Đề tài Hoàn thiện chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam

Trong lịch sử phát triển kinh tế của các nước, các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) luôn có vai trò và tác dụng rất quan trọng. Gần đây, chính trong thời điểm khoa học và công nghệ tiến triển rất mạnh mẽ, xu hướng toàn cầu hoá kinh tế diễn ra khá sôi nổi, thực tiễn quản lý kinh tế và quản lý doanh nghiệp có những chuyển biến sâu sắc, thì các DNNVV lại càng được chú trọng ở các nước.

doc25 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1080 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Trong lịch sử phát triển kinh tế của các nước, các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) luôn có vai trò và tác dụng rất quan trọng. Gần đây, chính trong thời điểm khoa học và công nghệ tiến triển rất mạnh mẽ, xu hướng toàn cầu hoá kinh tế diễn ra khá sôi nổi, thực tiễn quản lý kinh tế và quản lý doanh nghiệp có những chuyển biến sâu sắc, thì các DNNVV lại càng được chú trọng ở các nước. ậ nước ta, DNNVV cũng có vai trò quan trọng như vậy, do sự phát triển còn thấp của nền kinh tế quốc dân, do tiềm năng rất lớn của nội lực dân tộc, do yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong 20 năm đổi mới vừa qua, DNNVV ngày càng được coi trọng. Đầu năm 2001, báo cáo chính trị của ban chấp hành trung ương đảng tại Đại hội IX của Đảng một lần nữa vạch rõ: “Chú trọng phát triển các DNNVV...” Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2001-2010 nhấn mạnh: “ Phát triển rộng khắp các cơ sở sản suất công nghiệp nhỏ và vừa với nghành nghề đa dạng...” Chọn đề tài : “ Hoàn thiện Chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam ’’ . em muốn góp thêm tiếng nói nhỏ của mình vào việc nhận thức đúng về vai trò và sự cần thiết của việc khuyến khích, thúc đẩy phát triển các DNNVV ở Việt Nam hiện nay. Đề án được chia làm 3 phần : Phần I Vai trò của DNVVN và Nội dung chính sách nhà nước phát triển DNV& N Phân II : Chính sách nhà nước nhằm phát triển DNNVV ở Việt Nam. Phần III : Hoàn thiện chính sách Nhà nước phát triển DNNVV ở Việt Nam. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng do hạn chế về trình độ và thời gian, đề án vẫn còn nhiều thiếu sót, rất mong được sự giúp đỡ của cô giáo và các bạn. Phần I Những điểm mạnh của DNNVV 1.Dễ khởi nghiệp, lúc ban đầu không đòi hỏi nhiều gì về mọi mặt. Một số doanh nghiệp lớn hiên nay đã khởi nghiệp từ DNNVV. 2.Giàu tính mềm mại, linh hoạt, năng động để thích ứng nhanh, thậm chí đón đầu những biến chuyển của công nghệ quản lý, nhưng dao động lâm thời từng lúc hoặc cơ bản lâu dài của thị trường, những thay đổi có khi đột ngột của môi trường thể chế, chế độ kinh tế, xã hội. 3.Đặc biệt thích nghi với việc phát huy mọi tiềm năng của địa phương và cơ sở. Có ưu thế của sự gần kề với các nguồn lực đầu vào (lao động, tài nguyên, nguồn vốn tại chỗ) và với thị trường tiêu thụ. Sự “gần kề” này (proximity) là một lợi thế so sánh lớn để cạnh tranh ngay trong thời đại toàn cầu hoá, được nghiên cứu về khoa học và vận dụng nhiều thực tế ở các nước. 4.Giàu hơn về những hiệu quả tràn ra ngoài tích cực và ít hơn hẳn về những tích cực và ít hơn hẳn về những hiệu quả tràn ra ngoài tiêu cực so với doanh nghiệp lớn. 5.Thuận lợi để kết hợp kinh tế với công bằng xã hội, để thể hiện trong kinh tế bản sắc văn hoá dân tộc và những nét riêng ưu trội của địa phương. 