Đề tài Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng phát triển nhà ĐBSCL Hà Nội

Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế đất nước đang từng bước vào đời sống kinh tế xã hội. Tuy nhiên hiện nay tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang bị chững lại bởi nhiều nguyên nhân khác nhau mà một trong những nguyên nhân quan trọng nhất là vấn đề về vốn. Có thể nói vốn là tiền đề, là cơ sở đầu tiên để các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh và đổi mới công nghệ. Các doanh nghiệp có thể tạo vốn bằng nhiều cách khác nhau: có thể tích luỹ từ hoạt động sản xuất kinh doanh, huy động vốn, liên doanh liên kết, hay vay mượn chiếm dụng vốn các doanh nghiệp khác. Nhưng muốn ổn định và có lợi thế nhất giúp các doanh nghiệp tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, đổi mới công nghệ là nguồn vốn trung và dài hạn từ các Ngân hàng thương mại. Hiện nay các doanh nghiệp đang thiếu vốn nhất là vốn trung và dài hạn trong khi vốn tồn đọng trong các Ngân hàng thương mại không phải là ít. Như vậy, không phải chúng ta thiếu vốn mà là chúng ta chưa có cách chuyển vốn huy động được vào sản xuất kinh doanh, Ngân hàng PTNĐBSCL Hà Nội cũng không nằm ngoài tình trạng đó. Hiện nay nguồn vốn cho vay trung và dài hạn của Ngân hàng kém đa dạng về cơ cấu khách hàng. Hầu như Ngân hàng chỉ tập trung vào doanh nghiệp Nhà nước, chưa quan tâm tới các đối tượng khách hàng khác đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Vì lý do đó "Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng PTNĐBSCL Hà Nội" được chọn làm đề tài nhằm đáp ứng đòi hỏi thiết thực của thực tiễn, vừa mang tính thời sự trong kinh doanh tiền tệ của Ngân hàng hiện nay. Từ những lý do cơ bản về tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng thương mại, chuyên đề này sẽ phân tích và đánh giá thực trạng, tìm nguyên nhân dẫn đến các mặt hạn chế hiện nay tại Ngân hàng PTNĐBSCL Hà Nội. Chuyên đề được kết cấu như sau: Chương I: Lý luận chung về tín dụng Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng PTNĐBSCL Hà Nội. Chương III: Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn Ngân hàng PTNĐBSCL Hà Nội. Do trình độ còn hạn chế nên bài viết sẽ không tránh khỏi thiếu sót, em rất mong sẽ nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và bạn bè để vấn đề nghiên cứu được hoàn thiện hơn.

doc69 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1109 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng phát triển nhà ĐBSCL Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong chuyên đề này là trung thực,xuất phát từ tình hình thực tế của đơn vị thực tập. Hà Nội ngày17 tháng 4 năm 2005 Sinh viên thực hiện. BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT CNH-HĐH:Công nghiệp hoá-hiện đại hoá NH:Ngân hàng NHTM:Ngân hàng thương mại PTNĐBSCL:Phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long NHNN:Ngân hàng Nhà nước LỜI NÓI ĐẦU Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế đất nước đang từng bước vào đời sống kinh tế xã hội. Tuy nhiên hiện nay tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang bị chững lại bởi nhiều nguyên nhân khác nhau mà một trong những nguyên nhân quan trọng nhất là vấn đề về vốn. Có thể nói vốn là tiền đề, là cơ sở đầu tiên để các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh và đổi mới công nghệ. Các doanh nghiệp có thể tạo vốn bằng nhiều cách khác nhau: có thể tích luỹ từ hoạt động sản xuất kinh doanh, huy động vốn, liên doanh liên kết, hay vay mượn chiếm dụng vốn các doanh nghiệp khác. Nhưng muốn ổn định và có lợi thế nhất giúp các doanh nghiệp tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, đổi mới công nghệ là nguồn vốn trung và dài hạn từ các Ngân hàng thương mại. Hiện nay các doanh nghiệp đang thiếu vốn nhất là vốn trung