TRIỂN 2.1 Cơ chế điều hành lãi suất của Cục dự trữ Liên bang Mỹ (FED) Hiện nay, FED đang điều hành lãi suất thông qua hai công cụ quan trọng là lãi suất chiết khấu và lãi suất quỹ dự trữ liên bang Mỹ (FFR). Lãi suất chiết khấu của FED là lãi suất cho các trung gian tài chính vay để đáp ứng các như cầu đảm bảo thanh khoản và an toàn chi trả. Lãi suất tái cấp vốn của Việt Nam giống với lãi suất chiết khấu của Mỹ. Lãi suất quỹ dự trữ liên bang là lãi suất cho các trung gian tài chính vay qua đêm để đảm bảo đủ dự trữ bắt buộc theo quy định. Nguồn tiền cho vay được lấy từ quỹ dự trữ liên bang, hình thành bới số tiền dự trữ bắt buộc của tất cả các trung gian tài chính nhận tiền gửi. Lãi suất chiết khấu của Việt Nam giống với FFR. Khi FED cho các trung gian tài chính vay tiền để bù đắp thiếu hụt dự trữ bắt buộc, số tiền đó tuy được hạch toán báo có vào tài khoản trung gian tài chính tại FED nhưng các trung gian tài chính không được phép rút ra, ngay cả khi phá sản, do vậy FED không có nguy cơ mất số tiền đã cho vay dưới dạng này. Các trung gian tài chính nhận tiền gửi có thể vay mượn lẫn nhau để bù đắp thiếu hụt dự trữ bắt buộc chứ không nhất thiết phải vay từ FED. Tuy nhiên, lãi suất từ các khoản vay lẫn nhau (Lãi suất liên ngân hàng) thường cao hơn lãi suất quỹ dự trữ liên bang vì vấn đề rủi ro. Khi một trung gian tài chính cho đối tác vay liên ngân hàng, họ phải cắt tiền từ tài khoản tiền gửi của mình chuyển vào tài khoản tiền gửi của đối tác tại FED, từ lúc đó bên cho vay khòng còn thẩm quyền quản lý số tiền này nữa. Vì vậy, nguy cơ không thu hồi được tiền xuất hiện nên cho vay lẫn nhau đương nhiên phải cao hơn. Như vậy, Lãi suất quỹ dự trữ liên bang là lãi suất thấp nhất mà các trung gian tài chính nhận tiền gửi có thể vay được, vì vậy lãi suất này có khi được gọi là lãi suất cơ bản, lãi suất chuẩn. Về nguyên tắc, lãi suất liên ngân hàng thông thường sẽ thấp hơn lãi suất chiết khấu vì nếu không, các trung gian tài chính sẽ không vay liên ngân hàng mà sẽ vay từ FED để hưởng lãi suất chiết khấu thấp hơn. Lãi suất chiết khấu thường cao hơn lãi suất quỹ dự trữ liên bang. FED sẽ giữ lãi suất chiết khấu đã ấn định thông qua việc cho vay chiết khấu và giữ lãi suất quỹ dự trữ liên bang thông qua nghiệp vụ thị trường mở. Cách điều hành này của FED sẽ khiến cho lãi suất liên ngân hàng luôn có xu hướng biến động giữa lãi suất quỹ dự trữ liên bang (có vai trò như lãi suất sàn) và lãi suất chiết khấu (có vai trò như lãi suất trần) mà không phải đặt ra giới hạn bằng biện pháp hành chính. Cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Trung ương Anh (BOE) Từ ngày 18/5/2006, BOE công bố lãi suất chính thức, là lãi suất mà BOE trả cho khoản tiền dự trữ của các ngân hàng thương mại để tại BOE. Mức dự trữ là tự nguyện và các thành viên xác định mức cân bằng theo mục tiêu riêng của mình nhưng không thấp hơn mức trung bình bắt buộc trong kỳ duy trì. Lãi suất chính thức BOE công bố ở thời điểm hiện tại là 0,5%. Các NHTM được phép vay có bảo đảm hoặc gửi tiền ở BOE với lãi suất nằm trong biên độ +_1% so với lãi suất chính thức cho tất cả các ngày trong tháng. BOE sẽ sử dụng nghiệp vụ thị trường mở để tác động nhằm duy trì lãi suất qua đêm, lãi suất các kỳ hạn khác dưới ba tháng luôn nằm trong biên độ. Lãi suất của các khoản vay có kỳ hạn từ 3-12 tháng được xác định bởi các thành viên và không phụ thuộc vào biên độ so với lãi suất chính thức. Như vậy, lãi suất chính thức mà BOE công bố là lãi suất mang tính mục tiêu chứ không mang tính ấn định cụ thể và BOE sẽ giữ lãi suất đã công bố bằng nghiệp vụ thị trường mở. Cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) ECB ấn định 3 mức lãi suất