Đề tài Hoàn thiện chính sách tiền lương tại Công ty Cổ phần Thần Châu Sa

Đất nước ta đã và đang có những bước chuyển mình tích cực theo xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá nền kinh tế của thế giới. Trong bối cảnh đó, sự đổi mới tư duy, nhận thức về các công cụ quản lý kinh tế góp phần quan trọng quyết định tới sự thành công hay thất bại của đường lối kinh tế nói chung. Tiền lương và quan hệ tiền lương không tách rời khỏi sự vận động chung của nền kinh tế. Tính chất, hình thái vận động và chất lượng của quan hệ tiền lương và sự phát triển kinh tế xã hội có mối quan hệ biện chứng thống nhất, tác động qua lại lẫn nhau. Tiền lương và chính sách tiền lương là động lực kích thích người lao động phát huy hết khả năng tiềm tàng của mình, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm qua đó góp phần thúc đẩy sự phát triển của tổ chức cũng như sự phát triển chung của toàn xã hội. Vì vậy, vấn đề nhận thức đúng đắn bản chất và vai trò của tiền lương và chính sách tiền lương ngày càng trở nên cấp thiết. Nhận thức được tầm quan trọng đó, em đã chọn đề tài: “Hoàn thiện chính sách tiền lương tại Công ty Cổ phần Thần Châu Sa”.

doc59 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1784 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện chính sách tiền lương tại Công ty Cổ phần Thần Châu Sa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Đất nước ta đã và đang có những bước chuyển mình tích cực theo xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá nền kinh tế của thế giới. Trong bối cảnh đó, sự đổi mới tư duy, nhận thức về các công cụ quản lý kinh tế góp phần quan trọng quyết định tới sự thành công hay thất bại của đường lối kinh tế nói chung. Tiền lương và quan hệ tiền lương không tách rời khỏi sự vận động chung của nền kinh tế. Tính chất, hình thái vận động và chất lượng của quan hệ tiền lương và sự phát triển kinh tế xã hội có mối quan hệ biện chứng thống nhất, tác động qua lại lẫn nhau. Tiền lương và chính sách tiền lương là động lực kích thích người lao động phát huy hết khả năng tiềm tàng của mình, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm qua đó góp phần thúc đẩy sự phát triển của tổ chức cũng như sự phát triển chung của toàn xã hội. Vì vậy, vấn đề nhận thức đúng đắn bản chất và vai trò của tiền lương và chính sách tiền lương ngày càng trở nên cấp thiết. Nhận thức được tầm quan trọng đó, em đã chọn đề tài: “Hoàn thiện chính sách tiền lương tại Công ty Cổ phần Thần Châu Sa”. CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TIỀN LƯƠNG VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG TRONG DOANH NGHIỆP 1.1. Lý luận chung về tiền lương 1.1.1. Khái niệm về tiền lương “Tiền lương là giá cả sức lao động được hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động thông qua hợp đồng lao động (bằng văn bản hoặc bằng miệng) phù hợp với quan hệ cung - cầu sức lao động trên thị trường lao động và phù hợp với các quy định tiền lương của pháp luật lao động”. Tiền lương là khoản tiền mà người sử dụng lao động (mua sức lao động) trả cho người lao động (bán sức lao động) trên cơ sở số lượng và chất lượng lao động đã được cung ứng. Tiền công là số tiền mà người thuê lao động trả cho người lao động để thực hiện một khối lượng công việc, hoặc trả cho một thời gian làm việc (thường là theo giờ), trong những hợp đồng thoả thuận thuê nhân công phù hợp với quy định của pháp luật lao động và pháp luật dân sự về thuê mướn lao động. Như vậy, tiền lương và tiền công về bản chất đều là giá cả của sức lao động tuy nhiên giữa chúng có sự khác nhau: tiền lương mang tính chất thường xuyên theo một đơn vị thời gian (tuần, tháng, năm) thường được trả cho các cán bộ quản lý và các nhân viên chuyên môn, kỹ thuật; còn tiền công phụ thuộc vào số lượng thời gian làm việc thực tế (ngày, giờ), hay số lượng sản phẩm được sản xuất ra hay tuỳ thuộc vào khối lượng công việc đã