Đề tài Đánh giá hiệu quả kinh doanh ở các doanh nghiệp nhà nước sau khi chuyển thành các Công ty Cổ phần

Từ nhiều năm nay, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều cố gắng, tập trung nỗ lực, đề ra những chủ trương, biện pháp, đổi mới Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) nhằm nâng cao hiệu quả và phát huy vai trò chủ đạo của nó trong nền Kinh tế Quốc dân (KTQD).

doc39 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1476 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá hiệu quả kinh doanh ở các doanh nghiệp nhà nước sau khi chuyển thành các Công ty Cổ phần, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu * Tính cấp thiết của đề tài. Từ nhiều năm nay, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều cố gắng, tập trung nỗ lực, đề ra những chủ trương, biện pháp, đổi mới Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) nhằm nâng cao hiệu quả và phát huy vai trò chủ đạo của nó trong nền Kinh tế Quốc dân (KTQD). Tuy nhiên, nhìn vào thực trạng hoạt động hiện nay của các Doanh nghiệp (DN), chúng ta thấy rằng, từ khi chuyển sang cơ chế thị trường, ngoài một bộ phận DN thích ứng kịp thời và phát triển có hiệu quả, vẫn còn không ít DNNN làm ăn khó khăn, dẫn đến thua lỗ kéo dài, nợ nần dây dưa, không trụ nổi buộc phải phá sản. Trong tình hình đó, Hội nghị lần thứ bẩy Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII, khi bàn về chính sách các thành phần Kinh tế, đã nhấn mạnh chủ trương:” tiếp tục xắp xếp lại, đổi mới và hoàn thiện cơ chế Quản lí DNNN, thực hiện từng bước cổ phần hoá một bộ phận DNNN v.v...” và coi đây là một trong những chính sách quan trọng để đẩy tới một bước sự nghiệp Công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Từ đó đến nay, các DNNN đã từng bước thực hiện theo đúng chính sách cũng như chủ trương của Đảng và Nhà nước đã làm ăn thế nào? ra sao? Điều đó đã và đang là vấn đề được mọi người quan tâm. Chính vì vậy, em chọn đề tài: Đánh giá hiệu quả kinh doanh ở các DNNN sau khi chuyển thành các Công ty Cổ phần * Mục đích nghiên cứu: Tìm hiểu về quá trình phát triển và hoạt động của các công ty cổ phần. Nghiên cứu và so sánh hiệu quả kinh doanh giữa công ty cổ phần và các DNNN Tìm hiểu một số biện pháp khắc phục những tồn tại của công ty cổ phần. Đề tài này của em gồm có 3 phần chính: Phần I: Những nét cơ bản về Cổ phần hoá (CPH). Phần II: Nhìn nhận kết quả kinh doanh của các DNNN sau khi CPH. Phần III: Các giải pháp và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh ở các công ty cổ phần. Do thời gian nghiên cứu có hạn và chưa được đi vào thực tế nên đề tài này của em vẫn còn một số thiếu sót em rất mong nhận được ý kiến chỉ bảo của các thầy các cô. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong TT.QTKDTH đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy giáo Ts.Vũ Kim Dũng- GĐ.TTQTKDTH đã trực tiếp hướng dẫn em thực hiện đề tài này. Phần I: Những nét cơ bản về Cổ Phần Hoá. Trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước theo đường lối đổi mới nhằm thúc đẩy Kinh tế Việt Nam tăng trưởng, nâng cao mức sống nhân dân, từng bước hội nhập vào nền Kinh tế Khu vực và Thế giới, cải thiện hình ảnh Việt Nam trên trường Quốc tế, thì việc chuyển đổi DNNN thành Công ty Cổ phần luôn được Đảng và Nhà Nươc chú trọng. Tuy nhiên, vấn đề này còn nhiều mới mẻ và mới chỉ thực hiện trong 10 năm qua. Vấn đề đặt ra ở đây là: - Công ty cổ phần là gì? - Tại sao các DNNN phải cổ phần hoá? - Mục tiêu của Đảng và Nhà nước khi CPH