Đề tài Hậu phương trong kháng chiến chống Pháp

Lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc và nhân dân Việt Nam đã ghi nhận hai chiến thắng oanh liệt, đó là thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đế quốc Mỹ, là hai đế quốc lớn, sừng sỏ vào bậc nhất của thế giới. Những thắng lợi đó, là công lao to lớn của toàn Đảng, toàn dân. Đảng ta có những sách lược, chiến lược đúng đắn. Và có sự đóng góp về sức người sức của của nhân dân, có sự động viên tinh thần của những người ở nhà đối với tiền tuyến. Đó là hậu phương. Càng khẳng vai trò của hậu phương thật là to lớn đối với tiền tuyến trong chiến tranh nhân dân, là nhân tố thường xuyên quyết định đến thắng lợi của chiến tranh. Chiến tranh càng hiện đại vai trò của hậu phương đối với tiền tuyến càng tăng lên. Trong hai cuộc chiến tranh hiện đại của Việt Nam, hậu phương được tổ chức chặt chẽ theo một đường lối đúng đắn, sáng tạo và bằng những biện pháp có hiệu quả. Việc giải quyết thành công vấn đề hậu phương trong hai cuộc kháng chiến nói trên đã góp phần giải thích tại sao dân tộc ta đã đánh thắng hai đế quốc to có tiềm lực kinh tế, tiềm lực quân sự và khoa học có công nghệ mạnh hơn ta rất nhiều. Trong chiến công chung của cả nước cho thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp có phần đóng góp to lớn, hiệu quả của quân và dân Liên khu IV. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, ta có ba vùng tự do làm hậu phương: vùng tự do Việt Bắc, vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh, vùng tự do Nam Ngãi - Bình Phú. Mặt Trận Bình - Trị - Thiên là một mặt trận ác liệt, nhưng chính nơi này đã là một hậu phương

doc24 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 8853 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hậu phương trong kháng chiến chống Pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc và nhân dân Việt Nam đã ghi nhận hai chiến thắng oanh liệt, đó là thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đế quốc Mỹ, là hai đế quốc lớn, sừng sỏ vào bậc nhất của thế giới. Những thắng lợi đó, là công lao to lớn của toàn Đảng, toàn dân. Đảng ta có những sách lược, chiến lược đúng đắn. Và có sự đóng góp về sức người sức của của nhân dân, có sự động viên tinh thần của những người ở nhà đối với tiền tuyến. Đó là hậu phương. Càng khẳng vai trò của hậu phương thật là to lớn đối với tiền tuyến trong chiến tranh nhân dân, là nhân tố thường xuyên quyết định đến thắng lợi của chiến tranh. Chiến tranh càng hiện đại vai trò của hậu phương đối với tiền tuyến càng tăng lên. Trong hai cuộc chiến tranh hiện đại của Việt Nam, hậu phương được tổ chức chặt chẽ theo một đường lối đúng đắn, sáng tạo và bằng những biện pháp có hiệu quả. Việc giải quyết thành công vấn đề hậu phương trong hai cuộc kháng chiến nói trên đã góp phần giải thích tại sao dân tộc ta đã đánh thắng hai đế quốc to có tiềm lực kinh tế, tiềm lực quân sự và khoa học có công nghệ mạnh hơn ta rất nhiều. Trong chiến công chung của cả nước cho thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp có phần đóng góp to lớn, hiệu quả của quân và dân Liên khu IV. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, ta có ba vùng tự do làm hậu phương: vùng tự do Việt Bắc, vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh, vùng tự do Nam Ngãi - Bình Phú. Mặt Trận Bình - Trị - Thiên là một mặt trận ác liệt, nhưng chính nơi này đã là một hậu phương. I. Cơ sở lý luận I.1 Tầm quan trọng của hậu phương trong chiến tranh Nói về tầm quan trọng của hậu phương, Lênin viết: “Muốn tiến hành chiến tranh một cách nghiêm chỉnh, phải có một hậu phương được tổ chức một cách vững chắc. Quân đội ưu tú nhất, những người tận tuỵ nhất đối với sự nghiệp của cách mạng cũng sẽ bị quân thù tiêu diệt ngay, nếu không được vũ trang, tiếp tế và huấn luyện đầy đủ”. Stalin cũng nói: “Không có quân đội nào trên thế giới không có hậu phương vững chắc mà lại có thể chiến thắng được (cố nhiên là chúng ta nói một cuộc chiến thắng bền vững và lâu dài). Hậu phương có một tầm quan trọng bậc nhất đối với tiền tuyến. Chính hậu phương và chỉ có hậu phương mới cung cấp cho tiền tuyến chẳng những các nhu cầu đủ mọi loại, mà còn cả binh lính, cả tình cảm lẫn tư tưởng nữa. Hậu phương không vững chắc nhất là hậu phương thù địch, sẽ nhất định biến những đội quân ưu tú nhất và cố kết nhất thành một đám quần chúng không vững chắc và nhu nhược…”. V.I.Lênin còn nói: “…Kinh nghiệm cuộc nội chiến ở Nga đã chỉ cho chúng ta và những người Cộng sản tất cả các nước thấy rằng trong khói lửa nội chiến, nhiệt tình cách mạng càng cao thì nội bộ trong nước càng được củng cố mạnh mẽ. Chiến tranh là sự thử thách đối với hết thảy mọi lực lượng kinh tế và lực lượng tổ chức của mỗi dân tộc. Chiến tranh dù đã làm cho công nhân và nông dân phải vô cùng gian lao vất vả, bắt họ chịu đói, chịu rét, nhưng cuối cùng vẫn có thể căn cứ vào kinh nghiệm hai năm mà nói rằng chúng ta đang thắng và chúng ta sẽ thắng, vì chúng ta có một hậu phương, một hậu phương vững chắc,…” Trong bất kỳ cuộc chiến tranh nào cũng vậy, không phải có sức mạnh quân đội, vũ khí hiện đại là có thể giành thắng lợi lớn mà song song với xây dựng lực lượng quốc phòng, lực lượng vũ trang thì hậu phương phải vững chắc. “Song cái làm cho quân đội có sức mạnh, không phải chỉ là những đức tính riêng của nó. Quân đội không thể tồn tại lâu dài được nếu không có hậu phương vững chắc. Muốn cho tiền tuyến đứng vững thì quân đội phải nhận được tiếp viện, đạn dược, lương thực một cách đều đặn”. Như vậy, vai trò của hậu phương đối với tiền tuyến là rất to lớn. “… Chính vì chúng ta chủ trương bảo vệ tổ quốc, nên chúng ta mới tự nhủ rằng: muốn tự vệ được phải có một quân đội mạnh và đoàn kết tốt, một hậu phương vững chắc, và muốn có một quân đội mạnh và đoàn kết tốt, thì trước hết phải thiết lập được một hệ thống tiếp tế được tổ chức tốt”. Cả Mác, Angghen, Lênin và Stalin đều đánh giá cao nhấn tố chính trị - tinh thần và yếu tố trang bị vũ khí của sự thử thách khắc nghiệt của chiến tranh nói chung và hậu phương nói riêng. Stalin cho rằng: “Lịch sử chiến tranh dạy rằng chỉ có những nước nào mạnh hơn đối phương của mình về mặt phát triển và tổ chức kinh tế, về kinh nghiệm, tài nghệ và tinh thần chiến đấu của quân đội, về tinh thần kiên cường và đoàn kết của nhân dân trong suốt cả quá trình chiến tranh thì mới chịu đựng được sự thử thách