hoàn thành. Tiền công thường được trả cho công nhân sản xuất, các nhân viên bảo dưỡng máy móc, thiết bị, nhân viên văn phòng. Ngoài ra trong nghiên cứu tiền lương còn có khái niệm tiền thưởng, thù lao, thu nhập. 1.1.2. Bản chất của tiền lương Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, sức lao động đã trở thành một thứ hàng hoá đặc biệt và được trao đổi mua bán trên thị trường. Khi đó giá cả của hàng hoá sức lao động chính là số tiền mà người lao động nhận được do công sức của họ bỏ ra. Vì vậy, bản chất của tiền lương chính là giá cả của sức lao động trong nền kinh tế thị trường. Với bản chất như vậy, tiền lương - một loại giá cả cũng không nằm ngoài quy luật của nền kinh tế thị trường. Các quy luật đó bao gồm: quy luật phân phối theo lao động, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu... 1.1.3. Chức năng của tiền lương Chức năng thước đo giá trị sức lao động. Tiền lương là giá cả của sức lao động, là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động. Sức lao động của con người là hàng hoá đặc biệt. Nó được tạo ra sau quá trình tiêu dùng tư liệu sinh hoạt qua các hoạt động ăn, uống, nghỉ ngơi…Do vậy, giá trị hàng hoá sức lao động không được biểu hiện một cách trực tiếp mà biểu hiện gián tiếp thông qua giá trị của hàng hoá thông thường, được đo bằng lượng lao động xã hội cần thiết để tạo ra nó và thông qua mối quan hệ cung cầu về hàng hoá sức lao động để hình thành nên các mức tiền lương trên thị trường lao động. Như vậy, tiền lương có chức năng thước đo giá trị sức lao động. Trong quá trình phát triển của nền kinh tế xã hội, giá cả tư liệu sinh hoạt thường xuyên biến động làm cho giá trị sức lao động cũng thay đổi theo. Tiền lương muốn phản ánh đúng giá trị sức lao động thì tiền lương phải thay đổi theo sự những sự biến động đó. Chức năng tái sản xuất sức lao động Trong quá trình lao động sản xuất, sức lao động của con người bị hao mòn dần đi cùng với quá trình tạo ra sản phẩm, con người cần phải bù đăp lượng lao động đã mất đi đó. Mặt khác để duy trì và phát triển sức lao động, người lao động cần phải thường xuyên được đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn; người lao động phải tiêu dùng cho gia đình và nuôi dạy con cái. Tiền lương là một trong những tiền đề vật chất để có thể chi trả cho tất cả các chi phí đó. Như vậy, tiền lương có chức năng duy trì và phát triển sức lao động hay chức năng tái sản xuất sức lao động. Chức năng kích thích. Tiền lương là bộ phận thu nhập chính của người lao động nhằm thoả mãn phần lớn các nhu cầu về vật chất và tinh thần. Do vậy, tiền lương có thể được sử dụng như một công cụ kích thích, định hướng động cơ, mục tiêu của người lao động hướng theo mục tiêu của tổ chức. Đối với người lao động mức tiền lương nhận được thoả đáng phù hợp với lượng lao động mà họ đã hao phí sẽ tạo động lực kích thích năng lực sáng tạo làm tăng năng suất lao động. Khi năng suất lao động tăng thì lợi nhuận của doanh nghiệp tăng lên, nó là cơ sở để tăng tiền lương và các lợi ích khác cho người lao động. Khi lợi ích của người lao động được đảm bảo nó sẽ tạo ra sự gắn kết cộng đồng giữa những người lao động với mục tiêu và lợi ích của doanh nghiệp, giảm bớt sự ngăn cách giữa người sử dụng lao động và người cung ứng sức lao động, làm cho người lao động có trách nhiệm hơn, tự giác hơn với các hoạt động của doanh nghiệp…Điều này góp phần không nhỏ thúc đẩy doanh nghiệp ngày một phát triển nhanh và bền vững. Chức năng bảo hiểm tích luỹ Chức năng này được thể hiện ở chỗ, với mức tiền lương nhận được người lao động không những duy trì được cuộc sống hàng ngày của bản thân và gia đình trong thời gian làm việc mà còn có khả năng dành lại một phần tích luỹ dự phòng thông qua mua bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và các dịch vụ bảo hiểm hữu ích khác hoặc chi trả các khoản chi phí cho các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn