Đề tài Giá trị thông báo của tay và nét mặt trong hệ thống giao tiếp phi lời ở người Việt

Hàng ngàn năm qua, ngôn ngữ đã trở thành công cụ tư duy và phương tiện giao tiếp đặc biệt quan trọng, giúp con người biểu đạt nội dung thông tin, chia sẻ suy nghĩ, tình cảm Vì thế, quan niệm truyền thống luôn coi ngôn ngữ đóng vai trò độc tôn trong giao tiếp mà lãng quên vai trò của cử chỉ, điệu bộ (ngôn ngữ phi lời). Tuy nhiên, thực tế cho thấy thông điệp mà người nói chuyển tải bằng ngôn từ chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ, trong khi giao tiếp bằng ngôn ngữ không lời chiếm tỉ lớn hơn nhiêù. Càng quan tâm đến vấn đề giao tiếp, người ta càng thấy là không thể bỏ qua vai trò của cử chỉ, điệu bộ. Sự hiểu biết thấu đáo về ngôn ngữ cử chỉ rất cần thiết cho việc giao tiếp trong đời sống cộng đồng. Với muôn vàn tình huống khác nhau trong sinh hoạt đời thường, không phải ai và không phải bất cứ lúc nào người ta cũng biết cách sử dụng cử chỉ điệu bộ đúng mực và hợp phong cách. Biết biểu hiện bằng ngôn ngữ cử chỉ điệu bộ đúng lúc, đúng tình huống sẽ nâng cao hiệu quả giao tiếp, có khi còn hơn cả ngôn ngữ có lời. Trong giao tiếp phi lời, cử chỉ điệu bộ của tay và nét mặt đóng vai trò quan trọng hơn cả, bởi chúng có tấn số xuất hiện cao, giá trị thông báo lớn hơn nhiều so với các bộ phận khác trên cơ thể. Đó là những hành vi quen thuộc, gần gũi xung quanh, dễ dàng bắt gặp tuy nhiên lại ít khi được mọi người lưu tâm mà thường chỉ coi chúng như bản năng tự nhiên. Vì niềm hứng thú tìm hiểu của bản thân và nhận thấy vị trí quan trọng của cử chỉ, điệu bộ tay và nét mặt trong giao tiếp, chúng tôi đã nảy ra ý định thực hiện đề tài nghiên cứu: “Giá trị thông báo của tay và nét mặt trong hệ thống giao tiếp phi lời ở người Việt”.

doc41 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1647 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giá trị thông báo của tay và nét mặt trong hệ thống giao tiếp phi lời ở người Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Giá trị thông báo của cử chỉ tay và nét mặt trong hệ thống giao tiếp phi lời ở người việt LỜI NÓI ĐẦU Việc thực hiện và hoàn thành niên luận đối với mỗi sinh viên là vô cùng quan trọng. Để hoàn thành niên luận này, trước hết em xin chân thành cảm ơn sự dạy dỗ tận tình của các thầy cô giáo trong Khoa Ngôn ngữ. Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo và giúp đỡ tận tình của giáo viên hướng dẫn: Thầy Nguyễn Văn Khang, người đã trực tiếp hướng dẫn em hoàn thành niên luận này. Do hạn chế về thời gian và giới hạn về kiến thức, niên luận này không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được những ý kiến nhận xét, đóng góp của các thấy cô giáo và các bạn để niên luận được hoàn chỉnh hơn. I. MỞ ĐẦU 1. Lý do nghiên cứu Hàng ngàn năm qua, ngôn ngữ đã trở thành công cụ tư duy và phương tiện giao tiếp đặc biệt quan trọng, giúp con người biểu đạt nội dung thông tin, chia sẻ suy nghĩ, tình cảm…Vì thế, quan niệm truyền thống luôn coi ngôn ngữ đóng vai trò độc tôn trong giao tiếp mà lãng quên vai trò của cử chỉ, điệu bộ (ngôn ngữ phi lời). Tuy nhiên, thực tế cho