Đề tài Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu góp phần phát triển kinh tế Lào để làm thạc sỹ của mình trong khoá học tại Việt Nam

Nhằm theo kịp với trình độ phát triển của các quốc gia lớn và để chuyển đổi nền kinh tế hiệu quả, hoàn thiện và minh bạch chính sách thuế trong công tác nhập khẩu là một nội dung cực kỳ quan trọng. Chính sách thuế nhập khẩu có hoàn thiện mới thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại quốc tế phát triển. Kinh tế thương mại quốc tế phát triển sẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trang bị kỹ thuật phục vụ quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.

doc88 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1270 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu góp phần phát triển kinh tế Lào để làm thạc sỹ của mình trong khoá học tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào đang từng bước chuyển đổi nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Nhằm theo kịp với trình độ phát triển của các quốc gia lớn và để chuyển đổi nền kinh tế hiệu quả, hoàn thiện và minh bạch chính sách thuế trong công tác nhập khẩu là một nội dung cực kỳ quan trọng. Chính sách thuế nhập khẩu có hoàn thiện mới thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại quốc tế phát triển. Kinh tế thương mại quốc tế phát triển sẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trang bị kỹ thuật phục vụ quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Như vậy, hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu là một đòi hỏi đang rất cần thiết và tất yếu tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Chính vì vậy, tôi đã lựa chọn đề tài: Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu góp phần phát triển kinh tế Lào để làm luận văn thạc sỹ của mình trong khoá học tại Việt Nam. 2. Mục đích nghiên cứu: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về chính sách thuế nhập khẩu tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. - Phân tích, đánh giá thực trạng chính sách thuế nhập khẩu tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. - Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: - Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu chính sách thuế nhập khẩu. - Phạm vi nghiờn cứu: tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, trong khoảng thời gian từ năm 2000 – 2006. 4. Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp được sử dụng trong quá trình nghiên cứu là: phương pháp thu thập, thống kê, tổng hợp số liệu, so sánh và phân tích kinh tế. 5. Những đóng góp của luận văn: - Hệ thống hóa những vấn đề cơ bản về chính sách thuế nhập khẩu. - Phân tích thực trạng chính sách thuế nhập khẩu tại CHDCND Lào, từ đó tìm ra những mặt mạnh, điểm yếu và nguyên nhân hạn chế của chính sách thuế nhập khẩu tại CHDCND Lào. - Đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu góp phần phát triển kinh tế Lào. 6. Kết cấu của luận văn: Kết cấu luận văn bao gồm 3 chương: Chương 1: Chính sách thuế nhập khẩu và tác động của nó đến sự phát triển nền kinh tế. Chương 2: Thực trạng chính sách thuế nhập khẩu của Lào từ năm 2000 đến nay. Chương 3: Giải pháp hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu tại CHDCND Lào. CHƯƠNG I: CHÍNH SÁCH THUẾ NHẬP KHẨU VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ LÀO 1.1. Khái niệm, bản chất, vai trò của thuế nhập khẩu: 1.1.1 - Khái niệm: Thuế là khoản đóng góp mang tính pháp Luật mà nhà nước bắt buộc tổ chức, cá nhân họat động sản xuất và kinh doanh phải nộp phần thu nhập mới tạo ra vào