kĩ thuật của bản thân, đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh tạo việc làm…Với chức năng này của tiền lương nó góp phần không nhỏ vào việc duy trì sự ổn định và trật tự an toàn chung của xã hội. Chức năng xã hội Tiền lương là yếu tố kích thích việc hoàn thiện các mối quan hệ lao động. Thực tế cho thấy việc duy trì các mức tiền lương cao và tăng không ngừng được thực hiện trên cơ sở đảm bảo hài hoà các mối quan hệ lao động trong doanh nghiệp. Việc gắn tiền lương với hiệu quả sản xuất kinh doanh của người lao động và đơn vị kinh tế sẽ thúc đẩy các mối quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau, nâng cao hiệu quả cạnh tranh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó tạo tiền đề cho sự phát triển toàn diện của con người và thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng dân chủ và văn minh. Chức năng xã hội của tiền lương còn được thể hiện ở góc độ điều phối thu nhập trong nền kinh tế quốc dân tạo nên sự công bằng xã hội trong việc trả lương cho người lao động trong cùng một ngành nghề, một khu vực và giữa các ngành nghề, khu vực khác nhau. Như vậy, bản chất của tiền lương không chỉ bó hẹp trong phạm trù kinh tế đơn thuần được hiểu như một khoản thù lao bù đắp chi phí thực hiện trong quá trình lao động. Tiền lương còn là một phạm trù kinh tế - xã hội tổng hợp, phản ánh giá trị sức lao động trong điều kiện kinh tế - văn hoá và lịch sử nhất định, có tác động quan trọng đến sản xuất, đời sống và mọi mặt kinh tế - xã hội. Vì vậy, xây dựng một hệ thống chính sách tiền lương đúng đắn có hiệu quản là vô cùng quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp, tổ chức nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. 1.1.4. Nguyên tắc cơ bản của tổ chức trả lương Nguyên tắc cơ bản trong tổ chức tiền lương là cơ sở quan trọng nhất để xây dựng được một chính sách tiền lương, cơ chế trả lương thích hợp trong một thể chế kinh tế nhất định. Ở nước ta hiện nay khi tổ chức trả lương phải tuân theo các nguyên tắc sau: 1.1.4.1.Trả lương ngang nhau cho lao động như nhau Lao động như nhau là lao động có cùng số lượng và chất lượng tức là có cùng mức hao phí sức lao động. Những người lao động khác nhau về tuổi tác, giới tính, trình độ…nhưng có mức hao phí sức lao động như nhau thì được trả lương như nhau. Nguyên tắc này được thể hiện trong các thang lương, bảng lương và các hình thức trả lương trong cơ chế và phương thức trả lương, trong chính sách tiền lương. Đây là một nguyên tắc rất quan trọng vì nó đảm bảo được sự công bằng, đảm bảo sự bình đẳng trong trả lương. Nguyên tắc này thực hiện tốt sẽ có sức khuyến khích rất lớn đối với người lao động. 1.1.4.2. Đảm bảo tốc độ tăng tiền lương bình quân nhỏ hơn tốc độ tăng năng suất lao động Tăng tiền lương và tăng năng suất lao động có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nguyên tắc này đòi hỏi khi trả lương phải căn cứ vào năng suất lao động. Xét các yếu tố, nguyên nhân trực tiếp dẫn tới tăng tiền lương và tiền lương bình quân, ta thấy tiền lương tăng là do trình độ tổ chức và quản lý lao động ngày càng hiệu quả hơn…Đối với tăng năng suất lao động ngoài các yếu tố gắn liền với việc nâng cao kĩ năng làm việc và trình độ tổ chức quản lý lao động như trên thì tăng năng suất lao động còn do các nguyên nhân khác tạo ra như đổi mới công nghệ sản xuất, nâng cao trình độ trang bị kĩ thuật trong lao động khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên…Rõ ràng là năng suất lao động có khả năng tăng nhanh hơn tiền lương bình quân. Trong mỗi doanh nghiệp tăng tiền lương dẫn đến tăng chi phí sản xuất kinh doanh; tăng năng suất lao động lại làm giảm chi phí cho từng đơn vị sản phẩm. Một doanh nghiệp chỉ thực sự kinh doanh hiệu quả khi chi phí nói chung cũng như chi phí cho một đơn vị sản phẩm giảm đi, tức mức giảm chi phí do tăng năng suất lao động phải lớn hơn mức tăng chi phí do tiền lương bình