6.Là sự bổ sung thiết yếu cho chính sự sinh tồn và phát triển của các doanh nghiệp lớn. Về nghiên cứu- triển khai, có thể là nơi thử nghiệm những đổi mới, phát minh, sáng chế. Về sản sản xuất, là người đảm nhiệm có hiệu quả cao những công đoạn cả ở phần đầu, phần giữa và phần cuối của quá trình chế tác, mà doanh nghiệp lớn không cần và không nên làm. Về phía dịch vụ, với ưu thế của sự “ gần kề”, tạo nên những hiểu biết qua tiếp xúc trong ” thế giới thực” với khách hàng. Về thương mại, DNNVV có tính cơ động, nhanh nhậy thâm nhập vào những thị trường tốt và rút lui khỏi những thị trường xấu, từ những thị trường nghách đến những thị trường lớn. Những điểm yếu của DNNVV 1.Thiếu nguồn lực để tiến hành những công trình nghiên cứu. Triển khai lớn, đáp ứng yêu cầu và tận dụng khả năng của cách mạng khoa học và công nghệ. 2.Không đủ sức thực hiện những dự án lớn về đầu tư về chuyển đổi cơ cấu, về tiếp thị, về đào tạo… để theo kịp, thúc đẩy và tận thu lợi ích của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. 3.Không có ưu thế của kinh tế qui mô (ecomomy of scale), tức là những thành quả và lợi ích đặc biệt mà chỉ từ một qui mô thích hợp (thường là đủ lớn) thì mới là có được. DNNVV là ”mèo nhỏ”, nên chỉ làm và chỉ bắt được ”chuột con”. 4.Nói chung vẫn lép vế trong các mối quan hệ (với Nhà nước, với thị trường, với ngân hàng, với các trung tâm khoa học, với giới báo chí, với đối tác, đối thủ, với khách hàng…). Thậm chí, thường phải dựa cậy và phụ thuộc vào các doanh nghiệp lớn, như doanh nghiệp con của doanh nghiệp mẹ, như chân rết ngoại vi của trung tâm. 5.Thiếu sức phòng, tránh và chống các rui ro, thường xuyên có nhiều, rất nhiều DNNVV ra đời, thì cũng có nhiều, rất nhiều DNNVV phá sản. 6.Ngay trong trường hợp thực tế là và được công nhận là động lực chính hoặc động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế, DNNVV rất khó tự tập hợp hoặc được tập hợp thành lực lượng thống nhất và rất mạnh để có thể có thể có vị thế chi phối về kinh tế-xã hội và chính trị. Nói chung, DNNVV là” người ăn theo” chứ không phải là người đề xuất, là người tuân lệnh chứ không phải là người ra lệnh (về điểm này) hiện nay trên thế giới và nhiều nước còn có sự tranh cãi. Khi đánh giá DNNVV cần tránh sự thiên lệch, hoặc quá nặng về những điểm mạnh hoặc quá nặng về những điểm yếu. Thấy đúng, thấy rõ mặt mạnh để phát huy và thấy đúng, thấy rõ mặt yếu để tìm cách khắc phục, đó là sự đánh giá cần thiết để có chính sách và hành động sáng suốt, có hiệu quả cao. 3.Quan hệ giữa DNNVV với doanh nghiệp lớn Nếu nói một cách đơn giản, thì đó là mối quan hệ vừa hợp tác vừa cạnh tranh, với những phương pháp phức tạp do sự cùng tồn tại trong các tổ hợp sản xuất, kinh doanh khổng lồ hoặc các cụm kinh tế có tầm cỡ quốc gia hoặc toàn cầu. Đại thể của mối quan hệ đó là: Doanh nghiệp lớn vừa giúp đỡ, hướng dẫn, sử dụng vừa kiềm chế, chèn ép, thậm chí bãi bỏ (thủ tiêu DNNVV); còn DNNVV thì vừa tranh thủ sự giúp đỡ, hợp tác, vừa thủ thế, giành giật đối với doanh nghiệp lớn. Động cơ ở đây chính là lợi nhuận, cuộc đấu tranh để sinh tồn và phát triển vì lợi nhuận trong kinh tế thị trường. Phân tích cụ thể hơn có thể thấy mối quan hệ trên đây diễn biến nhiều hình vẻ, nhiều mức độ, nhiều phạm vi, có lúc nặng hơn về hợp tác, có lúc nặng hơn về cạnh tranh, do tác động của mấy yếu tố sau: 1.Tuỳ ở chỗ DNNVV là doanh nghiệp độc lập hay là doanh nghiệp con, nằm trong tổ chức của doanh nghiệp lớn. 2.Tuỳ ở chỗ DNNVV thuộc nghành sản suất, nghành kinh doanh, nghành dịch vụ nào, hoạt động trên thị trường nào (chú ý rằng mối quan hệ của DNNVV với doanh nghiệp lớn cùng nghành, cùng thị trường có khá nhiều mối quan hệ của DNNVV với doanh nghiệp lớn khác nghành, khác thị trường). 