thấy thông điệp mà người nói chuyển tải bằng ngôn từ chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ, trong khi giao tiếp bằng ngôn ngữ không lời chiếm tỉ lớn hơn nhiêù. Càng quan tâm đến vấn đề giao tiếp, người ta càng thấy là không thể bỏ qua vai trò của cử chỉ, điệu bộ. Sự hiểu biết thấu đáo về ngôn ngữ cử chỉ rất cần thiết cho việc giao tiếp trong đời sống cộng đồng. Với muôn vàn tình huống khác nhau trong sinh hoạt đời thường, không phải ai và không phải bất cứ lúc nào người ta cũng biết cách sử dụng cử chỉ điệu bộ đúng mực và hợp phong cách. Biết biểu hiện bằng ngôn ngữ cử chỉ điệu bộ đúng lúc, đúng tình huống sẽ nâng cao hiệu quả giao tiếp, có khi còn hơn cả ngôn ngữ có lời. Trong giao tiếp phi lời, cử chỉ điệu bộ của tay và nét mặt đóng vai trò quan trọng hơn cả, bởi chúng có tấn số xuất hiện cao, giá trị thông báo lớn hơn nhiều so với các bộ phận khác trên cơ thể. Đó là những hành vi quen thuộc, gần gũi xung quanh, dễ dàng bắt gặp tuy nhiên lại ít khi được mọi người lưu tâm mà thường chỉ coi chúng như bản năng tự nhiên. Vì niềm hứng thú tìm hiểu của bản thân và nhận thấy vị trí quan trọng của cử chỉ, điệu bộ tay và nét mặt trong giao tiếp, chúng tôi đã nảy ra ý định thực hiện đề tài nghiên cứu: “Giá trị thông báo của tay và nét mặt trong hệ thống giao tiếp phi lời ở người Việt”. 2. Lịch sử nghiên cứu Ngược lại lịch sử xa xưa của loài người, ta thấy vai trò của cử chỉ điệu bộ trong giao tiếp là vô cùng to lớn. Bởi vì, trước khi “ngôn ngữ thính giác” bắt đầu được hình thành (khoảng 5000 hay 4000 năm trước công nguyên) thì cử chỉ điệu bộ chính là ngôn ngữ cổ xưa nhất của loài người. Những khai quật khảo cổ học đã chứng minh điều đó. Ở Mêhicô, người ta đã tìm thấy những bức tranh tường, những đồ gốm, trên đó, có thể hình dung được cách đây hàng ngàn năm, những người Indien Maia đã “nói với nhau bằng điệu bộ”như thế nào:ngón trỏ của tay phải chỉ ra phía trước để hỏi “mấy?”.Bàn tay trái chỉ vào tai để bảo “hãy cẩn thận”, “hãy chú ý” hoặc là “hãy nghe”.Tuy nhiên, ngôn ngữ cử chỉ khi ấy chưa thực sự được nghiên cứu. Một nhà nghiên cứu ngôn ngữ cử chỉ sửng sốt nhận ra rằng: “Tưởng chừng như vô lý là trong một triệu năm tiến hóa của loài người, vấn đề giao tiếp không lời chỉ mới bắt đầu được nghiên cứu nghiêm túc, mang tính hệ thống, khoa học từ đầu những năm sáu mươi (của thế kỉ này), và “Thậm chí ngày nay, số đông vẫn còn chưa biết đến sự tồn tại của ngôn ngữ cử chỉ, dù nó rất quan trọng đối với đời sống của họ”.Vì thế, người ta cùng không khỏi ngạc nhiên về “sự phát triển bỗng nhiên” của những nghiên cứu dành cho vấn đề này trong những năm gần đây. Ở Việt Nam, ngôn ngữ phi lời mới được một số ít người nghiên cứu như: Nguyễn Quang, Phi Tuyết Hinh, Đỗ Thanh, Mai Xuân Huy, Thục Khánh…Phần lớn là những bài viết mang tính khái quát, đăng trên các tạp chí, chưa đi vào nghiên cứu một cách cụ thể, chuyên sâu. 3. Đối tượng nghiên cứu Cử chỉ điệu bộ của tay và nét mặt trong giao tiếp phi lời ở người Việt. 4. Phạm vi nghiên cứu Ngôn ngữ phi lời bao gồm các phương tiện giao tiếp không dùng đến âm thanh (không được tiếp nhận qua thính giác) như: cử chỉ, điệu bộ, ánh mắt, điệu mặt (gọi chung là ngôn ngữ cử chỉ hay ngôn ngữ thân thể), như khoảng cách trong giao tiếp, các tín hiệu màu sắc, mùi vị… Như vậy, ngôn ngữ phi lời là phạm trù rộng. Trong phạm vi bài niên luận này, chúng tôi chỉ đề cập đến một phần của ngôn ngữ thân thể là cử chỉ điệu bộ của tay và nét mặt. 5. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài nghiên cứu này, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Quan sát các hành vi cử chỉ, điệu bộ của tay và nét mặt trong thực tế - Nghiên cứu tài liệu liên quan - Ghi chép, thu thập, thống kê, phân loại (theo hình thức, giá trị biểu đạt…) các cử chỉ điệu bộ của tay và nét mặt cả trong thực tế và trong tài liệu. - Miêu tả, so sánh các cử chỉ điệu bộ đã thu thập - Phân tích, đánh giá ý nghĩa thông báo của từng cử chỉ đó, xem xét trong thực tiễn hoạt động giao tiếp. II. NỘI DUNG 1. Tổng quan về ngôn ngữ cử chỉ 1.1. Quan niệm về ngôn ngữ cử chỉ Trong cuộc sống hằng ngày, mỗi cử chỉ, điệu bộ của chúng ta đều mang theo nó một vài nét của tâm lý cá nhân, đó là sự thể hiện ra bên ngoài những tình cảm bên trong. Loại giao tiếp phi văn tự này có tên là “ngôn ngữ cơ thể” hay “ngôn ngữ cử chỉ, điệu bộ” (gọi tắt là ngôn ngữ cử chỉ). Qua các nghiên cứu của về loại ngôn ngữ cử chỉ này, các nhà tâm lý coi cơ thể con người như là một “trạm thu phát thông tin”, nó “phát đi” các động tác, cử chỉ, nét mặt và các loaị ngôn ngữ vô thanh khác, thường có tác dụng rất lớn trong việc bổ sung ý nghĩa cho ngôn ngữ của âm thanh, hoặc bộc lộ rõ những ý đồ giả tạo, không trung thực. Điều này cho chúng ta diễn đạt chính xác và hoàn chỉnh tư tưởng của mình, đồng thời hiểu rõ được người khác. Có nhà nghiên cứu đã đánh giá một cách hình ảnh rằng: “Thân thể của con người là một quyển sách của tâm hồn và quyển sách ấy đã lật ra, chỉ còn việc nhìn vào đấy”, “Tiếng nói của thân thể bao giờ cũng là tiếng nói thật, dù cho người nào đó có khéo léo che đậy sự thật bản chất của mình, thì trước sau người đó cũng bị lật tẩy qua những trang sách thân thể của mình”( Nguyễn Văn Lê, [3], tr. 144, 145). Trong tất cả các bài phát biểu và khoa học tâm lý, khái niệm mà người ta thường được gán cho ngôn ngữ cử chỉ là những hành vi vô thức của cơ thể, biểu hiện một dạng thông điệp. Mặc dù sự phân cách giữa hai loại: ngôn cử chỉ vô thức và có ý thức vẫn còn đang tranh cãi (Chẳng hạn, một nụ cười có thể tạo ra một các có chủ định hoặc không). Có thể hiểu một cách chung nhất, ngôn ngữ cử chỉ là sự pha trộn của các cử chỉ, điệu bộ, động tác, tư thế, dáng điệu và ngữ điệu giọng nói. Đây là một dạng giao tiếp sử dụng cử chỉ, điệu bộ của cơ thể để thay cho âm thanh, tiếng nói và các dạng giao tiếp khác. Ngôn ngữ cử chỉ là một bộ phận quan trọng của ngôn ngữ giao tiếp phi lời, nó bao gồm ngôn ngữ của đầu, mặt , mày , chân, tay,…Và cũng có thể nói hầu hết các bộ phận trên cơ thể chúng ta đều có khả năng truyền tải thông tin. Trong giới hạn bài niên luận này, chúng tôi chỉ đi vào tìm hiểu giá trị thông báo của cử chỉ tay và nét mặt. 1.2. Cơ sở chung về ngôn ngữ cử chỉ Vào thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX, “Thuyết