đó”. Còn điều kiện vật chất kỹ thuật “không có tinh thần dũng cảm tất nhiên không giành được thắng lợi. Nhưng chỉ dựa vào tinh thần dũng cảm thì vẫn chưa có thể đánh được quân đội của kẻ thù rất đông, được vũ trang mạnh mẽ, sĩ quan được huấn luyện kỹ càng, quân trang, quân dụng được cung cấp đày đủ. Để có thể chống lại sự tiến công của một kẻ địch như vậy, sau đó lại phản công và hoàn toàn đánh bại chúng thì ngoài việc dựa vào tinh thần dũng cảm vô song của quân đội ta ra, còn cần phải có những vũ khí hiện đại nhất với số lượng thật đầy đủ; thêm vào đó còn phải tổ chức thật tốt việc cung cấp với số lượng theo yêu cầu…”. Để đảm bảo được cả tinh thần và vật chất không gì ngoài hậu phương có thể. Hậu phương sẽ là nơi cung cấp cho tiền tuyến vũ khí, đạn dược, quân đội và cả tinh thần cổ vũ động viên nữa… Xưa nay, trong các cuộc chiến tranh, hậu phương là một trong những nhân tố thường xuyên quyết định thắng hay bại của hai bên. Tôn Tử coi vật chất là chỗ dựa chủ yếu của hành động quân sự, là cơ sở để tiến hành chiến tranh, qua đó nhấn mạnh chiến tranh phải “dựa vào hậu phương hùng mạnh, dựa vào lực lượng hùng hậu; quân đội nào tách khỏi hậu phương hùng mạnh thì không thể giành được thắng lợi trong chiến tranh, không thể tồn tại được. Hồ Chí Minh nói: “Khi có chiến tranh phải huy động và tổ chức tất cả lực lượng trong nước chống giặc”. Nhìn chung, vai trò của hậu phương đều được các nhà chiến lược, các nhà quân sự đánh giá cao, những người lãnh đạo và cầm quân đều phải quan tâm thường xuyên. Bởi vì, chiến tranh là sự thử thách toàn diện với mỗi bên tham chiến, cơ sở vật chất mạnh hay yếu, dồi dào hay thiều thốn là điều kiện quan trọng tác động đến thắng hay bại của chiến tranh. Các nhà quân sự phương Tây nhất là trong giới thực dân thường cho rằng bên nào có kinh tế mạnh hơn, lực lượng vật chất dồi dào hơn, thì bên đó sẽ thắng trong chiến tranh. Tuy nhiên điều kiện vật chất không thể đóng vai trò chủ yếu cho thắng lợi của cuộc chiến. Lịch sử chiến tranh đã từng chứng kiến những trường hợp bên có hậu phương lớn, có lực lượng vật chất dồi dào lại bị bên có lực lượng vật chất ít hơn và yếu hơn làm cho hao mòn suy sụp và cuối cùng phải chịu thất bại. Đó là trường hợp thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược đã bị nhân dân Việt Nam đánh thua liểng xiểng và phải chịu chấm dứt chiến tranh, rút quân viễn chinh về nước. Nhất là khi so sánh hậu phương của hai bên trong kháng chiến chống Mỹ, ai cũng thấy rõ sự chênh lệch nghiêng về phía Mỹ quá lớn. Hầu như các nước trên thế giới đều cho rằng kháng chiến chống Mỹ là phiêu lưu, mạo hiểm; đòi đánh thắng Mỹ là hão huyền, ảo tưởng. Nhưng đó là cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện toàn dân kháng chiến làm cho sức mạnh của hậu phương chuyển ra tiền tuyến trở thành nguồn vô tận. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “trong cuộc kháng chiến kiến quốc, lực lượng chính là ở dân”, vì vậy, nói đến hậu phương là nói đến nhân dân. Nhân dân vừa là chủ thể trong việc xây dựng hậu phương, vừa là đối tượng phục vụ của hậu phương để kháng chiến đến thắng lợi. I.2. Xây dựng hậu phương trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) Xây dựng hậu phương trong kháng chiến chống Pháp là một quá trình phấn đấu đầy gian khổ, đấu tranh liên tục, một mất một còn giữa quân và dân cả nước ta với kẻ thù xâm lược. Do chưa có kinh nghiệm, lại thường xuyên bị bao vây đánh phá nên việc tổ chức chỉ đạo xây dựng và bảo vệ hậu phương không tránh khỏi những sai lầm, tổn thất. Nhưng vừa chống chọi với kẻ thù, vừa xây dựng tiềm lực mọi mặt của hậu phương bảo đảm cho kháng chiến thắng lợi là một kỳ tích của quân và dân ta. Trong chiến tranh bên nào cũng cố gắng xây dựng hậu phương của mình. Bên nào có hậu phương được tổ chức vững chắc và hùng hậu, bên đó đã nắm một trong những nhân tố quyết định thắng lợi. Chế độ tiến bộ và cuộc chiến tranh chính nghĩa cho phép động viên cao nhất, nhiều nhất sức người, sức của, tạo nên hậu phương vững chắc hơn. Nước Pháp vốn bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh thế giới thứ hai, nhân dân Pháp thêm điêu đứng do hậu quả của chiến tranh Đông Dương, đối với Pháp, cái họa bại vong không chỉ ở Việt Nam mà còn ở ngay trên chính nước Pháp. Nhân dân ta thắng vì có một hậu phương vững vàng, dựa trên chế độ dân chủ nhân dân. Sau Cách mạng Tháng Tám, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân lao động đã thực sự làm chủ đất nước, làm chủ cuộc đời mình. Nhân dân ta sẵn sàng hy sinh để bảo vệ, giữ gìn quyền thiêng liêng ấy. Do tính chất và đặc điểm cuộc kháng chiến theo đường lối đúng đắn và sáng tạo của Đảng, hậu phương của ta được xây dựng ở các vùng tự do, vùng tranh chấp và vùng sau lưng địch, song chủ yếu là ở ba vùng tự do chính là: vùng tự do Việt Bắc, vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh và vùng tự do Liên khu V. Tuy chưa dựa trên cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, nhưng hậu phương của ta vẫn có đủ khả năng cung cấp sức người, sức của cho cuộc kháng chiến lâu dài. Kháng chiến càng phát triển thì hậu phương càng vững mạnh. Cuộc kháng chiến chống Pháp bắt đầu vào lúc nhân dân ta vừa giành được chính quyền. Mười sáu tháng vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, vừa tạm thời hoà hoãn, chưa đủ để nhân dân ta khắc phục những hậu quả và giải quyết những di sản nặng nề của đế quốc, phong kiến và chiến tranh để lại. Ta phải mở đầu cuộc kháng chiến chống Pháp trong khi hậu phuơng còn nhiều yếu kém về kinh tế, khoa học kỹ thuật. Xây dựng một hậu phương vững chắc trong điều kiện đó cần phải có thời gian lâu dài. vì thế chủ trương vừa kháng chiến vừa kiến quốc, vừa kháng chiến vừa xây dựng hậu phương do Đảng ta đề ra phản ánh quy luật tất yếu của cuộc kháng chiến. Thực tiến của việc xây dựng hậu phương kháng chiến cho thấy đó là quá trình tạo sức mạnh, là quá trình tự xây dựng lực lượng kháng chiến về mọi mặt: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Thực chất đây là xây dựng một chế độ mới - chế độ dân chủ nhân dân. Xuất phát từ yêu cầu kháng chiến và khả năng thực tế, việc xây dựng hậu phương trong kháng chiến nhằm mục tiêu cơ bản: đủ ăn, đủ mặc, đủ vũ khí để đánh giặc, ai cũng được học hành. Chính sách của Đảng và Nhà nước về giảm tô và tạm cấp ruộng đất của bọn thực dân phản động, tạm cấp ruộng công, ruộng vắng chủ, ruộng