ngân sách nhà nước (NSNN). Khoản nộp dưới hình thức thuế không mang tính hoàn trả trực tiếp, một phần được hoàn trả gián tiếp thông qua trợ cấp xã hội, phúc lợi công cộng. Cũng có thể hiểu: thuế là hình thức động viên, phân phối sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân do các tổ chức và cá nhân tạo ra để hình thành quỹ tiền tệ tập trung nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Là một phạm trù lịch sử, thuế gắn liền với sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của nhà nước, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế xã hội từng thời kỳ. Tuỳ theo mỗi chế độ xã hội khác nhau, thuế được thiết lập theo những quan điểm khác nhau. Song nhìn chung trong nền kinh tế thị trường thuế có những chức năng nhiệm vụ chủ yếu sau đây: Một là, thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Thông qua thuế, NSNN có được nguồn thu để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu để thực hiện chức năng quản lý xã hội. Hai là, trong nền kinh tế thị trường, thuế là một công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Thông qua công cụ này, chính phủ kiểm soát, hướng dẫn, khuyến khích hoặc hạn chế sự phát triển của doanh nghiệp. Đồng thời thực hiện sự điều tiết hợp lý giữa người giàu và người nghèo, đảm bảo sự bình đẳng giữa các chủ thể kinh doanh và các tầng lớp dân cư. Người ta phân chia thuế thành thuế trực thu và thuế gián thu. Thuế trực thu: là loại thuế mà người nộp thuế và người chịu thuế đồng thời là một. Thuế trực thu trực tiếp điều tiết vào thu nhập của những người nộp thuế và lấy trong phần thu nhập của mình để nộp vào NSNN. Ví dụ như thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế lợi tức… Thuế gián thu: là lọai thuế mà người nộp thuế và người chịu thuế không đồng thời là một. Người nộp thuế là người sản xuất hoặc người kinh doanh hàng hóa, còn người chịu thuế là người tiêu dùng các hàng hóa đó, họ mua hàng hóa với giá cả trong đó có cả thuế. Với cơ chế này, người sản xuất kinh doanh hàng hóa khi bán hàng hóa cũng là lúc họ thu hộ thuế gián thu cho Nhà nước (qua giá bán hàng) và nộp khỏan thuế này vào cho NSNN, tức là nộp hộ cho người tiêu dùng hàng hóa. Do đó, thuế gián thu là loại thuế điều tiết vào thu nhập của người tiêu dùng hàng hóa, dụch vụ một cách gián tiếp, thông qua cơ chế giá hàng hóa và dịch vụ. Ví dụ: thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế nhập khẩu… Qua nghiên cứu các khái niệm về thuế trên đây, thấy rằng: mỗi khái niệm chỉ mô tả một phần bản chất của thuế và mang tính lịch sử trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội. Gắn với tình hình thực tế và xu thế phát triển kinh tế - xã hội hiện nay tác giả khái niệm về thuế nhập khẩu như sau: Tất cả các hàng hóa vượt quá tiêu chuẩn hành lý được miễn thuế của các tổ chức cá nhân và người nước ngòai khi nhập khẩu cảnh qua cửa khẩu phải chịu thuế nhập khẩu. 1.1.2 - Bản chất của thuế nhập khẩu: Thuế nhập khẩu là thuế chính phủ đánh vào hàng hóa được chuyên chở qua biên giới quốc gia hoặc lãnh thổ hải quan. Đây là một trong những công cụ lâu đời nhất của chính sách thương mại quốc tế, là biện pháp tài chính của Nhà nước nhằm can thiệp vào hoạt động ngoại thương, buôn bán trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia. Nhờ có công cụ này nhà nước có thể điều chỉnh các hoạt động thương mại quốc tế phù hợp với định hướng phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia trong một thời kỳ nhất định. Thuế nhập khẩu là thuế đánh vào hàng hóa nhập khẩu. Loại thuế này được áp dụng khá phổ biến trên thế giới. @ - Bản chất của thuế nhập khẩu thể hiện trên hai phương diện: Về mặt kinh tế: thuế nhập khẩu thực chất là một phần của cải xã hội được tập trung vào NSNN nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Nó là khoản đóng góp bắt buộc của các tổ chức, cá nhân có tham gia vào hoạt động nhập khẩu. Thuế nhập khẩu là thuế gián thu nên người chịu thuế là người tiêu dùng. Tuy nhiên khi nhà nước tăng thuế suất thì ảnh hưởng đầu tiên là tới các tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hóa bởi hàng hóa của họ trở nên đắt đỏ hơn, kém sức cạnh tranh hơn. Do đó, việc động viên thuế nhập khẩu phải có giới hạn. Mức thuế suất hợp lý sẽ có tác dụng tăng thu cho NSNN và kích thích sản xuất, kinh doanh phát triển. Mức thuế suất quá cao sẽ dẫn tới tình trạng trốn thuế, lậu thuế. Tìm được một mức thuế suất thích hợp cho từng thời kỳ là một bài toán khó cho các nhà hoạch định chính sách. Về mặt xã hội : thuế nhập khẩu phản ánh mối quan hệ giữa nhà nước và các pháp nhân, thể nhân tham gia vào hoạt đọng nhập khẩu hàng hóa. Nó là một công cụ được nhà nước sử dụng để thực hiện chức năng quản lý của mình đối với các họat động kinh tế đối ngoại, điều chỉnh các quan hệ phân phối, phân phối lại thu nhập xã hội giữa các tổ chức, cá nhân và Nhà nước.Vì vậy, thuế nhập khẩu mang tính xã hội cao. Nghiên cứu bản chất xã hội của thuế nhập khẩu giúp chúng tôi quán triệt đầy đủ và sâu sắc yêu cầu trong việc hoạch định chính sách thuế nhập khẩu phải bảo đảm rõ ràng, đơn giản, dễ hiểu, mang tính phổ thông, phù hợp với trình độ của cả người thu thuế và người nộp thuế. Việc tổ chức quản lý thu thuế cũng phải bảo đảm tính minh bạch. Công khai, dân chủ mới đem lại hiệu quả cao. 1.1.3 - Vai trò của thuế nhập khẩu trong nền kinh tế thị trường: Là một loại thuế gián thu, thuế nhập khẩu là một công cụ chính sách ngoại thương, được nhà nước sử dụng để quản lý hoạt động nhập khẩu của một nước, nhằm phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Là những sắc thuế trong hệ thống thuế quốc gia cho nên thuế nhập khẩu cũng có vai trò của thuế nói chung là tạo nguồn thu cho NSNN và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Tuy nhiên, dưới giác độ là một sắc thuế cụ thể thì thuế nhập khẩu cũng thể hiện những vai trò riêng có của nó. Một là, thuế nhập khẩu tạo nguồn thu cho NSNN. Để thực sự phát huy vai trò tạo nguồn thu NSNN, thuế nhập khẩu phải bao quát hết các hoạt động kinh doanh nhập khẩu của các tổ chức, cá nhân, đảm bảo thu đúng, thu đủ và nộp kịp thời tiền thuế nhập khẩu vào NSNN. Thông qua thuế nhập khẩu, nhà nước huy động một phần thu nhập quốc dân được tạo ra từ hoạt động nhập khẩu hàng hóa để tập trung vào NSNN. Tuy nhiên, nếu Nhà nước dùng quyền lực của mình để huy động quá mức thì các tổ chức, cá nhân kinh doanh nhập khẩu sẽ không kinh doanh nữa hoặc chuyển sang kinh doanh ngầm để trốn thuế làm Nhà nước bị thất thu thuế. Vì vậy, khi tái phân phối thu nhập bằng thuế nhập khẩu phải chú ý đến khả năng nộp thuế của các tổ chức, cá nhân này. Khả năng nộp thuế phản ánh số thuế tối đa mà các tổ chức, cá nhân kinh doanh nhập khẩu có thể nộp mà không ảnh hưởng hoặc thay đổi hoạt động kinh doanh của họ. Khả năng nộp thuế tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, ý thức chấp hành pháp luật, truyền thống văn hóa của mỗi quốc gia. Hai là, thuế nhập khẩu là một công cụ tài chính được nhà nước sử dụng để kiểm soát và điều tiết hoạt động nhập khẩu hàng hóa. Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động trao đổi, mua bán hàng hóa diễn ra ở hầu khắp các nước. Hàng hóa ngày càng đa dạng về hình thức và chủng loại. Có hàng hóa phục vụ an ninh quốc phòng, có hàng hóa tiêu dụng thiết yếu, có hàng hóa xâm hại đến chủ quyền an ninh quốc gia và đời sống của nhân dân như ma tuý, vũ khí, văn hóa phẩm đồi trụy…Vì vây, thông qua việc kiểm tra, thu thuế đối với hàng hóa nhập khẩu. Có thể nắm được tên của mặt hàng số lượng là bao nhiêu, nhập khẩu từ nước nào. Qua đó, nhà nước kiểm soát được toàn bộ các loại hàng hóa nhập khẩu để có những chính sách phù hợp với thực tiễn. Để điều tiết hoạt động nhập khẩu hàng hóa, ngoài các biện pháp phi thuế như hạn ngạch, giấy phép v.v…Thì biện pháp sử dụng công cụ thuế nhập khẩu áp dụng khá phổ biến. Đối với nguyên liệu nhập khẩu cần cho sản xuất trong nước mà trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất được nhưng chưa đáp ứng đủ nhu cầu thì nhà nước quy định mức thuế suất thuế nhập khẩu thấp, thậm chí là 0% để khuyến khích nhập khẩu phục vụ sản xuất trong nước. Đối với những sản phẩm mà trong nước đã sản xuất được đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng hoặc những sản phẩm tiêu dùng cao cấp (xi măng, sắc...) thuế suất thuế nhập khẩu thường quy định ở mức cao để hạn chế nhập khẩu và hạn chế tiêu dùng. Như vậy, thông qua công cụ thuế nhập khẩu, nhà nước thực hiện việc điều tiết đối với hoạt động nhập khẩu hàng hóa. Ba là, thuế nhập khẩu bảo hộ sản xuất trong nước. Chúng ta biết rằng, khối lượng hàng hóa nhập khẩu phụ thuộc vào sức mua của thị trường. Sức mua của thị trường phụ thuộc vào giá cả hàng hóa. Khi giá cả hàng hóa tăng giảm còn ảnh hưởng làm giảm tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường. Thuế nhập khẩu là một bộ phận cấu thành giá cả hàng hóa nhập khẩu. Vì thế, thuế nhập khẩu đấnh thấp hay cao có ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của hàng hóa. Đối với những hàng hóa nhập khẩu là những sản phẩm mà trong nước đã sản xuất được hoặc những mặt hàng cần bảo hộ, Nhà nước đánh thuế nhập khẩu cao sẽ hạn chế tiêu dùng hàng nhập khẩu, khuyến khích tiêu dùng sản phẩm trong nước. Trong điều kiện đó, hàng sản xuất trong nước sẽ có điều kiện cạnh tranh qua giá với hàng nhập khẩu. Khi đánh thuế nhập khẩu hàng tiêu dùng ở mức thấp, tức là Nhà nước không hạn chế nhập khẩu mặt hàng đó, người tiêu dùng sẽ được hưởng lợi thông qua việc tiêu dùng hàng nhập khẩu với chất lượng cao, mẫu mã đẹp, giá lại rẻ. Đồng thời, với mức thuế nhập khẩu thấp sẽ trực tiếp thúc đẩy các doanh nghiệp cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ, kiện toàn tổ chức, cải tiến mẫu mã, hạ giá thành sản phẩm để nâng cao khả năng cạnh tranh với hàng ngoại nhập nếu muốn tồn tại và phát triển. Đối với hàng hóa là đầu vào của các ngành sản xuất trong nước, hàng là máy móc thiết bị phục vụ sản xuất trong nước, việc đánh thuế nhập khẩu thấp sẽ có tác động trực tiếp đến chi phí đầu vào của giá thành sản phẩm. Với giá thành sản phẩm giảm (do thuế nhập khẩu thấp) sẽ giúp cho doanh nghiệp có điều kiện đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản xuất, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng sản xuất trong nước. Như vậy, thông qua công cụ thuế nhập khẩu, nhà nước thể hiện quan điểm bảo hộ sản xuất trong nước, định hướng tiêu dùng và thu hút đầu tư. Tuỳ thuộc vào mức độ bảo hộ sản xuất trong nước, các nước có thể thực hiện các hình thức đánh thuế như: - Thuế quan vừa đủ là loại thuế quan mà mức thuế suất chỉ vừa đủ cao cho phép các nhà sản xuất nội địa bù đắp chi phí và có lợi nhuận bình thường mức độ bảo hộ thấp. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập kinh tế, do bị ràng buộc phải thực hiện các cam kết quốc tế về cắt giảm thuế nhập khẩu, vai trò bảo hộ của thuế nhập khẩu phần nào bị hạn chế. Hơn nữa, nếu quá nhấn mạnh đến vai trò bảo hộ của thuế nhập khẩu thì không những không thực hiện được các cam kết quốc tế mà còn làm cho sản xuất trong nước bị đình trệ kém phát triển do ỷ lại vào sự bảo hộ của Nhà nước. Vì vậy, để phát huy tốt vai trò bảo hộ của thuế nhập khẩu buộc phải có sự lựa chọn những ngành nghề cần bảo hộ, mức độ bảo hộ và thời hạn bảo hộ sao cho phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước, đồng thời buộc các ngành được bảo hộ phải có chiến lược đầu tư đổi mới công nghệ, cải tiến phương thức quản lý để nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, chủ động cạnh tranh với hàng nhập khẩu khi hết thời hạn bảo hộ. 1.2. Chính sách thuế nhập khẩu 1.2.1 - Nội dung cơ bản của chính sách thuế nhập khẩu Tuy mỗi nước có một chính sách thuế nhập khẩu riêng nhưng về cơ bản vẫn có một số nội dung được đề cập giống nhau. Những nội dung đó là: Đối tượng chịu thuế nhập khẩu: là hàng hóa được phép nhập khẩu qua cửa khẩu biên giới. Trong Luật thuế nhập khẩu mỗi nước đều có quy định cụ thể về phạm vi đối tượng chịu thuế nhập khẩu. Như ở Lào cũng có quy định như sau: + Mọi hang hóa được phép nhập khẩu qua cửa khẩu biên giới Lào, đều là đối tượng chịu thuế nhập khẩu bao gồm: - Hang hóa nhập khẩu của các tổ chức kinh tế Lào thuộc các thành phần kinh tế được phép mua bán trao đổi, vay nợ với nước ngoài. - Hàng hóa nhập khẩu của các tổ chức kinh tế nước ngoài, các hình thức đầu tư nước ngoài tại Lào. - Hàng hóa vượt quá tiêu chuẩn hành lý được miễn thuế mang theo người của cá nhân Lào và người nước ngoài khi nhập cảnh qua cửa khẩu, biên giới Lào. - Hàng là quà biếu, quà tặng vượt quá tiêu chuẩn miễn thuế của các tổ chức, các nhân ở nước ngoài, người Lào định cư ở nước ngoài mang hoặc gửi về cho các tổ chức, cá nhân ở Lào và ngược lại. - Hàng hóa nhập khẩu vượt quá tiêu chuẩn miễn thuế của các tổ chức quốc tế, cơ quan ngoại giao nước ngoài tại Lào và các cá nhân nước ngoài làm việc tại các tổ chức nói trên hiặc tại các thanh thức đầu tư nước ngoài tại Lào. Ngoài ra, Lào cũng có quy định về đối tượng không chịu thuế nhập khẩu. Thông thường đó là các hàng hóa sau: + Hàng vận chuyển quá cảnh hoặc mượn đường qua biên giới Lào trên cơ sở hiệp định ký kết giữa các Chính phủ hoặc ngành, địa phương được Thủ tướng Chính phủ phép. + Hàng chuyển khẩu bao gồm: - Hàng hóa được chuyển thẳng từ cửa khẩu nước xuất khẩu đến cửa khẩu nước nhập khẩu không đến cảng nội địa. - Hàng hóa được chở đến cửa khẩu nội địa nhưng không làm thủ tục nhập khẩu mà đi luôn tới cửa khẩu nước nhập khẩu. - Hàng viên trợ nhân đạo của các tổ chức Chính phủ và phi Chính phủ. Như vậy, đối tượng chịu thuế nhập khẩu đa dạng. Trừ một số mặt hàng mà Nhà nước không cho phép xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu vì có thể gây tác động tiêu cực đến an ninh quốc gia và đời sống văn hóa xã hội, còn lại mọi loại mặt hàng đều có thể là hàng hóa chịu thuế nhập khẩu. B) Giá tính thuế: hay trị giá hải quan là trị giá của hàng hóa nhập khẩu được xác định theo mục đích quản lý của cơ quan hải quan. Việc xác định đúng trị giá hàng hóa không chỉ có ảnh hưởng trực tiếp tới quan hệ thương mại, ngoại giao giữa các nước. Có hai trường phái chính trong việc xác định trị giá hàng hóa: - Trường phái áp dụng phương pháp xác định trị giá hàng nhập khẩu theo trị giá GATT. Những nước theo trường phái này quy định