ngôn ngữ cử chỉ” trở nên thịnh hành. Những người chủ trương thuyết này cho rằng ban đầu con người chưa có ngôn ngữ thành tiếng, để giao tiếp với nhau, người ta dùng tư thế của thân thể và của tay. Vuntơ (thế kỉ XIX) cho rằng điệu bộ về nguyên tắc cũng giống như âm thanh, dù là điệu bộ tay hay âm thanh cũng là động tác biểu hiện. Marr (Đầu thế kỉ XX) khẳng định ngôn ngữ cử chỉ tồn tại cách đây 1 triệu đến 1 triệu rưỡi năm còn ngôn ngữ âm thanh chỉ tồn tại cách đây 5 vạn đến 50 vạn năm. Theo ông, ngôn ngữ cử chỉ có thể biểu thị tư tưởng, khái niệm hình tượng hoá, có thể dùng làm công cụ giao tiếp giữa các thành viên trong cùng một bộ lạc, với các bộ lạc khác, có thể dùng làm công cụ phát triển khái nịêm của mình. Phải đến thế kỉ XX giao tiếp phi ngôn ngữ mới được quan tâm một cách thực sự. Giao tiếp phi ngôn ngữ là giao tiếp thông qua các cử chỉ hoạt động của cơ thể như nét mặt, cách nhìn, điệu bộ và khoảng cách giao tiếp. Có rất nhiều học thuyết nghiên cứu về loại hình giao tiếp này nhưng nổi bật nhất vẫn là “Học thuyết tâm lý tinh thần” và “Học thuyết hành vi cư xử”. Trong “Học thuyết tâm lý tinh thần”, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng con người dù ở bất cứ một nền văn hoá nào cũng đều có sáu trạng thái tâm lý ( hạnh phúc, buồn khổ, giận giữ, sợ hãi, ghét, ngạc nhiên ) và tất cả các trạng thái tâm lý đó do sự chi phối của não tạo ra những thay đổi trên mặt nhưng theo hai dạng là tự nhiên và xã giao có mục đích. Trong một thử nghiệm về ảnh hưởng của não đến các nét mặt của con người, thực nghiệm đã cho thấy khi các nét mặt bị tê liệt, người ta không thể cười có mục đích (như để tạo ra sự thân mật ) nhưng vẫn có thể cười một cách tự nhiên khi có điều làm họ bất ngờ. Và ngược lại cũng có trường hợp, một người có thể cười một cách xã giao nhưng lại không thể cười một cách thoải mái được. Tuy nhiên, học thuyết này lại lại nêu ra nhiều điều tranh cãi. Ngôn ngữ cử chỉ là những từ ngữ được quy ước để chỉ các trạng thái tâm lý, bản thân các trạng thái tâm lý này lại không được định nghĩa một cách rõ ràng, chính thức thông qua bất cứ loại hình sách vở nào. Trong “Học thuyết hành vi cư xử”, các nhà khoa học lại cho thấy không có mối cảm xúc cơ bản cũng như không có biểu hiện cơ bản mà đơn giản chỉ là các hành vi cư xử mang mục đích xã hội. Nét mặt chính là biểu hiện của những việc chúng ta muốn làm hay có ý định làm. Có thể lấy ví dụ trạng thái tức giận (như Học thuyết tâm lý tinh thần đã nêu ) chính là sự mô tả về hành vi sẵn sàng để tấn công đối thủ. Nhưng nói một cách khác, không phải lúc nào cử chỉ của con người cúng mang thông điệp hay chủ đích như vậy. Giả sử như chúng ta ngáp, điều này lại khiến cho ban tổ chức nghĩ rằng chúng ta cảm thấy chán, buồn ngủ với nội dung chương trình. Có rất nhiều ý kiến cho rằng ngôn ngữ cơ thể bắt nguồn từ giao tiếp động vật .Mối liên quan giữa ngôn ngữ cơ thể và sự giao tiếp của động vật đã được bàn đến từ lâu. Ngôn ngữ cơ thể là sản phẩm của cả gen (Những đứa trẻ mù cũng mỉm cười và cười to ngay cả khi chúng không bao giờ biết đến nụ cười ) và ảnh hưởng