3.Tuỳ ở mục tiêu, chiến lược, phương pháp và tài năng xoay sở của doanh nghiệp lớn cũng như của DNNVV. Nói rõ hơn cả hai bên giống nhau hoặc mỗi bên khác nhau trong sự lựa chọn, và có khả năng đến đây để thực hiện sự lựa chọn ấy: giành giật hay là cộng tác, hay là pha trộn cả hai. 4.Tuỳ ở chính sách Nhà nước và tác động của dư luận xã hội tại từng nước, dẫn đến chỗ thị trường được hướng dẫn đúng hay sai, bị bóp méo nhiều hay ít, mặt tích cực được phất huy và mặt tiêu cực được khắc phục thế nào. Như vậy, về quan hệ giữa DNNVV với doanh nghiệp lớn, trên cơ sở một số không nhiều các nét chung dễ nhận thấy, cần phải phân tích cụ thể với từng thời kỳ, từng quốc gia, từng ngành, từng vùng, từng doanh nghiệp. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng, ngay dù chỉ vì mục đích thu thật nhiều lợi nhuận, doanh nghiệp lớn và DNNVV đều cần đến nhau. Dù giỏi kìm chế và chèn ép đến đâu, doanh nghiệp lớn cũng không thể thủ tiêu hết DNNVV, chính từ lợi ích của bản thân mình. Cũng như vậy, dù giỏi xoay sở và giành giật đến đâu, DNNVV cũng không thể thay thế được, càng không thể loại bỏ được doanh nghiệp lớn, chính từ yêu cầu tồn tại của bản thân mình. Cả hai loại doanh nghiệp là những bộ phận hợp thành không thể thiếu của một nền kinh tế ở thế kỷ 21. II. Chính sách phát triển DNNVV 1. Khái niệm chính sách và chính sách phát triển các DNNVV Trước hết, ta cần hiểu thế nào là”chính sách”. Thuật ngữ “chính sách” được sử dụng phổ biến trên báo chí, các phương tiện thông tin và đời sống xã hội. Mọi chủ thể kinh tế- xã hội đều có những chính sách của mình. Ví dụ, có chính sách của các cá nhân, chính sách của doanh nghiệp , chính sách của Đảng, chính sách của một quốc gia, chính sách của một liên minh các nước hay tổ chức quốc tế .v.v.. Theo quan điểm phổ biến, chính sách là phương thức hành động được một chủ thể khẳng định và thực hiện nhằm giải quyết những vấn đề lặp đi lặp lại. Tuyên bố chính sách có nghĩa là một tổ chức hay một cá nhân đã quyết định một cách thận trọng và có ý thức cách giải quyết những vấn đề tương tự. Chính sách xác định những chỉ dẫn chung cho quá trình ra quyết định. Chúng vạch ra phạm vi hay giới hạn cho phép của các quyết định, nhắc nhở những nhà quản lí quyết định nào là có thể và những quyết định nào là không thể. Bằng cách đó, các chính sách hướng suy nghĩ và hành động của mọi thành viên trong tổ chức vào việc thực hiên các mục tiêu chung của tổ chức. Chính sách kinh tế- xã hội (chính sách công), xét theo nghĩa rộng, là tổng thể các quan điểm tư tưởng phát triển, những mục tiêu tổng quát và những phương thức cơ bản để thực hiện mục tiêu phát triển của đất nước. Chính sách theo quan niệm trên là đường nối phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. ở Việt Nam, đường nối do Đảng Cộng Sản Việt Nam- lực lượng chính trị lãnh đạo Nhà nước và xã hội xây dựng. Theo nghĩa hẹp, có nhiều khái niệm khác nhau về chính sách phát triển kinh tế- xã hội (chính sách công) được đưa ra. Nhìn chung lại, ta có thể đưa ra khái niệm cơ bản sau: chính sách kinh tế- xã hội là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các giải pháp và công cụ mà Nhà nước sử dụng để tác động nên các chủ thể kinh tế- xã hội nhằm giải quyết vấn đề chính sách, thực hiện những mục tiêu nhất định theo định hướng mục tiêu tổng thể của đất nước. Từ những quan điểm về chính sách nói chung và chính sách kinh