quân. Như vậy, nguyên tắc này là cần thiết để nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, nâng cao đời sống của người lao động. 1.1.4.3. Đảm bảo mối quan hệ hợp lý về tiền lương giữa các ngành và các vùng trong cả nước Nguyên tắc này bổ sung cho nguyên tắc thứ nhất rất cần thiết và dựa trên những cơ sở sau: Trình độ lành nghề bình quân của người lao động ở mỗi ngành Do tính chất đặc thù về kỹ thuật và công nghệ ở các ngành nghề dẫn tới trình độ lành nghề bình quân của người lao động ở các ngành nghề khác nhau là khác nhau. Sự khác nhau này cần thiết phải được phân biệt trong trả lương. Có như vậy mới khuyến khích người lao động tích cực học tập, rèn luyện nâng cao trình độ lành nghề và kỹ năng làm việc nhất là trong các ngành nghề đòi hỏi kiến thức và tay nghề cao. Điều kiện lao động: Điều kiện lao động là tổng hợp những yếu tố trong môi trường xung quanh tác động đến người lao động trong quá trình lao động. Điều kiện lao động khác nhau dẫn tới mức hao phí sức lao động khác nhau, khả năng làm việc khác nhau do vậy tiền lương trả phải khác nhau để đảm bảo tái sản xuất sức lao động như nhau. Vị trí của mỗi ngành trong nền kinh tế quốc dân: Mỗi một nền kinh tế bao gồm rất nhiều ngành khác nhau. Tuỳ thuộc vào từng thời kỳ, từng giai đoạn phát triển của mỗi nước một số ngành được xem là trọng tâm cần ưu tiên phát triển vì có tác dụng rất lớn đến sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế. Các ngành này cần được ưu tiên phát triển. Nhà nước sử dụng rất nhiều hình thức để thu hút và khuyến khích lao động làm việc trong các ngành nghề này và tiền lương là một chính sách có ý nghĩa quan trọng góp phần rất lớn Sự phân bố theo khu vực địa lý: Mỗi ngành có thể được phân bố ở những khu vực khác nhau về địa lý, kéo theo những khác nhau về đời sống vật chất, tinh thần, văn hoá, tập quán. Những sự khác nhau đó gây ảnh hưởng không nhỏ tới mức sống của người lao động. Do vậy để thu hút, khuyến khích người lao động làm việc ở những vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn phải có chính sách tiền lương thích hợp với những phụ cấp, ưu đãi thoả đáng. Có như vậy mới có thể sử dụng hợp lý lao động xã hội và khai thác có hiệu quả các nguồn lực, tài nguyên thiên nhiên ở mọi vùng miển của đất nước. 1.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến tiền lương - Nhóm các yếu tố căn cứ vào bản thân công việc + Xác định cấu trúc công việc của tổ chức. + Mang lại bình đẳng và trật tự trong mối tương quan công việc. + Triển khai một thứ bậc giá trị của công việc được sử dụng để thiết lập cơ cấu lương bổng. - Nhóm các yếu tố căn cứ vào bản thân nhân viên 1.2. Chính sách tiền lương trong doanh nghiệp 1.2.1. Khái niệm về chính sách tiền lương Chính sách tiền lương được hiểu là một hệ thống những cách thức, quy định, những nguyên tắc, hình thức để tổ chức, cá nhân sử dụng lao động thực hiện việc trả lương cho người lao động vừa tuân thủ những định hướng vĩ mô của nhà nước vừa thoả mãn những quy luật kinh tế khách quan. Chính sách tiền lương trong một tổ chức bao gồm hệ thống thang, bảng lương; những quy định về cơ chế quản lý quỹ tiền lương; mức lương tối thiểu; chế độ tiền lương, các hình thức trả lương; các quy định về chế độ phụ cấp lương; thưởng trong lương… Chính sách tiền lương luôn là chính sách lớn rất nhạy cảm vì nó quan hệ với nhiều chính sách kinh tế xã hội khác. Chính sách tiền lương là một trong những công cụ quản lý quan trọng của chủ thể quản lý tác động lên đối tượng quản lý. Vì chính sách tiền lương có quan hệ mật thiết với cơ chế quản lý và sử dụng nguồn nhân lực là nguồn lực quan trọng nhất không thể thiếu trong bất cứ một hoạt động kinh tế nào. Chính vì vậy vấn đề nhận thức rõ bản chất, những tác động của nó để xây dựng một chính sách tiền lương hợp lý phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của tổ chức trở nên vô cùng quan trọng và không thể thiếu