bỏ hoang cho nông dân đã giải quyết được vấn đề quyền làm chủ của người lao động. Ở một số vùng tự do đã tiến hành cải cách ruộng đất, càng làm cho người lao động nhận rõ bản chất của chế độ mới. Thực hiện tốt chính sách ruộng đất ngay trong kháng chiến là một nhân tố có ý nghĩa quyết định để xây dựng và củng cố hậu phương. Nhờ đó tinh thần và lực lượng kháng chiến của hàng triệu nông dân được phát huy mạnh mẽ, khối liên minh công nông được tăng cường, chính quyền nhân dân và mặt trận thống nhất được củng cố, sức chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân tăng lên, mọi mặt hoạt động của kháng chiến đều được đẩy mạnh. Xây dựng hậu phương kháng chiến về mọi mặt, ngay trong quá trình kháng chiến là một chủ trương đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong điều kiện so sánh lực lượng giữa ta và địch rất chênh lệch thì điều quan trọng hàng đầu làm chuyển hóa so sánh lực lượng là phải vừa chiến đấu vừa xây dựng, tích luỹ lực lượng. Phải vừa tích cực tiêu diệt sinh lực địch vừa tích cực bồi dưỡng lực lượng ta. Thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, xây dựng hậu phương vững chắc là một yêu cầu cấp bách đối với từng chiến trường cũng như với cả nước. Kháng chiến lâu dài phải có lực lượng toàn dân tham gia, phải có sức mạnh về chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa và xã hội, trong đó quân sự đóng vai trò quyết định trong việc tiêu diệt sinh lực địch, tạo sự biến đổi so sánh lực lượng ngày càng có lợi cho ta. Vận dụng các chủ trương của Trung ương, các liên khu uỷ, tỉnh uỷ đã đề ra nhiều biện pháp cụ thể trên các lĩnh vực xây dựng về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa xã hội, đáp ứng ngày càng cao các yêu cầu của cuộc kháng chiến. Xây dựng để đảm bảo cho kháng chiến thắng lợi, đồng thời kháng chiến để đảm bảo cho xây dựng thành công. Trong quá trình lãnh đạo xây dựng hậu phương, Đảng ta luôn nhận thức sâu sắc mối quan hệ biện chứng này, đã lãnh đạo nhân dân đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược. Giải quyết từng bước, hợp lý khoa học cả hai nhiệm vụ chiến lược là một thành công lớn của Đảng từ Trung ương đến cơ sở. Nhờ có hậu phương vững chắc mà tiền tuyến lớn thắng to và nhờ những thắng lợi ở tiền tuyến mà hậu phương được xây dựng và củng cố vững chắc, xứng đáng là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến. II. Bình - Trị - Thiên xây dựng và củng cố hậu phương trong kháng chiến chống thực dân Pháp II.1. Hậu phương tại chỗ trên chiến trường Bình - Trị- Thiên (1948-1950) Bình Trị Thiên là nơi trực tiếp chiến đấu chống thực dân Pháp ngay từ những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, quân và dân toàn Liên khu mà trực tiếp là nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân Bình - Trị - Thiên đã tổ chức tốt cuộc chiến đấu ngoan cường tiêu hao tiêu diệt một bộ phận lớn sinh lực địch, giam chân một lực lượng lớn quân đội Pháp, ngăn không cho chúng đánh ra vùng tự do trong Liên khu và trong cả nước, phối hợp với quân và dân Lào đánh địch ở Trung Lào đưa cuộc kháng chiến giành thắng lợi cuối cùng. Nói về Bình - Trị - Thiên xây dựng và củng cố hậu phương, điều đặc biệt là