là gì? I: Cổ phần hoá. CPH hay nói cách khác là việc chuyển các DNNN thành các công ty cổ phần. 1.Công ty cổ phần (CTCP). CTCP là DN trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều cổ phần do tối thiểu 2 cổ đông sở hữu được phép phát hành chứng khoán và có tư cách pháp nhân, các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản của công ty trong phạm vi số vốn mà họ đóng góp. CTCP ra đời từ cuối thế kỷ XVI ở các nước phát triển. CTCP là sự hình thành một kiểu tổ chức DN trong nền Kinh tế thị trường (KTTT). Nó ra đời không nằm trong ý muốn chủ quan của bất cứ lực lượng nào mà là một quá trình Kinh tế khách quan. Ơ nước ta sau Đại hội Đảng VII vấn đề CPH mới trở nên sôi động và bắt đầu có những bước tiến hành thúc đẩy CPH. 2.Đặc điểm của CTCP . CTCP là loại hình DN có những đặc điểm chung sau: - CTCP là một tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân và các cổ đông chỉ có trách nhiệm pháp lí hưũ hạn trong phần góp vốn của mình. - Vốn điều lệ của công ty được chia thành các phần bằng nhau gọi là cổ phần. - Cổ đông có thể là một tổ chức, cá nhân, số lượng cổ đông tối thiểu là 3 và không hạn chế tối đa. - CTCP có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo quy định của Pháp luật về chứng khoán. - Cổ phiếu phát hành có thể có ghi tên hoặc không ghi tên. Cổ phiếu của sáng lập viên, của thành viên Hội đồng quản trị phải là những cổ phiếu có ghi tên. - Cổ phiếu không ghi tên được tự do chuyển nhượng. Cổ phiếu có ghi tên chỉ được chuyển nhượng nếu được sự đồng ý của Hội đồng quản trị. 3.Cơ cấu tổ chức và điều hành CTCP. Do đặc điểm nhiều chủ sở hữu trong CTCP nên các cổ đông không thể trực tiếp thực hiện vai trò sở hữu của mình mà phải thông qua tổ chức đại diện làm nhiệm vụ tổ chức trực tiếp Quản lý công ty bao gồm: Đại hội cổ đông, Hội đồng quản trị, Giám đốc điều hành và ban kiểm soát . - Đại hội cổ đông là cơ quan quyết định cao nhất của công ty là đại hội của những người đồng sở hữu đối với CTCP. - HĐQT là bộ máy quản lí của CTCP. Luật Công ty nước ta quy định HĐQT gồm từ 3 đến 12 thành viên. HĐQT có toàn quyền nhân danh công ty quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của công ty trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng. HĐQT bầu một thành viên làm Chủ tịch HĐQT. - Giám đốc điều hành là người điều hành hoạt động hàng ngày của công ty và chịu trách nhiệm trước HĐQT về việc thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn được giao. - Công ty cổ phần có số lượng uỷ viên kiểm soát tuỳ theo quy định trong điều lệ. Họ không phải là thành viên trong HĐQT và phải có ít nhất một người có nghiệp vụ kế toán. Như vậy, nguyên tắc của sự phân công quyền lực giữa các bộ phận trong cơ cấu tổ chức của CTCP đều phải đảm bảo quyền sở hữu , vai trò của chủ kinh doanh và sự kiểm soát của Đại hội cổ đông thể hiện ở những quy định trong điều lệ và hoạt động của ban kiểm soát. 4.Việc phân chia lợi nhuận trong CTCP Trong công ty cổ phần, quan hệ phân phối được thực hiện theo nguyên tắc góp vốn của các cổ đông và lệ thuộc trực tiếp vào lợi nhuận của công ty. Lợi nhuận của công ty sau khi dùng cho các khoản chung cần thiết còn lại chia đều cho các cổ phần. Tóm lại, sự thành công của phương pháp tổ chức sản xuất kinh doanh theo kiểu CTCP là do nó có các điểm mạnh sau: 1.CTCP thông qua thị trường chứng khoán có khả năng tập trung vốn nhanh và nhiều để đủ sức thực hiện các hoạt động sản xuất – kinh doanh với quy mô khổng lồ mà từng nhà tư bản, từng nhà kinh doanh riêng