chủ chốt khu vực đồng tiền Euro gồm: - Lãi suất cho hoạt động tái cấp vốn là mức lãi suất áp dụng cho các khoản vay nhằm đảm bảo thanh khoản cho hệ thống ngân hàng. Mức lãi suất cho hoạt động tái cấp vốn hiện nay của ECB là 1,75%. - Lãi suất cho các phương tiện tiền gửi thường xuyên áp dụng cho các khoản tiền gửi qua đêm của các ngân hàng với Cơ quan quan lý ngoại tệ khu vực đồng Euro. Mức lãi suất cho các phương tiện tiền gửi thường xuyên của ECB áp dụng từ ngày 13/5/2009 đến nay là 0,25%. - Lãi suất cho các phương tiện vay giới hạn, áp dụng cho các khoản vay qua đêm từ Cơ quan quan lý ngoại tệ khu vực đồng Euro. Mức lãi suất này hiện nay là 1%. ECB sẽ giữ lãi suất cho hoạt động tái cấp vốn chính bằng nghiệp vụ thị trường mở thông qua phương thức đấu thầu khối lượng hoặc đấu thầu lãi suất. Cùng với đó, NHTW của các quốc gia thành viên ECB có trách nhiệm giữ hai lãi suất chủ chốt còn lại thông qua hoạt động cho vay và nhận tiền gửi để lãi suất cho các phương tiện tiền gửi thường xuyên đóng vai trò lãi suất sàn, còn lãi suất cho các phương tiện vay giới hạn đóng vai trò lãi suất trần, lãi suất cho vay qua đêm sẽ dao động trong biên độ này. Như vậy, các lãi suất chủ chốt của ECB công bố đều mang tính chất mục tiêu, ECB sẽ bảo vệ lãi suất mục tiêu thông qua các công cụ chính sách tiền tệ của mình để hướng về lãi suất mục tiêu. 2.4 Cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Trung ương Úc (RBA) RBA ấn định mức lãi suất tiền mặt, là lãi suất mang tính mục tiêu nhằm tác động đến lãi suất cho vay qua đêm giữa các trung gian tài chính. Thông qua nghiệp vụ thị trường mở, RBA sẽ tác động để lãi suất cho vay qua đêm càng tiệm cận với lãi suất mục tiêu càng tốt. Thực tế thời gian qua thì RBA luôn thành công trong thực hiện cơ chế điều hành lãi suất. Lãi suất tiền mặt hiện tại của RBA là 4,75%. Cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Trung ương Nhật bản (BOJ) Kế từ ngày 11/8/2006, BOJ công bố lãi suất cho vay cơ bản và lãi suất chiết khấu cơ bản. Các NHTM sẽ vay chiết khấu từ BOJ khi không tìm được nguồn vay nào trên thị trường liên ngân hàng có chi phí thấp hơn chi phí vay từ BOJ, do đó lãi mà BOJ công bố nghiễm nhiên trở thành giới hạn trần của lãi suất cho vay qua đêm dù BOJ không đưa ra rào cản hành chính nào cho lãi suất cho vay qua đêm. Lãi suất cho vay cơ bản hiện nay của BOJ là 0,3%. Cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc (BOK) BOK ấn định mức lãi suất cơ bản. Hàng tháng BOK công bố mức lãi suất cơ bản dù có thay đổi hay không. Từ năm 2009 đến nay lãi suất cơ bản của BOK ổn định dao đọng quanh mức 2- 2, 75%. Mức lãi suất cơ bản hiện nay của BOK là 2,75%. Date Base Rate (%) 2011 13.Jan 2.75 2010 16.Nov 2.50 2010 09.Jul 2.25 2009 12.Feb 2.00 2009 09.Jan 2.50 2008 11.Dec 3.00 2008 07.Nov 4.00 2008 27.Oct 4.25 2008 09.Oct 5.00 2008 07.Aug 5.25 2008 07.Mar 5.00 Nguồn: Ngân hàng trung ương Hàn Quốc Nhận xét chung về cơ chế điều hành lãi suất của các nước phát triển Mỗi nước đều có tên gọi riêng cho lãi suất công bố của mình nhưng về bản chất điều hành thì không có sự khác biệt lớn giữa các nước và hầu hết đều có những đặc điểm sau đây: Lãi suất công bố là lãi suất mục tiêu, là định hướng để thị trường tham khảo đồng thời nó cũng thể hiện ý chí của NHTW. Sau khi công bố, NHTW sẽ sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ- thông thường là nghiệp vụ thị trường mở- để điều tiết lãi suất liên ngân hàng hướng đến lãi suất mục tiêu mà không hề dùng bất cứ biện pháp hành chính cụ thể nào. Việc điều chỉnh lãi suất của NHTW chỉ tác động trực tiếp đến các trung gian tài chính, không tác động trực tiếp đến khu vực dân chúng và doanh nghiệp. Định kỳ công bố lãi suất ngay cả khi không có điều chính) một cách rõ rang và công khai. Lãi suất được ấn định bởi hội đồng/ủy ban theo nguyên tắc bỏ phiếu bình đẳng giữa các thành viên hội đồng/ủy ban và kết quả bỏ phiếu đếu được công bố công khai sau đó. Điều này khiến cho các thành viên bỏ phiếu phải có trách nhiệm hơn khi quyết định lá phiếu của mình. CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM Cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) trước năm 2010 Trong một thời gian dài, từ cuối những năm 80 cho tới năm 2000, cơ chế lãi suất của Việt Nam luôn cố gắng duy trì mức lãi suất thực dương – như một giải pháp cho vấn đề lạm phát. Mục tiêu kiểm soát lạm phát đã đạt được. Thậm chí, có những thời điểm còn xuất hiện thiểu phát. Nếu chia lãi suất dương cho tỷ lệ lạm phát thì tỷ lệ này rất cao… Năm 1999 là 5.350% và năm 2000 là trên 6.000% . Lãi suất cao, trong tương quan với các nền kinh tế khu vực, là cơ hội tốt đầu tư vào trái phiếu Việt Nam trong thời kỳ này. Cơ chế điều hành lãi suất với một mức cơ bản kèm biên độ dao động được NHNN áp dụng kể từ tháng 8-2000 thay cho cơ chế lãi suất trần. Hai chỉ tiêu này được công bố chính thức định kỳ hàng tháng và điều chỉnh kịp thời trong trường hợp cần thiết. Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ, về cơ bản, các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng được ấn định lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung – cầu vốn trong nước của từng loại ngoại tệ. Đây là nền tảng cho việc xác định điểm cân bằng tỷ giá theo cách tính sức mua tương đương (PPP), từ đó, hình thành một cơ chế tự điều chỉnh. Đến tháng 5-2001, NHNN từng bước chuyển sang áp dụng hình thức cho vay bằng ngoại tệ. Từ cuối tháng 5/2002, Thống đốc đã có Quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN về việc thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng đồng Việt Nam của các ngân hàng đối với khách hàng. Trong đó quy định các ngân hàng xác định lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam trên cơ sở cung - cầu vốn thị trường và mức độ tín nhiệm của khách hàng vay; NHNN công bố lãi suất cơ bản nhưng với mục đích định hướng lãi suất thị trường và chỉ có ý nghĩa tham khảo đối với các ngân hàng khi ấn định lãi suất kinh doanh. Việc thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận trong những năm qua đã tạo điều kiện cho các ngân hàng chủ động trong việc huy động và cho vay vốn, tăng năng lực cạnh tranh, chủ động phòng ngừa rủi ro và hội nhập vào nền tài chính khu vực và quốc tế. Quyết định 546 ra đời trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang có sự tăng trưởng ổn định, lạm phát thấp chỉ ở mức 0,8% trong năm 2001 và chỉ tăng lên 4% trong năm 2002, tình hình thị trường tiền tệ và thị trường vốn cũng không có những dấu hiệu bất thường như hiện nay. Trước sự vận động bất lợi của thị trường chứng khoán và lạm phát tăng cao ngay từ đầu năm 2008, NHNN thực thi chính sách thắt chặt tiền tệ, sử dụng đồng thời các công cụ lãi suất và hoạt động thị trường mở. Công cụ lãi suất được phát huy tối đa, liên tục có điều chỉnh và triển khai quyết liệt. Từ giữa tháng 1-2008, dự trữ bắt buộc đã tăng thêm 1% với tiền gửi nội tệ và ngoại tệ từ không kỳ hạn tới dưới 12 tháng. Lãi suất tái cấp vốn cũng tăng gấp hai lần trong khoảng thời gian từ tháng 1 đến tháng 6-2008. Mức lãi suất chiết khấu so với cuối năm 2007 tăng thêm 8,5%, ở mức 13%/năm kể từ 10-6-2008. Thời điểm này, NHNN điều chỉnh lãi suất cơ bản lên 14%/năm. Với quy chế điều hành là cho phép tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh không vượt quá 150% lãi suất cơ bản, trần lãi suất cho vay lên tới 21%/năm. Đặc điểm