và dài hạn trong khi vốn tồn đọng trong các Ngân hàng thương mại không phải là ít. Như vậy, không phải chúng ta thiếu vốn mà là chúng ta chưa có cách chuyển vốn huy động được vào sản xuất kinh doanh, Ngân hàng PTNĐBSCL Hà Nội cũng không nằm ngoài tình trạng đó. Hiện nay nguồn vốn cho vay trung và dài hạn của Ngân hàng kém đa dạng về cơ cấu khách hàng. Hầu như Ngân hàng chỉ tập trung vào doanh nghiệp Nhà nước, chưa quan tâm tới các đối tượng khách hàng khác đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Vì lý do đó "Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng PTNĐBSCL Hà Nội" được chọn làm đề tài nhằm đáp ứng đòi hỏi thiết thực của thực tiễn, vừa mang tính thời sự trong kinh doanh tiền tệ của Ngân hàng hiện nay. Từ những lý do cơ bản về tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng thương mại, chuyên đề này sẽ phân tích và đánh giá thực trạng, tìm nguyên nhân dẫn đến các mặt hạn chế hiện nay tại Ngân hàng PTNĐBSCL Hà Nội. Chuyên đề được kết cấu như sau: Chương I: Lý luận chung về tín dụng Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng PTNĐBSCL Hà Nội. Chương III: Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn Ngân hàng PTNĐBSCL Hà Nội. Do trình độ còn hạn chế nên bài viết sẽ không tránh khỏi thiếu sót, em rất mong sẽ nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và bạn bè để vấn đề nghiên cứu được hoàn thiện hơn. CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG 1. Khái niệm tín dụng và tín dụng Ngân hàng. 1.1. Khái niệm tín dụng. Mặc dù hoạt động tín dụng ra đời từ rất lâu nhưng cho đến này vẫn chưa có sự thống nhất khi định nghĩa đầy đủ về tín dụng. Khái niệm tín dụng có nguồn gốc từ thuật ngữ La tinh là "Creditum" có nghĩa là sự tin tưởng, tín nhiệm. Hiểu một cách nôm na thì tín dụng là sự vay mượn, sử dụng vốn lẫn nhau giữa người đi vay và người cho vay dựa trên nguyên tắc hoàn trả. Theo nghĩa rộng, quan hệ tín dụng gồm hai mặt: huy động vốn và tiến hành cho vay. Trong lịch sử, tín dụng ra đời và phát triển cùng với nền sản xuất hàng hoá. Kinh tế hàng hoá càng phát triển thì tín dụng càng giữ vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá. Mục đích và tính chất của tín dụng do mục đích và tính chất của nên sản xuất hàng hoá trong xã hội quyết định. Sự vận động của tín dụng luôn luôn chịu sự chi phối của các qui luật kinh tế, của phương thức sản xuất trong xã hội đó. Vì vậy trong điều kiện của nền kinh tế thị trường thì sự tồn tại của tín dụng là một khách yếu khách quan. Từ đó chúng ta có thể định nghĩa tín dụng như sau: "Tín dụng là một giao dịch giữa hai bên, trong đó một bên (trái chủ hoặc người cho vay) chu cấp tiền, hàng hoá, dịch vụ hoặc chứng khoán dựa vào lời hứa thanh toán trong tương lai của bên kia (thụ trái hoặc người vay), thông thường những giao dịch như vậy còn bao gồm cả việc thanh toán lợi tức cho người vay". 1.2. Khái niệm về tín dụng ngân hàng.. Trong nền kinh tế thị trường Ngân hàng đóng vai trò là một tổ chức trung gian vì trong mối quan hệ với các nhà doanh nghiệp, Ngân hàng vừa là người đi vay đồng thời là người cho vay. Với tư cách là người đi vay Ngân hàng sẽ nhận tiền gửi của các doanh nghiệp và cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi trái phiếu để huy động vốn trong xã hội. Mặt khác, với tư cách là người cho vay Ngân hàng sẽ cung cấp tín dụng cho các nhà doanh nghiệp và các cá nhân có nhu cầu. Như vậy, đối với các Ngân hàng thương mại, tín dụng Ngân hàng nghĩa là cho vay hay ứng trước tiền do Ngân hàng thực hiện. Bản thân Ngân hàng là người cho vay còn người đi vay là những loại khách hàng khác nhau của Ngân hàng. 2. Chức năng và vai trò của tín dụng Ngân hàng. 2.1. Chức năng. Trong nền kinh tế hàng hoá tín dụng thực hiện 3 chức năng chính sau đây: - Chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ trên cơ sở có hoàn trả. Đây là chức năng cơ bản nhất của tín dụng. Tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ là 2 quá trình thống nhất trong sự vận hành của hệ thống tín dụng. Nhờ chức năng này của tín dụng mà các nguồn vốn tiền tệ trong xã hội được điều hoà từ nơi "thừa" sang nơi "thiếu" để sử dụng nhằm phát triển nền kinh tế. Như vậy sự có mặt của tín dụng được xem như là chiếc cầu nối giữa các nguồn cung - cầu về vốn tiền tệ trong nền kinh tế. Nói cách khác, ở khâu tập trung, tín dụng là nơi tập hợp những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội. Ở khâu phân phối lại vốn tiền tệ, tín dụng là nơi đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp, các cá nhân và cho cả ngân sách. Trên thực tế vận dụng chức năng này của tín dụng còn được thể hiện bằng loại hình tín dụng gián tiếp như: mua bán chịu hàng hoá giữa các doanh nghiệp, các doanh nghiệp hay Nhà nước sẽ tự huy động vốn thông qua việc phát hành trái phiếu trên thị trường chứng khoán. Như vậy, nếu trong điều kiện cơ chế quản lý kinh tế theo kế hoạch, chức năng này của tín dụng chỉ được thực hiện hầu hết qua các tổ chức trung gian, thì trong điều kiện cơ chế thị trường qua các tổ chức trung gian, thì trong điều kiện cơ chế thị trường cùng với đa dạng các hình thức tín dụng thì việc tổ chứ phân phối vốn tín dụng cũng được phong phú hơn, tạo điều kiện phân phối vốn linh hoạt và hiệu quả hơn. - Chức năng tiết kiệm tiền mặt và chi phí lưu thông cho xã hội chức năng này được biểu hiện cụ thể qua quá trình huy động kịp thời những nguồn vốn tạm thời nhân rỗi trong xã hội đưa vào chu chuyển nghĩa là tín dụng đã tăng nhịp độ vòng quay của đồng tiền, giảm lượng tiền dư thừa nhằm ổn định lưu thông tiền tệ. Hơn nữa trong điều kiện hệ thống ngân hàng phát triển thì song song với quá trình tổ chức nghiệp vụ tín dụng sẽ là việc mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt trong lưu thông đồng thời giảm những chi phí lưu thông khác như: chi phí in ấn giấy bạc, chi phí bảo quản tiền, vận chuyển tiền… - Chức năng phản ánh và kiểm soát các hoạt động, kinh tế thông qua quá trình tập trung và phân phối lại vốn, tín dụng góp phần phản ánh được mức độ phát triển nền kinh tế về các mặt như: khối lượng tiền tệ nhàn rỗi trong xã hội, nhu cầu vốn trong từng thời kỳ…,từ đó giúp chúng ta có cái nhìn tổng quát về những quan hệ cân đối lớn trong nền kinh tế đặc biệt là quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng. Đặc biệt trong hoạt động cho vay của ngân hàng để góp phần đảm bảo an toàn về nguồn vốn, ngân hàng luôn thực hiện quá trình kiểm tra tình hình tài chính của đơn vị nhằm phát hiện kịp thời những chế độ quản lý kinh tế của Nhà nước. Bên cạnh đó, trên cơ sở thực hiện nguyên tắc cho vay và có hoàn trả, ngân hàng còn phản ánh kịp thời tình hình quản lý và sử dụng vốn của các đơn vị có hiệu quả hay không. Như vậy, chức năng phản ánh và kiểm soát các hoạt động kinh tế sẽ góp phần giải quyết tình trạng mất cân đối cục bộ của nền kinh tế với những giải pháp khắc phục kịp thời, từ đó nền kinh tế với những giải pháp khắc phục kịp thời, từ đó phát huy vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Điều này cũng có nghĩa là tín dụng cần phải được vận dụng như một trong những đòn bẩy kích thích kinh tế không thể thiếu trong quá trình tổ chức quản lý kinh tế tài chính, kiểm soát và thúc đẩy các hoạt động kinh tế quốc dân. 2.2. Vai trò của tín dụng. Trên cơ sở phát huy chức năng vốn có của tín dụng thể hiện 3 vai trò tích cực đối với các mặt trong đời sống kinh tế xã hội. - Tín dụng góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, trong quá trình sản xuất kinh doanh để duy trì sự hoạt động liên tục đòi hỏi vốn của các xí nghiệp phải đồng thời tồn tại ở cả 3 giai đoạn: dự trữ, sản xuất và lưu thông. Với mục tiêu mở rộng sản xuất đối với từng doanh nghiệp thì yêu cầu về nguồn vốn là một trong những mối quan hệ hàng đầu được đặt ra. Bởi lẽ, để đẩy mạnh tiến độ phát triển sản xuất không thể chỉ trông chờ vào vốn tự có mà doanh nghiệp phải biết tận dụng những dòng chảy khác của vốn trong xã hội. Lúc này tín dụng sẽ là trung tâm đáp ứng nhu cầu về vốn bổ sung cho đầu tư phát triển. Trong điều kiện hiện nay, cùng với sự phân công và hợp tác quốc tế ngày một sâu rộng thì quá trình điều tiết vốn không chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia nào hình thành các quan hệ tín dụng quốc tế. Trên cơ sở đó, tín dụng góp phần phát triển các mối quan hệ đối ngoại. Thực hiện vai trò này, tín dụng luôn là người trợ thủ đắc lực cho các doanh nghiệp và là người hạn đường trong tiến trình phát triển kinh tế. - Tín dụng góp phần ổn định tiền tệ và ổn định giá cả với chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ, tín dụng đã góp phần làm khối lượng tiền lưu hành trong nền kinh tế đặc biệt là tiền mặt trong tay các tầng lớp dân cư, từ đó làm giảm áp lực lạm phát, nhờ vậy góp phần làm ổn định tiền tệ. Mặt khác, do cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hình thành kế hoạch sản xuất kinh doanh, làm cho sản xuất ngày càng phát triển, sản phẩm hàng hoá, dịch vụ làm ra ngày càng nhiều, đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Qua đó cho thấy tín dụng đã đóng góp không nhỏ trong việc ổn định tiền tệ tạo điều kiện để ổn định giá cả và là tiền đề quan trọng để thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá. - Tín dụng góp phần ổn định đời sống, tạo công ăn việc làm và ổn định trật tự xã hội. Vai trò này của tín dụng có thể nói là hệ quả tất yếu của 2 vai trò trên. Thật vậy, do tín dụng có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển, sản xuất hàng hoá và dịch vụ ngày càng gia tăng có thể thoả mãn nhu cầu đời sống của người lao động. Mặt khác, hoạt động tín dụng không chỉ đáp ứng cho nhu cầu của các doanh nghiệp mà còn phục vụ cho các tầng lớp lân cư. Đáp ứng nhu cầu vay vốn hợp lý của cá nhân để phát triển kinh tế gia đình, mua sắm nhà cửa, tư liệu sinh hoạt…nhằm mục đích cải thiện từng bước đời sống của nhân dân, tạo công ăn việc làm, giảm tỉ lệ thất nghiệp, qua đó góp phần ổn định trật tự xã hội. Cuối cùng có thể nói, tín dụng còn có vai trò quan trọng để mở rộng các mối quan hệ kinh tế đối ngoại và mở rộng giao lưu quốc tế, từ đó giúp đỡ và giải quyết các nhu cầu lẫn nhau trong quá trình phát triển đi lên của Nhà nước, làm cho các nước có điều kiện xích lại gần nhau hơn và cùng phát triển trong sự hợp tác bình đẳng. 3. Các loại hình tín dụng Ngân hàng. Quá trình phát triển của xã hội và sự đa dạng hoá các hoạt động kinh tế đã kéo theo sự phát triển của tín dụng ngày càng phong phú và đa dạng hơn. Tuỳ theo yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản lý của ngân hàng thương mại mà có các cách phân chia tín dụng như sau: 3.1. Nếu căn cứ vào thời hạn, tín dụng chia thành 3 loại: - Tín dụng ngắn hạn: có thời hạn từ 12 tháng trở xuống - Tín dụng trung hạn: có thời hạn từ 1 đến 5 năm (có nơi quy đinh là 7 năm). - Tín dụng dài hạn: có thời hạn từ 5 năm (hoặc 7 năm) trở lên. Thời hạn tín dụng chính là thời hạn mà trong đó ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một khoản tín dụng và nó được xác định cụ thể ngày, tháng, năm. Hiểu cách khác thời hạn tín dụng là thời hạn được tính từ lúc đồng vốn đầu tiên của ngân hàng phát ra đến lúc vốn và lãi cuối cùng phải thu về. Tín dụng ngắn hạn thường gắn với những khoản vay của doanh nghiệp để bổ sung vào tài sản lưu động vì tài sản lưu động thường có vòng quay nhỏ hơn 1 năm. Do đó trong một năm doanh nghiệp có thể hoàn trả được số tiền vay ở ngân hàng. Các tài sản cố định như phương tiện sản xuất, phương tiện vận tải…các trang thiết