biệt không thể tự mình làm nổi. ở nước ta, để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế là cần phải huy động được nguồn vốn lớn và chỉ có hình thức thông qua thị trường chứng khoán các CTCP mới huy động được nguồn vốn nhàn rỗi từ các tầng lớp dân cư. 2. CTCP góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn: Do hình thức tự quyết định phương án kinh doanh của mình, tự cấp phát chi tiêu tài chính cộng thêm sự quản lí của các cổ đông nên buộc công ty phải phấn đấu nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn. Với việc gọi vốn thông qua thị trường chứng khoán CTCP đã rút ngắn được khoảng cách giữa việc huy động vốn và việc sử dụng vốn. Trong điều kiện hiện nay, Nhà nước có thể là một cổ đông từ đó có thể can thiệp nhanh chóng nhằm điều chỉnh cơ cấu kinh tế thúc đẩy sự phát triển điều tiết thị trường có hiệu quả. CTCP xác định rõ vốn của mỗi cổ đông thông qua cổ phiếu mà họ có đồng thời tách được quyền sở hữu với quyền quản lí kinh doanh từ đó tạo điều kiện cho các giám đốc chủ động linh hoạt trong việc tìm kiếm cơ hội kinh doanh cho công ty. 3.CTCP có khả năng phối hợp các lực lượng kinh tế khác nhau, duy trì được mối quan hệ kinh tế giữa các thành viên. Các thành viên này cùng tồn tại và phát huy những thế mạnh riêng do đó làm giảm sự ngưng trệ của nguồn vốn và những rủi ro trong kinh doanh. 4.CTCP là hình thức liên doanh tốt nhất để tranh thủ sự tham gia đầu tư của nước ngoài. Nhờ đó giúp cho các doanh nghiệp có đủ sức mạnh về vốn học tập được cách quản lí cũng như tranh thủ áp dụng những tiến bộ về khoa học công nghệ. II. Tại sao các doanh nghiệp phải cổ phần hoá ? 1.Thực trạng các DNNN trước khi cổ phần hoá. Các DNNN ở Việt Nam qua 50 năm phát triển đã có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong các giai đoạn lịch sử. Trong những năm gần đây, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, các DNNN đã từng bước đổi, sắp xếp tổ chức lại. Tuy nhiên, thời gian qua ngân sách Nhà nước đã phải đầu tư một tỷ trọng vốn lớn cho các DNNN nhưng hiệu quả thu lại được từ hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp này lại rất thấp. Qua số liệu điều tra năm 1993 của Tổng cục Thống kê cho thấy : - 15% trên tổng số DNNN làm ăn có lãi, - 7% DNNN hạch toán lỗ, - 78% DNNN kinh doanh không rõ lỗ hay lãi. Trong số 6544 DNNN đang hoạt động có tới 3268 doanh nghiệp thuộc diện đề nghị giải thể hoặc xin chuyển đổi hình thức sở hữu chiếm khoảng 49.95%. Như vậy, mặc dù đã qua nhiều lần tổ chức sắp xếp lại, nhưng nhìn chung các DNNN vẫn ở tình trạng rất khó khăn, yếu kém, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp và có xu hướng giảm dần. Số doanh nghiệp còn lại ở trong trạng thái không ổn định, không vững chắc. Công nợ trong các DNNN hiện nay quá lớn: - Nợ phải thu chiếm 60%, - Nợ phải trả bằng 124% tổng số vốn trong các doanh nghiệp. Với tình trạng thua lỗ và nợ nần như vậy nếu không có sự bảo trợ của Nhà nước để cơ chế thị trường sàng lọc đào thải thì nhiều DNNN từ lâu đã phải tuyên bố phá sản. 2.Nguyên nhân của tình trạng này. Đã có nhiều phân tích về những nguyên nhân này. Có thể thấy rằng những yếu kém là do: - Quy mô của các DNNN phần lớn nhỏ bé lại chồng chéo về ngành nghề và cơ quan quản lí; - Các doanh nghiệp phổ biến là ở trong tình trạng luôn thiếu vốn trầm trọng. Đến 60% DNNN không đủ vốn pháp định, 50% DNNN chưa đủ vốn lưu động nên phải đi vay; - Trình độ kĩ thuật công nghệ lạc hậu. Phần lớn các DNNN có trang thiết bị được nhập về từ các nước phát triển