đáng chú ý trong giai đoạn các ngân hàng gặp khó khăn thanh khoản này là lãi suất huy động ngắn hạn bằng, thậm chí cao hơn lãi suất huy động dài hạn. Điều này có nghĩa là hiện tại các ngân hàng chỉ chú trọng vào vốn ngắn hạn để đối phó với tình thế nóng trước mắt. Đối với các ngân hàng, điều dễ nhận thấy là cấu trúc tài sản nợ sẽ rủi ro hơn do qua biểu lãi suất huy động sẽ chỉ khuyến khích người dân gửi tiết kiệm ngắn hạn vì vừa được lời hơn lại vừa thanh khoản hơn. Đây là một nghịch lý bởi do đặc tính rủi ro của dòng vốn ngắn hạn rất lớn, nên trong điều kiện bình thường, các ngân hàng thường khuyến khích người dân gửi càng dài càng hay bằng mức lãi suất hấp dẫn hơn. Nếu các ngân hàng bất chấp chi phí để quyết huy động được số vốn cần thiết nhằm mua đủ lượng tín phiếu bắt buộc của NHNN thì rủi ro đối với hệ thống ngân hàng sau một tháng hay một vài tháng, khi các khoản tiền huy động có kỳ hạn ngắn trên đến hạn, ngân hàng lấy tiền đâu để hoàn trả cho khách hàng? Liệu có khả năng một cuộc chạy đua lãi suất lại tái diễn nhằm níu kéo khách hàng tiếp tục duy trì tiền gửi? Đây là một cảnh báo đáng lưu ý không chỉ đối với các NHTM mà cả NHNN trong việc bảo đảm sự an toàn trong hoạt động ngân hàng. Năm 2008 chứng kiến sự biến động mạnh của lãi suất với sự điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt và uyển chuyển của NHNN. Nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện theo cả hai hướng mở rộng và thắt chặt tiền tệ đã không tạo tác động đáng kể nào tới lãi suất. Trong tuần thứ ba của tháng 2-2008, NHNN bổ sung 33.000 tỉ đồng vào lưu thông nhưng các ngân hàng thương mại vẫn tiếp tục tăng lãi suất huy động tiền gửi. Thông báo phát hành 20.300 tỉ đồng tín phiếu bắt buộc được đưa ra vào giữa tháng 2-2008 và thực hiện một tháng sau đó. Trong bối cảnh mặt bằng lãi suất đang đi lên, rất khó xác định ảnh hưởng của nghiệp vụ này tới lãi suất. Trong tháng 6-2008, lãi suất huy động của các ngân hàng thương mại tiến gần tới trần lãi suất cho vay. Hiệu lực không thật rõ ràng của các nghiệp vụ thị trường mở vào thời kỳ lạm phát gia tăng là tín hiệu sự tồn tại bẫy thanh khoản trong hệ thống tín dụng, tại thời điểm đó. Nếu đúng vậy, điều chỉnh tăng dần các công cụ lãi suất là giải pháp hợp lý và sớm mang lại kết quả bình ổn thị trường tiền tệ. Đến ngày 17/05/2008, Ngân hàng Nhà nước thông báo những điều chỉnh trong chính sách điều hành lãi suất. Đó chính là Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam. Theo Quyết định này, các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh (lãi suất huy động và lãi suất cho vay) bằng đồng Việt Nam không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố áp dụng trong từng thời kỳ; quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30 tháng 5 năm 2002 về việc thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng VNĐ của tổ chức tín dụng đối với khách hàng hết hiệu lực thi hành. Việc huy động vốn bằng VNĐ của các tổ chức tín dụng phù hợp với quy định về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản. Cơ chế điều hành lãi suất của NHNN & lãi suất năm 2010 * Cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Theo điều 12 Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010 Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cơ bản và các loại lãi suất khác để điều hành chính sách tiền tệ, chống cho vay nặng lãi. Năm 2010, một năm đầy biến động của thị trường tiền tệ trong nước cũng như trên thế giới, một năm mà nền kinh tế nước ta gặp rất nhiều khó khăn trong giai đoạn phục hồi sau những ảnh hưởng từ biến động kinh tế thế giới 2008 – 2009. Trước những biến động đó, để thực hiện đồng bộ với
Tài liệu liên quan