của môi trường. Nhà phong tục học người Iran, Eibl-Eibesfeldt khẳng định rằng một trong số yếu tố cơ bản của loại ngôn ngữ này là đặc điểm chung của nền văn hoá và vì thế gắn với những hành động bản năng. Một số dạng ngôn ngữ cơ thể người có tính kế thừa từ cử chỉ giao tiếp của các loài linh trưởng khác, mặc dù thường mang những thay đổi về ý nghĩa. Nhiều cử chỉ tinh tế hơn thay đổi theo các nền văn hoá (chẳng hạn điệu bộ diễn tả “Có” hoặc “Không” ) bắt buộc phải được học hoặc thay đổi trong quá trình học hỏi, thường do quan sát vô thức từ môi trường. 2. Hệ thống cử chỉ, điệu bộ của tay và nét mặt trong giao tiếp ở người Việt 2.1. Phân loại Trong giao tiếp, do bị chi phối bởi các yếu tố tâm lý, dân tộc, xã hội nên những biểu hiện cụ thể của cử chỉ, điệu bộ rất phong phú đa dạng. Tuy nhiên có thể quy lại và phân thành 4 loại chính: 1. Cử chỉ mô phỏng 2. Cử chỉ tượng trưng 3. Cử chỉ thuyết minh 4. Cử chỉ hàm chỉ Đối tượng nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ chỉ là cử chỉ thuyết minh và cử chỉ hàm chỉ. 2.1.1. Cử chỉ thuyết minh Là cử chỉ đi kèm với các hành vi lời nói biểu thị sự khẳng định, phủ định, ngạc nhiên, nghi ngờ, giễu cợt… Loại cử chỉ này làm nên sức biểu hiện của nội dung được thông báo bằng lời. Tuy vậy, khi viết trên văn bản, nếu loại ra các yếu tố cử chỉ, điệu bộ thuyết minh thì nội dung từng lời nói vẫn được đảm bảo, sự nối kết vẫn được duy trì. Như vậy, loại cử chỉ thuyết minh này không có giá trị liên kết lời nói mà chỉ có giá trị bổ sung, làm rõ ý nghĩa và sắc thái cho ngôn từ. VD: - (Xua tay). Không phải nói nữa, tôi biết hết rồi! - (Bẻ đốt ngón tay). Em… em không biết ạ. - (Lắc đầu). không, không phải nó. - (Bĩu môi). Gớm, tôi chả thiết - …. 2.1.2. Cử chỉ hàm chỉ (cử chỉ thay lời) Là cử chỉ có khả năng tồn tại độc lập trong giao tiếp và có giá trị tương đương với một hành vi bằng lời. Cử chỉ hàm chỉ bắt đầu từ cử chỉ kèm lời. Sau đó dẫn đến thiết lập một mối quan hệ ổn định giữa hành vi lời nói và các kiểu cử chỉ đi kèm. Đến một lúc nào đó, trong những tình huống cụ thể, người này chỉ cần thể hiện cử chỉ, điệu bộ tương ứng đó là người kia hiểu được giá trị bằng lời.. Trên cơ sở chức năng và hoạt động của loại cử chỉ này có thể chia làm ba loại: a, Loại cử chỉ biểu thị hành vi tiếp nhận giao tiếp VD: Trong giờ học, An gọi Bình: - Này Bình. Bình ngồi bàn trên, quay đầu lại An thì thầm: - Chiều nay học xong đi đá bóng nhé! Cô giáo nhắc: - An! An ngẩng đầu lên. … Ở các trường hợp loại trên, cử chỉ: quay đầu lại, ngẩng đầu lên, dừng lại, nhìn, … đều là kết quả của một hành vi hô gọi, kích thích ban đầu. Chúng thể hiện rằng người nghe đã chuẩn bị một thế giao tiếp mới, sẵn sàng đón nhận thông tin mới. Có thể thể hiện hiển ngôn hoá các cử chỉ trên bằng các phát ngôn: “ gì thế ? ’’ , “ có chuyện gì đấy ? ’’, … Người phát tin hiểu được ý nghĩa của các cử chỉ của người kia sẽ tiếp tục thực hiện hành vi nói của họ b. Loại cử chỉ tương ứng với một hàm ý. Trong giao tiếp, hàm ý là một hiện tượng thường gặp. Ở một số trường hợp, cùng với tiền giả định, nó trở thành phương tiện liên kết hàm ngôn giữa các lời nói. Tuy