việc xây dựng hậu phương tại chỗ ngay trên chiến trường Bình Trị Thiên (1948-1950). Nằm ở phía nam Liên khu IV, Bình - Trị - Thiên trải dài hơn 300 km dọc theo bờ biển Đông và dãy Trường Sơn, ngăn cách hai đầu với các tỉnh bạn ở phía bắc là Đèo Ngang, phía nam là đèo Hải Vân. Điều kiện thiên nhiên rất khắc nghiệt, nhiều bão lũ. Địa hình dài và hẹp bị chia cắt bởi nhiều sông lớn, ngắn và dốc nên phù sa đổ ra biển, ít ngưng tụ trong lòng đồng bằng, vùng rừng núi phía đông Trường Sơn khá hiểm trở. Quá trình chống ngoại xâm luôn gắn liền với cuộc đấu tranh chống thiên tai. Từ tháng 4-1947, thực dân Pháp mở rộng chiếm đóng các thị xã, thị trấn, vùng đồng bằng đông dân, các trục đường giao thông. Các cơ quan chỉ đạo kháng chiến và phần lớn bộ đội, du kích phải dồn lên núi. Cơ sở ở thôn xã vùng đồng bằng bị tê liệt. Để tiến hành kháng chiến, một nhiệm vụ cấp bách và quan trọng là phải xây dựng nơi đứng chân, xây dựng hậu phương nơi kháng chiến tại chỗ nhằm giải quyết các vấn đề tiềm lực, đảm bảo yêu cầu huấn luyện và hoạt động của lực lượng vũ trang, tạo điều kiện duy trì và phát triển chiến tranh du kích ở các địa phương. Trong năm đầu tiên của cuộc kháng chiến, dựa vào vùng rừng núi Đông Trường Sơn, các tỉnh đã xây dựng nhiều chiến khu: Hoà Mỹ. Lương Miêu, Dương Hòa, Khe Trái, Cầu Nhị (Thừa Thiên); xóm Nhà Gỗ, Ba Lòng, Thuỷ Ba, Cẩm Phổ, Cùa, Hòn Linh, Khe Mương (Quảng Trị); Đan Quế, Rào Đá, Xóm Mít, Bang Rợn (Quảng Bình). Đây là những hậu cứ khá vững chắc nhờ địa hình hiểm trở, tiến có thể công, lui có thể thủ. Cùng với việc xây dựng chiến khu ở miền núi, các cấp uỷ đảng chủ trương đưa cán bộ đảng viên và lực lượng vũ trang trở về vùng đồng bằng bám đất, bám dân, từng bước phục hồi cơ sở chính trị, bao gồm cơ sở Đảng, chính quyền, lực lượng dân quân du kích. Đến cuối năm 1947, những khu du kích, căn cứ du kích ở vùng đồng bằng Phong Điền, Quảng Điền (Thừa Thiên), Triệu Phong, Hải Lăng, Do Linh (Quảng Trị), Bố Trạch (Quảng Bình) được xây dựng. Phong trào xây dựng làng chiến đấu được xây dựng khắp nơi, trong đó có làng Cự Nẫm (Quảng Bình) là làng chiến đấu kiểu mẫu nổi tiếng trong cả nước. Chiến tranh du kích có điều kiện sinh sôi nảy nở, kết hợp với phong trào phá tề, trừ gian, hoạt động của lực lượng vũ trang được đẩy mạnh. Nhờ đó các căn cứ ở đồng bằng và miền núi được mở rộng và xây dựng thêm. Địch buộc phải giới hạn phạm vi kiểm soát trong các đô thị, ven các đường giao thông quan trọng, nhất là các đường số 1, số 9, và một số khu vực ở đồng bằng như Quảng Ninh, Lệ Thuỷ. Sau thất bại ở Việt Bắc - Thu Đông năm 1947, thực dân Pháp đã điều chỉnh chiến lược, tăng cường thêm lực lượng, ngoài ra chúng còn tăng cường các cuộc tiến công lên các chiến khu vùng rừng núi: Đơn Quế, Bang, Rợn, Thuận Đức (Quảng Bình), Ba Lòng (Quảng Trị), Hoà Mỹ, Lương Miêu, Dương Hòa (Thừa Thiên). Bộ đội và du kích của ta dựa vào địa thế hiểm trở kiên quyết đánh trả, làm địch tổn thất nặng nề, bảo vệ được cơ quan lãnh đạo kháng chiến và bảo toàn lực lượng. Tháng 4-1948 Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị mở rộng, chủ trương đưa các đại đội độc lập vào vùng sau lưng địch xây dựng cơ sở chính trị và quân sự, lập