bị nhanh hao mòn có nhu cầu nguồn vốn từ 1 đến 5 năm. Ngược lại, những công trình đầu tư vốn lớn, thu hồi vốn lâu như máy móc thiết bị công nghiệp nặng, xây dựng công trình công cộng…có nhu cầu nguồn vốn từ 5 đến 10 năm hoặc lâu hơn nữa. Tất nhiên cùng với độ dài của thời gian, việc thu hồi vốn đối với các dự án có thời hạn dài gặp nhiều khó khăn hơn vì tại thời điểm xin vay vốn, doanh nghiệp chưa thể tính hết được những khó khăn gặp phải trong tương lai khi tiến hành sản xuất kinh doanh. Chính vì điều này mà mức độ rủi ro cho những khoản vay dài hạn luôn cao hơn những khoản vay ngắn hạn. Đây là sự lý giải cho việc lãi suất các khoản vay dài hạn thường cao hơn các khoản vay ngắn hạn. Cách phân loại tín dụng theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng thương mại, nó phản ánh khả năng hoàn trả, độ rủi ro và những ảnh hưởng trực tiếp đến tính an toàn và khả năng sinh lời của một doanh nghiệp. 3.2. Phân loại theo hình thức cho vay. Căn cứ theo hình thức cho vay ta có các loại tín dụng sau: chiết khấu, cho vay, bảo lãnh và cho thuê. - Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hang tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn. Về mặt pháp lý thì ngân hàng không phải đã cho vay đối với chủ thương phiếu mà đây chỉ là hình thức trao đổi trái quyền. Tuy nhiên đối với ngân hàng, việc bỏ tiền ra trong thời gian hiện tại để thu về một khoản lớn hơn trong tương lai với lãi suất xác định trước được coi như là một hoạt động tín dụng ngân hàng tuy ứng tiền cho người bán song thực chất là thay thế người mua trả tiền cho người bán. - Cho vay là một trong những nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng và là hoạt động sinh lời cao nhất cho các ngân hàng thương mại. Đây chính là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết rằng khách hàng sẽ phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi trong 17 thời gian xác định. - Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách hàng của mình khi khách hàng không có khả năng chi trả. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song ngân hàng đã cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi. - Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê những thoả thuận nhất định. Sau một thời gian, khách hàng phải trả cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng. Đây là một loại hình kinh doanh mới mẻ của ngân hàng nhưng đem lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng. Vì thế hiện nay các ngân hàng thương mại cũng khá chú trọng nâng cao chuyên môn cũng như mở rộng kiến thức về công nghệ, kỹ thuật cho cán bộ tín dụng để phổ biến loại hình dịch vụ này đến với nhiều đối tượng khách hàng. 3.3. Phân loại theo tàn sản đảm bảo. Tài sản đảm bảo các khoản tín dụng cho phép ngân hàng có được nguồn thu nợ thứ 2 bằng cách bán các tài sản đó khi nguồn thu nơi thứ nhất không có hoặc không đủ. Theo cách phân loại này, tín dụng được chia thành 2 loại, đó là tín dụng có đảm bảo bằng uy tín của chính khách hàng và tín dụng có đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố tài sản. - Tín dụng có đảm bảo là sự cam kết của người nhận tín dụng về việc dùng tài sản mà mình đang sở hữu hoặc sử dụng hoặc khả năng trả nợ của người thứ 3 để trở nợ cho ngân hàng trong trường hợp mình không trả được nợ. Tín dụng dựa trên cam kết đảm bảo yêu cầu ngân hàng và khách hàng phải ký hợp đồng đảm bảo bảo ngân hàngphải kiểm tra, đánh giá được tình trạng của tài sản đảm bảo (quyền sở hữu, giá trị, khả năng bán, khả năng tài chính của người thứ 3…) để hạn chế được sự rủi ro trong trường hợp khách hàng không trả được nợ. Tín dụng có đảm bảo được ngân hàng áp dụng đối với những trường hợp có độ rủi ro cao như khách hàng mới hoặc những khách hàng có khả năng tài chính không tốt… - Tín dụng không cần tài sản đảm bảo