nhiên, do là phương tiện hàm ngôn nên nội dung của nó không phải lúc nào cũng được hiển ngôn một cách đúng đắn, chính xác. VD1 : A – Tối nay đi chơi nhé ? B- Sáng mai tớ phải nộp bài tiểu luận rồi Lời nói của B chứa hàm ý, muốn hiểu được A phải suy luận: Sáng mai B phải nộp bài tiểu luận ( B vẫn chưa làm xong ( B không có thời gian ( B không thể đi chơi vào chiều nay được. Tuy nhiên, nếu đi kèm với lời nói của B một cử chỉ thì quá trình lý giải sẽ đơn giản hơn: A: Tối nay đi chơi nhé ? B: ( Lắc đầu ) . Sáng mai tớ phải nộp bài tiểu luận rồi. Ở ví dụ trên, cử chỉ của B mang thông tin chính trả lời trực tiếp cho lời đề nghị của A, còn lời nói thêm của B mang tính chất giải thích. VD2: A : Dạo này cậu vẫn ăn cơm ở quán, không tự nấu à ? B : ( Gật đầu ). Nhưng dạo này giá cơm tăng cao lắm, không như trước đâu. Trong lời B, từ nối “ nhưng ’’ biểu đạt một quan hệ ngữ nghĩa hoặc với một phát ngôn nào đó trước nó hoặc với một bộ phận trong cùng nột phát ngôn nhưng bị tỉnh lược đi theo cấu trúc : “ Tuy … nhưng …” . Vế trước trong lời nói của B không được hiển ngôn mà được thay thế bằng một cử chỉ có ý nghĩa tương ứng ( “ gật đầu ” = “ ừ ” ). Hiển ngôn cử chỉ câu trả lời của B sẽ là: “ Ừ.Nhưng dạo này giá cơm tăng cao lắm, không như trước đâu ”. Cử chỉ lúc này đóng vai trò quan trọng, đảm bảo sự tồn tại lời nói của B, làm lời nói của B tương ứng với câu hỏi của A. Nếu bỏ các cử chỉ đi kèm thì mối quan hệ giữa các lời nói sẽ trở nên rời rạc. c. Loại cử chỉ tương ứng với một hành vi giao tiếp độc lập. Các cử chỉ này tồn tại độc lập, hoàn toàn giữ vai trò là một phản ứng, không cần phải kèm thêm lời nói. Loại cử chỉ này được thể hiện cả trong hoàn cảnh giao tiếp đặc biệt cả trong hoàn cảnh giao tiếp bình thường. Chúng thường không có chức năng lên kết, ví dụ : - Nó về chưa? - (Lắc đầu) Trong một số trường hợp, các cử chỉ điệu bộ này vừa tương ứng với một hành vi giao tiếp độc lập vừa tồn tại như một yếu tố nối kết giữa hai lời nói của cùng một chủ thể, ví dụ: - Mày đi thăm lăng Bác chưa? Tao tưởng lên đây chúng mày phải đến đó rồi chứ? Lời nói thứ nhất là câu hỏi khi chưa biết người được hỏi đã đi thăm lăng Bác chưa. Lời nói thứ hai “Tưởng A” với tiền giả định: A không đúng nên có nghĩa là : “Bọn mày chưa đi lăng Bác” Nếu tình huống này tồn tại cử chỉ điệu bộ (Lắc đầu) của người đối thoai thay cho hành vi trả lời thì sự tồn tại của hai phát ngôn này phi logic. Ngoài ra người ta còn có thể phân chia thành hai loại: * Cử chỉ tán đồng: gật đầu, cười, vỗ tay, vỗ vai… *Cử chỉ không tán đồng: lắc đầu, bĩu môi, lè lưỡi… Tuy nhiên, cách phân chia này tỏ ra hạn chế trong những trường hợp mà cùng một cử chỉ nhưng laị biểu lộ hai ý nghĩa trái ngược. 