nhiều làng chiến đấu ở đồng bằng, khu chiến đấu ở miền núi, xây dựng căn cứ du kích, phát triển chiến tranh du kích. Tháng 4-1948, Hội nghị cán bộ phân khu Bình - Trị - Thiên đánh giá tình hình, đề ra nhiều chủ trương, Hội nghị quyết định “động viên cán bộ, đảng viên, chiến sỹ cứu quốc dũng cảm luồn sâu vào vùng sau lưng địch, phát huy lòng yêu nước của nhân dân và phát triển cơ sở kháng chiến làm chỗ đứng chân cho bộ đội đánh địch từ sau lưng chúng, biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta”. Tháng 5-1948, Đại hội đại biểu Đảng bộ Liên khu IV lần thứ nhất chỉ rõ thủ đoạn chủ yếu của địch để bình định Bình - Trị - Thiên là càn quét, chà đi, xát lại quyết liệt. Vấn đề đặt ra lúc này là phải lãnh đạo nhân dân vừa biết đánh giặc vừa kiên quyết đánh giặc, đánh bại thủ đoạn càn quét của địch. Muốn vậy phải xây dựng cơ sở quần chúng, lãnh đạo, tổ chức nhân dân đấu tranh, vận động toàn dân đánh giặc giữ làng; trừng trị bọn Việt gian, giải tán hội tề, vận động binh lính địch; phối hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị với họat động quân sự. Thực hiện chủ trương “Đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung” của Bộ Quốc - Tổng chỉ huy, các đơn vị bộ đội ở Bình - Trị - Thiên phân tán một bộ phận thành những đại đội độc lập luồn sâu vào vùng sau lưng địch, các đại đội độc lập vừa chiến đấu, vừa công tác, tuyên truyền, giáo dục, hướng dẫn nhân dân tránh giặc, đánh giặc, cất giấu tài sản, xây dựng lực lượng dân quân du kích, phát động chiến tranh du kích. Thực hiện chủ trương chung, những cán bộ, đảng viên trước đây bị bật đất, sau khi được học tập và được cán bộ tỉnh, huyện hướng dẫn, động viên, lần lượt trở về, được nhân dân hết lòng che chở, nuôi dưỡng, từng bước chắp nối lại liên lạc với nhiều cơ sở trong các vùng sâu, khôi phục lại tổ chức đảng, tổ chức quần chúng. Nhân dân hăng hái tham gia các đoàn thể Việt Minh, tham gia dân quân, xây dựng làng chiến đấu, sẵn sàng tham gia đánh giặc cùng bộ đội. Phần lớn các chi bộ ly hương trở về hoạt động và lãnh đạo quần chúng. Số lượng đảng viên tăng nhanh. Cuối năm 1948, tỉnh Quảng Bình có 72 chi bộ, 2170 đảng viên (tăng 600 đảng viên so với trước tháng 5-1948), Quảng Trị có 70 chi bộ, 2626 đảng viên, Thừa Thiên Huế có 103 chi bộ, 2049 đảng viên, số đảng viên trong quân đội tăng gần gấp đôi. Có lực lượng vũ trang trở về hoạt động tác chiến, phong trào đồng bằng lớn mạnh hẳn lên. Nhờ sự dìu dắt của các đại đội độc lập, lực lượng dân quân du kích phục hồi và phát triển. Đến cuối năm 1948, Quảng Bình có 929 du kích tập trung, 1670 du kích xã; Quảng Trị có 706 du kích tập trung, 929 du kích xã; Thừa Thiên có 496 du kích tập trung, 1257 du kích xã. Nhiều nơi du kích xã đã dũng cảm phục kích, chặn đánh những toán địch đi lùng sục, cướp phá...Cùng với hoạt động tác chiến của bộ đội, du kích, phong trào phá tề, trừ gian phát triển cao, được tổ chức thành từng đợt. Trên cơ sở đó, chính quyền nhân dân được xây dựng, nhiều nơi hoạt động công khai. Chiến tranh nhân dân đã làm cho hệ thống chiếm đóng của địch bị ruỗng nát. Hệ thống đồn bốt dầy đặc không thể ngăn cản nổi những hoạt động của Việt Minh, mà còn bị bao vây trở lại