tế- xã hội (chính sách công) nói riêng, ta có thể rút ra khái niệm về chính sách phát triển hệ thống DNNVV ở Việt Nam như sau: Chính sách phát triển hệ thống DNNVV là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các giải pháp và công cụ mà Nhà nước sử dụng để nhằm khuyến khích, thúc đẩy sự phát triển của các DNNVV, góp phần phát huy và nâng cao hiệu quả cho hệ thống các doanh nghiệp này, nhằm phục vụ tốt nhất cho sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Nói cách khác, chính sách phát triển DNNVV là sự thể chế hoá pháp luật của Nhà nước đối với các vấn đề về các DNNVV, là hệ thống các quan điểm, phương hướng, mục tiêu và các giải pháp nhằm phát triển hệ thống này. Chưa bao giờ và không ở đâu sự phát triển của DNNVV lại chỉ do bàn tay vô hình, tức là sự hoạt động tự phát của thị trường, ở mọi quốc gia và trong mọi thời kỳ, bàn tay hữu hình luôn luôn hiện hữu, tức là tác động của Nhà nước rất quan trọng, rất cơ bản, thậm chí có tính quyết định. Đối với toàn bộ khu vực DNNVV, Nhà nước là người khởi xướng, ngưòi khuyến khích, người giúp đỡ, người bảo vệ, người cứu trợ (khi khó khăn) người điều tiết thoả đáng (khi cần thiết). Hầu hết các Nhà nước chẳng những đối xử với DNNVV bình đẳng như với doanh nghiệp lớn, mà còn dành ưu đãi rõ rệt cho DNNVV, với nhận thức đúng đắn rằng sự bất bình đẳng có lợi cho DNNVV là dân chủ, là con đường và biện pháp tốt để thực hiện bình đẳng xã hội. Bàn tay hữu hình của Nhà nước thể hiện qua hệ thống luật lệ của Nhà nước, từ chính quyền trung ương đến chính quyền địa phương và chính quyền cơ sở, có thể hiện hữu ngay trong hiến pháp, và từ hệ thống luật lệ toả ra trong mọi công việc mà Nhà nước tiến hành. Tóm tắt những chính sách thể hiện trong luật lệ của Nhà nước về DNNVV là như sau: 1. Tạo dễ dàng việc khởi nghiệp và việc hành nghề của DNNVV. 2. Cho vay vốn với điều kiện thuận lợi( như Nhà nước góp phần thế chấp hoặc bảo lãnh) với lãi suất thấp, với ân hạn dài, với sự trợ giúp khi gặp khó khăn trong việc trả nợ. 3. Cho hưởng nhiều ưu đãi về thuế. 4. Chuyển giao và giúp làm chủ công nghệ và quản lý tiên tiến. 5. Giúp đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực, từ giám đốc đến kĩ thuật viên, nhân viên quản lý, kế toán và công nhân hành nghề. 6. Cho nhận thầu công việc sản xuất, kinh doanh; cho đảm nhận từng dự án hoặc bộ phận dự án kinh tế ( của Nhà nước ); cho hạn ngạch hoặc tỷ phần trong việc cung ứng hàng hoá hoặc dịch vụ cho thị trường trong nước và cho xuất khẩu. 7. Giúp tiếp cận thị trường, cung cấp thông tin kịp thời và chuẩn xác về thị trường, cho tham gia nhiều hình thức thiết lập và phát triển quan hệ với các đối tác trong và ngoài nước. 8. Đặc biệt chăm sóc và giúp đỡ: + Các DNNVV nhiều triển vọng + Các DNNVV bị thiệt thòi hoặc gặp nhiều khó khăn + Các DNNVV do phụ nữ làm chủ + Các DNNVV trong một số nghành và vùng ưu tiên v.v... 9. Hoạch định, thông qua và thực hiện những chiến lược trung hạn và dài hạn, những chương trình quốc gia từng năm hoặc vài năm về phát triển DNNVV. 10. Theo dõi tình hình, thường thì làm thống kê riêng về DNNVV, kiểm điểm việc thực hiện các luật lệ, chiến lược và chương trình nói trên, phát hiện và xử lý kịp thời các vấn đề nảy sinh để phát triển DNNVV. 