2.2. Bảng giá trị thông báo của tay và nét mặt Cho đến nay các nhà ngôn ngữ học chưa thống kê hết xem có bao nhiêu cử chỉ ngôn ngữ trên thế giới cũng như chưa phân biệt được hết các ý nghĩa của chúng, bởi lẽ, mỗi dân tộc, mỗi tộc người đều có một hệ thống ngôn ngữ cử chỉ cùng ý nghĩa riêng của họ. Và ở Việt Nam cũng vậy, ngôn ngữ cử chỉ cũng rất phong phú và đa dạng. Dưới đây, chúng tôi xin trình bày kết quả thống kê những cử chỉ thường gặp ở tay và nét mặt trong giao tiếp của người Việt. 2.2.1. Giá trị thông báo của tay STT  CỬ CHỈ CỦA TAY  GIÁ TRỊ THÔNG BÁO   1  Phẩy tay  Sự việc nói đến qua nhỏ mọn không đáng để ý hoặc buộc phải đồng ý.   2  Vẫy tay (các ngón hướng về phía người nói)  “Lại đây!”   3  Vẫy tay (các ngón hướng ra ngoài)  “Đi đi!”, không chấp nhận, muốn tống khứ   4  Vẫy vẫy bằng một tay (tay chuyển động nhẹ)  Dấu hiệu để người khác biết, để ý (sang đường)   5  Hai tay vẫy cuống quýt  Mong muốn được để ý   6  Hất tay (đầu ngón tay hướng lên trên, khép chặt, lòng bàn tay hướng ra ngoài hất hất)  Thể hiện phá bỏ ý kiến của người khác, tất cả vẫn như trước, bày tỏ sức mạnh và sự kiên quyết.   7.  Chặt tay (bàn tay để thẳng, các ngón tay khép chặt với nhau như một chiếc búa đang chém xuống)  Thể hiện sự quyết đoán, kiên quyết, nhanh chóng gỡ rối mọi việc.   8  Lật tay (lòng bàn tay hướng xuống dưới, ngón tay cái xoè ra, các ngón còn lại hơi cong cong)  -Tư thế nhắc nhở người nói cẩn thận, cần kiềm chế tình cảm nhằm mục đích khống chế cuộc nói chuyện. -Tư thế phủ nhận, phản đối …   9  Ngửa tay (lòng bàn tay hướng lên trên, ngón tay cái xoè ra, các ngón còn lại hơi cong cong)  - Khen ngợi, xin xỏ, khẩn cầu (giơ tay cao) - Động tác ăn xin thể hiện chân thành lắng nghe ý kiến của mọi người, giành được sử ủng hộ. (tay để ngang) -Không biết phải làm sao (tay hạ thấp).   10  Nắm tay (năm ngón khép chăt, bàn tay nắm chắc)  -Thể hiện tình cảm bị kích động, uy quyền, báo thù. -Thể hiện thái độ kiên quyết, nguyện vọng muốn thực hiện điều gì đó …   11  Hai tay nắm vào nhau  Ý chí, niềm tin   12  Hai tay giang ra  Thể hiện sự chào đón.   12  Hai tay đan vào nhau  -Thể hiện tinh thần lo lắng, sốt ruột. -Thể hiện sự trịnh trọng hoặc muốn điều khiển cuộc đàm phán   13  Các ngón tay chạm vào nhau thành hình tháp  Thể hiện sự tự tin   14  Khoanh tay  -Thể hiện sự chào hỏi, thưa gửi (ở trẻ em, nhất là ngày xưa) -Trạng thái trầm tư, suy nghĩ -Tư thế chờ đợi trong sự nhàn rỗi, sốt ruột, bất lực -Tư thế cô lập, phòng ngự, không hoà nhập hoặc không đồng tình -Thách thức, đương đầu   15  Bàn tay xoè năm ngón  -Người nói cảm thấy hồ nghi -Thể hiện sự thẳng thắn, chân thành   16  Tay bắt chéo lên ngực  Phản ánh sự tự vệ   17  Giơ tay  Dấu hiệu xin phát biểu, đưa ra ý kiến   18  Lấy tay che miệng  Ngượng ngùng e thẹn thiếu tự tin   19  Tay xoa cằm  Thể hiện sự thông minh lão luyện   20  Tay vò đầu  Lúng túng, bối rối, chưa đưa ra giải pháp hoặc không có ý kiến   21  Vung nắm đấm lên  Hăm họa   22  Vặn vẹo bàn tay  Lúng túng, bối rối   23  Bẻ đốt ngón tay  Lúng túng, bối rối   24  Vân vê gấu áo  Lúng túng, bối rối   25  Gãi tai  Lúng túng, bối rối   26  Vò nát hoặc xé nhỏ cái gì đó trong tay  Lúng túng, bối rối   27  Đưa ngón tay trỏ thẳngn lên môi (thường kèm tiếng “suỵt!”)  Ra hiệu bí mật không tiếp lộ   28  Giơ ngón tay trỏ  -Răn đe chỉ mặt vạch tội (động tác mạnh, ngón tay căng) -Hướng người nghe tập trung vào điều mình đang nói, tách rõ ràng vấn đề,ý tứ khúc triết hơn (tay lia theo từng câu nói).   29  Vỗ vai  Động viên, khích lệ  
Tài liệu liên quan