với thế hệ đã cũ; - Lao động trong các DNNN dôi dư nhiều mà việc bố trí lại rất khó khăn. Như vậy, những vấn đề trên là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tình trạng yếu kém thua lỗ của nhiều DNNN. Song cần phải đặt câu hỏi là vì sao các DNNN luôn thiếu vốn? Trình độ kĩ thuật lạc hậu? Lao động thì dư thừa ... Qua nghiên cứu, có thể nhận thấy nổi cộm lên vẫn là những nguyên nhân sau: Thứ nhất, đó là sự ảnh hưởng nặng nề của nền Kinh tế kế hoạch hoá tập trung cao độ trong điều kiện chiến tranh kéo dài, tư duy không đúng của mô hình Chủ nghĩa xã hội trước đây. Từ đó dẫn tới hậu quả là việc hạch toán kinh doanh mang tính hình thức, các DNNN không có quyền tự chủ trong kinh doanh mà chỉ là người sản xuất cho Nhà nước. Do vậy các DNNN luôn ỷ lại và rất xa lạ với mô hình doanh nghiệp theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước. Tiếp đến là sự yếu kém của nền kinh tế, chủ yếu là lực lượng sản xuất. Biểu hiện rõ ở việc phát huy các nguồn lực sãn có, cơ sở hạ tầng thấp kém, khả năng chi trả kém hiệu quả do chưa có tích luỹ. Thứ ba là trình độ quản lí Kinh tế còn hạn chế, hệ thống Luật pháp cũng như các chính sách quản lí chưa đồng bộ nên tạo cho hoạt động quản lí Nhà nước tệ cửa quyền thủ tục hành chính quá rườm rà phức tạp. Một nguyên nhân nữa đó là trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường Đảng và Nhà nước đã thực hiện chậm và không cương quyết trong việc cải cách chế độ sở hữu trong các DNNN từ đó dẫn đến tình trạng lãng phí cộng thêm nạn tham nhũng nghiêm trọng. Qua đó, có thể thấy rằng các DNNN ỏ nước ta do yếu tố lịch sử để lại đã và đang đóng góp vai trò to lớn gần như tuyệt đối trong nhiều lĩnh vực của nền Kinh tế quốc dân nhưng lại hoạt động kém hiệu quả và phát sinh nhiều tiêu cực. Quá trình chuyển đất nước sang nền Kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước tất yếu phải đổi mới căn bản DNNN. Đây là một mâu thuẫn lớn, song bắt buộc phải kiên trì đổi mới, có giải pháp và bước đi phù hợp với trình độ thực tế cơ sở. Để xử lí các tình trạng hiện nay của DNNN, Đảng và Nhà nước đã chủ trương biện pháp CPH một số DNNN là đúng đắn. III: Mục tiêu của Nhà nước khi tiến hành CPH. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã xác định: “ Triển khai tích cực và vững chắc việc cổ phần hoá DNNN để huy động thêm vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy DNNN làm ăn có hiệu quả, làm cho tài sản Nhà nước ngày càng tăng lên, không phải để tư nhân hoá. Bên cạnh những doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước sẽ có nhiều DNNN nắm đa số hay tỷ lệ cổ phần chi phối. Gọi thêm cổ phần hoặc bán cổ phần cho người lao động tại doanh nghiệp, cho các tổ chức và cá nhân ngoài doanh nghiệp tuỳ từng trường hợp cụ thể, vốn huy động phải được dùng để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh.” Như vậy Nhà nước chủ trương chuyển một số DNNN thành CTCP là nhằm mục tiêu: * Đầu tiên là huy động vốn của toàn xã hội bao gồm các cá nhân, các tổ chức kinh tế, các tổ chức xã hội trong và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu DNNN; * Thứ hai, tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những người đã đóng góp vốn được làm chủ thực sự, thay đổi phương thức quản lí, tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, làm tăng tài sản của Nhà nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng Kinh tế đất nước; *Thứ ba, là nhằm giảm bớt các DNNN để giảm bớt ngân sách vì đa số các doanh nghiệp này làm ăn kém hiệu