11. Lập cơ quan Nhà nước chuyên trách về DNNVV, có nơi là cơ quan cấp bộ hoặc là một bộ trong Chính Phủ. 12. Giúp thành lập và hoạt động có hiệu quả của các hiệp hội DNNVV. Dành cho các hiệp hội ấy cơ hội và vị trí đích đáng trong các Hội đồng, các Uỷ ban, các hội nghị quan trọng của Nhà nước để hoạch định các chính sách kinh tế quốc gia. Qua nghiên cứu luật lệ của nhiều nước, thì rõ ràng mỗi nước bắt đầu từ một số luật lệ nhằm vào những vấn đề bức xúc và quan trọng nhất của sự phát triển DNNVV, do vậy còn chưa hoàn thiện và chưa đầy đủ, rồi từng bước các luật lệ đó được bổ sung hoàn chỉnh dần, đến khi bao quát khắp các mặt như vừa giới thiệu trong 12 diều nêu trên. Sự khác nhau giữa các nước chủ yếu là ở mức độ khuyến khích, ưu đãi, giúp đỡ nhiều hay ít, cao hay thấp đối với DNNVV, và một phần nữa là ở một số biện pháp khuyến khích cụ thể, có nét riêng biệt của từng nước. Phần 2 chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam I.Tình hình phát triển DNNVV ở Việt Nam Theo tổng kết cuộc tổng điều tra các cơ sở kinh tế hành chính sự nghiệp trên phạm vi cả nước tại thời điểm ngày 1/7/1995 tiến hành ở 23.708 doanh nghiệp, thì có 20.856 doanh nghiệp, tức là 87,6% trong tổng số là DNNVV, dựa vào tiêu chí phân loại theo tổng giá trị vốn đã qui định. Doanh nghiệp có số vốn dưới 5 tỷ đồng: 20.856, chiếm 88%, doanh nghiệp có số vốn trên 5 tỷ đồng: 2.852, chiếm 12%. Trong những doanh nghiệp có số vốn dưới 5 tỷ đồng: +Doanh nghiệp có số vốn dưới 1tỷ đồng: 16.673, chiếm 70,3%. +Doanh nghiệp có số vốn từ 1 đến 5 tỷ đồng: 4.183, chiếm 17,6%. Như vậy là, theo tiêu chí vốn, năm 1995, các DNNVV chiếm 99,56% trong tổng số các doanh nghiệp tư nhân, chiếm 97,38% trong tổng số các hợp tác xã, chiếm 94,72% trong tổng số các công ty TNHH, chiếm 42,37% trong tổng số các công ty cổ phần và 65,88% trong tổng số các doanh nghiệp Nhà Nước. Trong tổng số doanh nghiệp được điều tra là 23.708, có tới 20.856 DNNVV. Theo số liệu thống kê đến 30/6/1998, trong tổng số các doanh nghiệp dân doanh là 25.517, có 17.535 doanh nghiệp tư nhân, 6.900 công ty TNHH, 153 công ty cổ phần và 2.900 hợp tác xã. Xét về lĩnh vực kinh doanh, cũng theo số liệu của cuộc điều tra nói trên, trong số 20.856 DNNVV có 77,6% hoạt động trong các ngành thương nghiệp, sửa chữa và công nghiệp chế biến, trong đó các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương nghiệp, sửa chữa chiếm 42,2% và các doanh nghiệp hoạt động trong công nghiệp chế biến chiếm 35,4%. Doanh nghiệp hoạt động trong xây dựng chiếm gần 10%; trong khách sạn, nhà hàng 44,4%; trong ngành vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc 3,3%; trong ngành kinh doanh bất động sản và dịch vụ tư vấn 2,1%; trong ngành khai thác mỏ 1,2%; còn lại dưới 1% là những doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác. Về phân bố giữa các địa phương, DNNVV tập chung chủ yếu tập ở vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long chiếm 55% tổng số DNNVV của cả nước, ngoài ra là Đồng bằng sông Hồng chiếm 18,1%, Duyên hải miền Trung 10,1%. 2.Vai trò của các DNNVV trong nền kinh tế Việt Nam Trong nền kinh tế nước ta hiện nay DNNVV có vị trí đặc biệt quan trọng thể hiện qua các mặt dưới đây: -Tạo việc làm cho người lao động. Đây là một thế mạnh rõ rệt của DNNVV và là nguyên nhân chủ yếu khiến chúng ta phải đặc biệt chú trọng phát triển DNNVV ở nước ta hiện nay. Số liệu điều tra lao động và việc làm (7/2000) cho thấy ở Việt Nam, dân số trong độ tuổi lao động (nam từ 15 đến 60, nữ từ 15 đến 55) là 46,2 triệu người chiếm 59,2% tổng dân số (năm 1989 mới chỉ là 55%). Việt Nam đang chuyển từ giai đoạn cấu trúc dân số trẻ sang "cơ cấu dân số vàng", nghĩa là tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động ở mức cao trong khi tỷ lệ dân số phụ thuộc giảm. Dự báo trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ XXI tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động tiếp tục tăng và đạt đỉnh cao nhất là gần 70% vào năm 2009 (56 triệu người). Từ năm 1999 đến năm 2009 mỗi năm sẽ có thêm 1,8 triệu người bước vào độ tuổi lao động. Đây là mức tăng nguồn nhân lực cao nhất từ trước đến nay trong lịch sử dân số Việt Nam, là tiềm năng, cơ hội lớn về nguồn nhân lực và cũng là thách thức rất lớn về giải quyết việc làm. Khu vực DNNVV thuộc các thành phần kinh tế hiện thu hút khoảng 25-26% lực lượng lao động phi nông nghiệp của cả nước, nhưng triển vọng thu hút thêm lao động rất lớn vì suất đầu tư cho một làm việc ở đây thấp hơn rất nhiều so với doanh nghiệp lớn, chủ yếu là do chi phí thấp và thu hút được các nguồn vốn rải rác trong dân. Theo tài liệu "Một số chỉ tiêu chủ yếu về qui mô và hiệu quả của 1,9 triệu cơ sở sản xuất kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam " của Tổng Cục Thống Kê xuất bản năm 1997, lượng vốn trung bình cho một chỗ làm việc trong doanh nghiệp tư nhân chỉ có 35 triệu đồng và trong công ty TNHH là 45 triệu đồng, trong khi lượng vốn trung bình cho một chỗ làm việc tại doanh nghiệp Nhà Nước là 87,5 triệu đồng. Các DNNVV đang là nơi có nhiều thuận lợi nhất để tiếp nhận số lao động nhất là ở nông thôn tăng mỗi năm; đồng thời còn tiếp nhận số lao động từ các doanh nghiệp Nhà nước dôi ra qua việc cổ phần hoá, giao, bán, khoán, cho thuê, phá sản doanh nghiệp hiện đang được triển khai. -Đóng góp tăng trưởng kinh tế. Mỗi năm DNNVV đóng góp khoảng 25-26% GDP của cả nước. Năm 1995, DNNVV tạo ra 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, 78% tổng mức bán lẻ, 64% tổng khối lượng vận chuyển hàng hoá, 100% giá trị sản lượng hàng hoá của một số ngành nghề như chiếu cói, giầy dép, hàng thủ công mỹ nghệ ... Xét về tương quan giá trị TSCĐ với doanh thu để xem xét hiệu quả sử dụng đồng vốn, có thể thấy hiệu quả sử dụng đồng vốn ở khu vực DNNVV đang rất khả quan: để tạo ra một đồng doanh thu, các doanh nghiệp Nhà nước thuộc Trung ương quản lý phải đầu tư 0,562 đồng vốn cố định, trong khi đó các doanh nghiệp Nhà nước do địa phương quản lý chỉ đầu tư 0,220 đồng; doanh nghiệp tập thể 0,298 đồng; doanh nghiệp tư nhân 0,197 đồng; công ty TNHH 0,188 đồng. Nếu so sánh các doanh nghiệp Nhà nước Trung ương quản lý số vốn cố định mà doanh nghiệp Nhà nước do địa phương quản lý sử dụng cho một đồng doanh thu chỉ bằng 39%; tương tự như vậy, các doanh nghiệp tập thể bằng 53%; các doanh nghiệp tư nhân băng 35%; còn công ty TNHH chỉ bằng 33%. -Bảo đảm cho nền kinh tế năng động hơn. Do yêu cầu vốn ít, qui mô nhỏ, DNNVV có nhiều khả năng thay đổi mặt hàng, chuyển hướng sản xuất, đổi mới công nghệ làm cho nền kinh tế năng động hơn. Một số nền kinh tế như Đài Loan vừa qua ít chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính khu vực, chủ yếu do dựa vào DNNVV. Đối với doanh nghiệp lớn, DNNVV cũng có thể làm đại lý, vệ tinh, tiêu thụ hàng hoá hoặc cung cấp vật tư đầu vào với giá rẻ hơn do đó góp phần hạ giá thành nâng cao hiệu quả sản xuất cho doanh nghiệp lớn. -Tăng thu nhập cho dân cư. Thu nhập của nhân dân ta còn quá thấp do kinh tế chậm phát triển; ngay trong nông nghiệp, dù sản lượng thóc có tăng nhanh thì cũng chỉ đủ no, chứ không giầu được nếu không có công nghiệp chế biến. Phát triển DNNVV ở thành thị cũng như nông thôn là biện pháp chủ yếu để tăng thu nhập, đa dạng hoá thu nhập của các tầng
Tài liệu liên quan