là loại hình tíndụng mà khách hàng có nhu cầu vay vốn với một mức nhất định mà không cần tài sản đảm bảo. Loại hình tín dụng này thường được cấp cho những khách hàng có uy tín, khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra nợ nần hoặc đối với những món vay tương đối nhhỏ so với vốn của người đi vay. Hình thức này cũng được ngân hàng áp dụng đối với các khoản vay theo chỉ thị của chính phủ, các tổ chức tài chính, Công ty lớn… 3.4. Phân loại tín dụng theo rủi ro. Để phân loại theo tiêu thức này, ngân hàng cần nghiên cứu các mức độ, các căn cứ để chia loại rủi ro. Một số ngân hàng lớn chia tới 10 thang bậc rủi ro theo dấu hiệu rủi ro từ thấp đến cao cho các khoản mục tài sản bao gồm cả tài sản ngoại bảng, nội bảng, cho vay, bảo lãnh, chứng khoán…cách phân loại này giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại tính an toàn của các khoản tín dụng và trích lập dự phòng các tổn thất kịp thời. Bên cạnh những tiêu thức phân loại trên, ngân hàng còn sử dụng các phương thức phân loại theo ngành kinh tế, theo đối tượng tín dụng, theo mục đích… II. TÍN DỤNG TRUNG - DÀI HẠN VÀ VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. 1. Tín dụng trung và dài hạn. Tín dụng trung và dài hạn là hoạt động tài chính cho khách hàng vay vốn trung và dài hạn nhằm thực hiện các dự án phát triển sản xuất kinh doanh. phục vụ đời sống. Đây là một trong những hoạt động mang lại nguồn thu nhập chủ yếu và nó chiếm phần lớn hoạt động của các ngân hàng thương mại. Chính vì thế việc xem xét chất lượng tín dụng, đặc biệt là tín dụng trung và dài hạn là việc làm quan trọng và cần thiết đối với mỗi ngân hàng. Nó giúp cho ngân hàng có thể đánh giá lại hoạt động tín dụng của mình và từ đó đưa ra các giải pháp khắc phục tồn tại, thiếu sót để đẩy nhanh hơn nữa hoạt động tín dụng. Nếu xét theo quan điểm của các ngân hàng thì hoạt động tín dụng trung và dài hạn được xem là có hiệu quả khi nó đảm bảo được 3 yếu tố: khả năng sinh lời, khả năng thu hồi cả gốc và lãi đúng hạn và khả năng thanh toán từ phía nguồn. Điều này có nghĩa là các ngân hàng khi tiến hành cho vay trung và dài hạn thì khoản vay đó phải đảm bảo trang trải được chi phí trả cho lãi suất huy động hoặc đi vay, chi phí hoạt động của ngân hàng và lãi dự tính. Tuy nhiên các ngân hàng cũng phải xem xét, cân nhắc các dự án để cho vay hợp lý tránh rơi vào tình trạng rủi ro khi không thu hồi được vốn hhoặc cho vay không cân xứng với nguồn vốn huy động… - Hoạt động tín dụng theo hình thức dự án đầu tư. - Hình thức cho thuê tài chính. - Hình thức khấu chi. - Bảo lãnh trung và dài hạn. 2. Vai trò của tín dụng trung và dài hạn. 2.1. Vai trò đối với các doanh nghiệp. - Tín dụng trung và dài hạn là nguồn tài trợ giúp doanh nghiệp có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, mở rộng thị trường. Đây là mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp vì đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào khi tiến hành sản xuất kinh doanh đều mong muốn gia tăng lợi nhuận. Để đạt được điều này doanh nghiệp cần phải mở rộng thị trường hoạt động của mình, nếu vậy doanh nghiệp cần phải mở rộng sản xuất. Nghe có vẻ đơn giản nhưng đây không phải là công việc đơn giản, kéo theo nó là hàng loạt các vấn đề như doanh nghiệp phải tăng thêm các thiết bị máy móc tiên tiến phục vụ sản xuất, tăng nhân công, chi nhánh…và việc nào cũng đòi hỏi doanh nghiệp phải có được nguồn vốn dài hạn để đầu tư. Đặc biệt đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay, nhu cầu vốn xây dựng cơ bản là rất lớn trong lúc các nhà kinh doanh chưa tích luỹ được nguồn vốn lớn nên tâm lý đầu tư trực tiếp của công chúng vào doanh nghiệp còn hạn chế. Việc vay vốn trung và dài hạn ở ngân hàng sẽ làm cho doanh nghiệp có thể tự chủ và có khả năng kiểm soát độc lập được hoạt động sả
Tài liệu liên quan