quả. Mục tiêu này là mục tiêu chính vì nếu chỉ nhằm hai mục tiêu trên thì Nhà nước chỉ cần khuyến khích thành lập các CTCP. Tuy nhiên, CPH là phương thức huyđộng vốn bằng bán cổ phiếu tạo điều kiện cho người lao động trực tiếp thực hiện quyền làm chủ bằng cổ phiếu của mình, góp phần thực hiện công bằng xã hội, đó là mục tiêu của Chủ nghĩa xã hội. Hơn nữa, khi chuyển DNNN sang CTCP sẽ có lợi thế hơn so với thành lập CTCP mới là nó vẫn giữ được tính chất DNNN như: - Phát triển sản xuất không tách rời thực hiện các nghĩa vụ xã hội theo đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước; - Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lí của Nhà nước như mọi thành viên khác trong xã hội. - Đặc biệt CPH không phải là tư nhân hoá sẽ không có một cá nhân nào hay một gia đình nào chiếm trên 50% cổ phiếu của công ty để có thể biến nó thành sở hữu tư nhân. Nhưng CPH không có nghĩa là mọi chuyện vẫn như cũ, phương thức kinh doanh và tổ chức quản lí có sự chuyển đổi rất lớn. Do không thể ỷ vào Nhà nước nênGiám đốc và Chủ tịch HĐQT phải tự tìm cách phát triển doanh nghiệp đi lên, thành công trên thị trường. Phần II: Nhìn nhận kết quả kinh doanh của các CTCP. CTCP phải nhấn mạnh thêm rằng đây là loại hình doanh nghiệp mới ở Việt Nam, trong cơ chế cũ chưa có loại hình doanh nghiệp này. Nhưng chỉ sau ít năm được thể chế hoá, loại hình doanh nghiệp này đã chứng tỏ được những lợi thế rõ rệt của mình. Đa số các CTCP được thành lập và chuyển đổi từ sau năm 1991. Chủ yếu tập trung ở hai thành phố lớn đó là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.Vậy quá trình CPH diễn ra như thế nào? hiệu quả hoạt động kinh doanh ra sao? I: Nội dung cổ phần hoá. Đối tượng áp dụng thí điểm CPH là những doanh nghiệp Nhà nước hội tụ đủ ba điều kiện: - Quy mô vừa và nhỏ; - Không thuộc diện Nhà nước giữ 100% vốn đầu tư; - Có phương án kinh doanh hiệu quả. Như vậy đẩy nhanh quá trình CPH các DNNN, những năm qua Chính phủ đã triển khai phân loại và tiếp tục sắp xếp các DNNN thuộc vào diện chuyển đổi. Có thể phân loại thành các nhóm như sau: *Nhóm một: gồm những doanh nghiệp quan trọng, cần duy trì hoạt động theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước để phát huy vai trò nòng cốt và dẫn dắt trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá . Nhóm này vẫn cần duy trì 100% vốn của Nhà nước. * Nhóm hai: gồm những doanh nghiệp cần chuyển đổi cơ cấu sở hữu. Đó là những doanh nghiệp không cần duy trì 100% vốn của Nhà nước. * Nhóm ba: gồm những doanh nghiệp bị thua lỗ kéo dài, không trả được các khoản nợ, không đủ nộp Thuế cho Nhà nước, không trích được BHXH trong vòng hai năm liên tục. Bên cạnh việc sắp xếp và phân loại Nhà nước còn tăng cường công tác tuyên truyền để công tác cổ phần hoá được tiến hành nhanh chóng và có hiệu quả cũng như có những ưu đãi đối với doanh nghiệp và công nhân viên: Đối với doanh nghiệp: được giảm thuế lợi tức 50% trong hai năm liên tiếp từ khi chuyển sang hoạt động theo Luật công ty. Được miễn lệ phí trước bạ đối với việc chuyển nhượng những tài sản thuộc quyền quản lí và sử dụng của DNNN cổ phần hoá. Được tiếp tục vay vốn ngân hàng thương mại của Nhà nước theo các chế độ và lãi suất đã áp dụng đối với DNNN. Được tiếp tục xuất nhập khẩu hàng hoá theo các chế độ quy định của Nhà nước. Được sử dụng quỹ khen thưởng và phúc lợi ( bằng tiền ) chia cho công nhân viên đang làm việc để mua cổ phiếu, được duy trì phúc lợi dưới dạng hiện vật. Đối với CBCNV trong DNNN cổ phần hoá: được cấp một số