trị giá để tính thuế hàng nhập khẩu là trị giá thực. Trị giá thực được hiểu là trị giá ghi trong hóa đơn thương mại (giá thỏa thuận trong điều kiện cạnh tranh lành mạnh ghi trong hợp đồng mua bán ngoại thương) cộng thêm các khoản chi phí hợp lý, hợp pháp chưa được tính vào trị giá, Ví dụ: chi phí hoa hồng và môi giới, chi phí thuê công-ten-nợ…những nước áp dụng trị giá GATT thường quy định rõ trong Luật pháp của mình phương pháp xác định trị giá thực. Căn cứ pháp lý cơ bản để xem xét trị giá thực là hợp đồng mua bán ngoại thương. Đơn vị kinh doanh hàng hóa nhập khẩu phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về tính trung thực của mức giá ghi trên hợp đồng. Mọi gian lận nếu bị phát hiện đều bị xử phạt rất nặng. Thông thường những nước áp dụng trị giá này là những nước phát triển, nơi mà hệ thống Luật pháp tương đối ổn định, người dân có ý thức pháp luật cao, hệ thống thanh toán hiện đại. Ưu điểm của hình thức này là hoàn toàn phù hợp với các chuẩn mực của thương mại tự do, được luật pháp quốc tế hóa bằng việc tổ chức GATT ban hành Hiệp định vì chị giá hải quan theo GATT. Áp dụng hình thức này, đơn vị nhập khẩu sẽ dự tính trước được số thuế phải nộp, qua đó chủ động trong khâu tính toán, lập kế hoạch kinh doanh. Tuy nhiên, việc áp dụng hình thức này cũng đòi hỏi đội ngũ cán bộ hải quan phải được đào tạo kỹ càng, chi phí quản lý thuế cao vì việc quản lý sẽ phức tạp. Nếu quản lý không tốt, đơn vị nhập khẩu có thể thông đồng với nhau khai thấp trị giá tính thuế, gây thất thu cho NSNN và dẫn đến hiện tượng gian lận thương mại qua giá. - Trường phái áp dụng bảng giá tối thiểu. Khác với trị giá thực là trị giá thực tế thanh toán hoặc sẽ phải thanh toán theo mức giá được thỏa thuận trong điều kiện cạnh tranh lành mạnh và được ghi trong hợp đồng mua bán ngoại thương, giá tối thiểu được xác định căn cứ vào giá trị hàng hóa được sản xuất trong nước nhập khẩu hoặc trị giá hư cấu, áp đặt. Những nước áp dụng giá tối thiểu thường quy định nếu mức giá ghi trên hợp đồng mà thấp hơn mức giá trong bảng giá tối thiểu được Nhà nước quy định thì phải áp dụng giá ghi trong bảng giá tối thiểu. Việc áp dụng hình thức này thường diễn ra ở những nước đang phát triển, hệ thống Luật pháp chưa ổn định. Ý thức Luật pháp của người dân chưa cao, thường trốn thuế bằng cách ghi thấp giá trị trong hợp đồng. Áp dụng hình thức này chính là một biện pháp phi thuế quan giúp các nước này tăng số thu nhưng không phải tăng thuế suất – một biện pháp dễ bị trả đũa. Nhưng việc áp dụng hình thức này khiến chính sách thuế không minh bạch, rõ ràng, không thể dự đoán được. Ngoài ra, nếu việc định giá giá tối thiểu không được cập nhật thường xuyên dựa trên các thông tin điều tra về thị trường sẽ dẫn đến hiện tượng dịnh gía tối thiểu quá cao hoặc quá thấp so với giá thực tế, gây khó khăn cho người nhập khẩu hoặc thất thu NSNN. 1.2.2 -Vị trí của chính sách thuế nhập khẩu: Chính sách thuế nhập khẩu là một hệ thống các quan điểm, mục tiêu và các công cụ, biện pháp thích hợp mà nhà nước sử dụng để can thiệp, điều tiết hoạt động nhập khẩu hàng hóa của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định phù hợp với định hướng, mục đích đã định trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia đó. Chính sách thuế nhập khẩu cũng nhằm xây dựng hành lang pháp lý giúp cho các cá nhân, đơn vị có hoạt động nhập khẩu hàng hóa có khả năng dự đoán trước và điều chỉnh hành vi kinh doanh của mình. Chính sách thuế nhập khẩu là một bộ phận của chính sách kinh tế chung của quốc gia, có quan
Tài liệu liên quan