cổ phiếu theo thâm niên và chất lượng công tác của từng người để hưởng cổ tức, được thừa kế cho con làm ở CTCP nhưng không được chuyển nhượng, những cổ phần này thuộc Nhà nước quản lí. Được mua chịu một số cổ phiếu trả chậm trong 5 năm với lãi suất 4%/năm. Được tiếp tục làm việc tại CTCP, sau 12 tháng nếu công ty tổ chức lại hoạt động kinh doanh, nâng cao trình độ công nghệ dẫn đến dư thừa lao động thì người mất việc làm được hưởng 1/2tháng lương cho mỗi năm công tác. Phương án tổng hợp ban đầu của hai thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh. Đơn vị tính TP HC M TP Hà Nội 1.Tổng số DNNN trên địa bàn đơn vị 709 880 2. Dự kiến phương án sắp xếp đến năm 2000 a.Giữ nguyên 100% vốn Nhà nước Tỷ lệ so với DN hiện có đơn vị % 375 50,3 406 48,5 b.Cổ phần hóa đơn vị 296 310 2.1 DN thuộc TW 317 494 a.Giữ nguyên 100% vốn NN Tỷ lệ so với số DN hiện có đơn vị % 158 48,8 337 68,2 b.Cổ phần hoá đơn vị 126 133 2.2.DN trực thuộc địa phương 392 328 a.Giữ nguyên 100% vốn NN Tỷ lệ so với DN hiện có đơn vị % 199 50,5 103 41,4 b. Cổ phần hoá đơn vị 170 177 Nguồn: Tổng cục thống kê. Có thể nhận thấy Nhà nước đã kiên quyết và dứt khoát hơn trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Chủ trương chuyển phần lớn DNNN sang các CTCP là một trong những giải pháp cơ bản và cần thiết. Nhà nước đã xây dựng các văn bản pháp lí để thực hiện chủ trương này. Điều đó phù hợp với quá trình hình thành nền kinh tế thị trường ở Việt Nam và phù hợp với xu thế chung của thế giới. II: Quá trình triển khai cổ phần hoá. Quá trình này được chia làm hai giai đoạn là giai đoạn thí điểm và giai đoạn mở rộng. 1.Giai đoạn thí điểm 1992 – 1995. Trong giai đoạn này, theo quyết định số 202/CT và Chỉ thị số 84/TTg của Thủ tướng Chính phủ đã chuyển được 5 DNNN thành công ty cổ phần là: - Công ty Đại lý liên hiệp vận chuyển thuộc Bộ giao thông vận tải (1993) - Công ty Cơ điện lạnh thuộc UBND TP Hồ Chí Minh (1993) - Xí nghiệp Giày Hiệp An thuộc Bộ công nghiệp (1994) - Xí nghiệp chế biến hàng xuất khẩu thuộc UBND tỉnh Long An(1995) - Xí nghiệp chế biến thức ăn gia súc thuộc Bộ NN & phát triển nông thôn (1995) Trong 5 doanh nghiệp nói trên thì có 4 doanh nghiệp thuộc địa bàn TP Hồ Chí Minh, 1 doanh nghiệp thuộc tỉnh Long An. Qua 5 năm thí điểm, mới chỉ có 5 doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi, quá trình này diễn ra quá chậm so với chủ trương mà Đảng & Nhà nước đã đề ra. 2.Giai đoạn mở rộng từ năm 1996 đến nay. Từ cơ sở đánh giá các ưu điểm và tồn tại trong giai đoạn 1992 đến 1995, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 28/CP ngày 7/5/1996 nhằm xác định rõ giá trị doanh nghiệp, chế độ ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp và bộ máy tổ chức giúp Thủ tướng chính phủ chỉ đạo công tác cổ phần hoá DNNN, đồng thời giao nhiệm vụ cho các Bộ, các địa phương hướng dẫn và tổ chức thực hiện công tác này. Tính từ năm 1991 đến năm1997,theo số liệu thống kê tổng số DNNN hoàn thành việc CPH và hoạt động theo Luật công ty lên 18 doanh nghiệp. Phân theo ngành : Ngành GTVT 4 doanh nghiệp Ngành xây dựng 1 doanh nghiệp Ngành chế biến Nông lâm thuỷ sản 3 doanh nghiệp Ngành công nghiệp 7 doanh nghiệp Ngành dịch vụ 3 doanh nghiệp Phân theo lãnh thổ TP Hồ Chí Minh 10 doanh nghiệp TP Hà Nội 1 doanh nghiệp TP Hải Phòng 1 doanh nghiệp Tỉnh Long An 1 doanh nghiệp Tỉnh Ninh Bình 1 doanh nghiệp Tỉnh Bình Định 1 doanh nghiệp Tỉnh Cà Mau 1doanh nghiệp Tỉnh An Giang 1 doanh nghiệp TP Đà Nẵng 1doanh nghiệp Hầu hết
Tài liệu liên quan