đối với mỗi một tổ chức, một doanh nghiệp để duy trì sự tồn tại và phát triển của mình. 1.2.2. Những nội dung cơ bản của chính sách tiền lương Một chính sách tiền lương bao gồm những nội dung cơ bản sau: 1.2.2.1. Hệ thống thang, bảng lương Thang lương là bản xác định quan hệ tỷ lệ về tiền lương giữa những công nhân trong cùng một nghề hoặc một nhóm nghề giống nhau, theo trình độ lành nghề của họ. Những nghề khác nhau sẽ có những thang lương tương ứng khác nhau. Một thang lương bao gồm một số bậc lương và hệ số phù hợp với các bậc lương đó. Số bậc lương và các hệ số của thang lương khác nhau là không giống nhau. Bậc lương là bậc phân biệt về trình độ lành nghề của người lao động trong một nghề nhất định. Tuỳ theo mức độ phức tạp của công việc mà mỗi một thang lương có số bậc lương khác nhau. Hệ số lương chỉ rõ lao động của một người nào đó (lao động có trình độ lành nghề cao) được trả lương cao hơn người lao động giản đơn nhất trong nghề bao nhiêu lần. 1.2.2.2. Quy định mức lương tối thiểu Mức lương tối thiểu chung là mức lương trả cho người lao động làm những công việc giản đơn nhất trong xã hội trong điều kiện và môi trường lao động bình thường, chưa qua đào tạo nghề. Mức lương tối thiểu được xác định bằng nhiều phương pháp khác nhau: tính theo nhu cầu tối thiểu; tính theo chỉ số giá sinh hoạt; dựa vào mức tiền công trên thị trường; tính theo khả năng của nền kinh tế… Mức tiền lương tối thiểu chung được dùng làm căn cứ để tính các mức lương trong hệ thống thang lương, bảng lương và thực hiện các chế độ khác cho người lao động theo quy định của pháp luật. Mỗi doanh nghiệp căn cứ vào điều kiện cụ thể của mình, trên cơ sở quy định của nhà nước để tính toán áp dụng hệ số điều chỉnh tăng thêm theo ngành, theo khu vực sao cho phù hợp. 1.2.2.3. Xây dựng đơn giá tiền lương Việc xây dựng đơn giá tiền để làm căn cứ trả lương cho người lao động phù hợp với giá tiền công và quan hệ cung cầu lao động trên thị trường được thực hiện theo các bước như sau: a/ Xác định chỉ tiêu kế hoạch sản xuất, kinh doanh để xây dựng đơn giá tiền lương: Căn cứ vào tính chất, đặc điểm sản xuất, kinh doanh, công ty lựa chọn các chỉ tiêu kế hoạch sản xuất, kinh doanh sau đây để xây dựng đơn giá tiền lương: - Tổng doanh thu; - Tổng doanh thu trừ tổng chi phí (chưa có lương): - Lợi nhuận; - Tổng sản phẩm (kể cả sản phẩm quy đổi) tiêu thụ. b/ Xác định các thông số để xây dựng đơn giá tiền lương: Các thông số để xây dựng đơn giá tiền lương, bao gồm: - Mức lao động tổng hợp cho đơn vị sản phẩm (Tsp) hoặc lao động định biên của công ty (Lđb) - Mức lương tối thiểu của công ty lựa chọn, được tính theo công thức sau: TLmincty = TLmin x (1 + Kđc) Trong đó: + TLmincty: Mức lương tối thiểu của công ty lựa chọn; + TLmin: Mức lương tối thiểu chung; + Kđc: Hệ số điều chỉnh tăng thêm so với mức lương tối thiểu chung do công ty lựa chọn. - Hệ số lương theo cấp bậc công việc bình quân (Hcb): Hệ số lương theo cấp bậc công việc bình quân để xây dựng đơn giá tiền lương được xác định trên cơ sở cấp bậc công việc bình quân của công nhân, nhân viên trực tiếp sản xuất, kinh doanh và hệ số lương bình quân của lao động gián tiếp (không kể Tổng giám đốc, Giám đốc và các thành viên chuyên trách Hội đồng quản trị). Cấp bậc công việc được xác định căn cứ vào tổ chức sản xuất, tổ chức lao động, trình độ kỹ thuật, công nghệ và yêu cầu chất lượng sản phẩm. - Hệ số phụ cấp bình quân tính trong đơn giá tiền lương (Hpc): Hệ số phụ cấp bình quân tính trong đơn giá tiền lương được xác định căn cứ vào đối tượng và mức phụ cấp được hưởng của từng loại phụ cấp do Nhà nước quy định, gồm: phụ cấp khu vực; phụ cấp thu hút; phụ cấp trách nhiệm công việc; phụ cấp độc hại, nguy hiểm; phụ cấp lưu động; phụ cấp giữ chức vụ trưởng phòng, phó trưởng phòng và tương đương. - Tiền lương của cán bộ chuyên trách đoàn thể do tổ chức đoàn thể trả lương (Vđt): Đối với cán bộ chuyên trách đoàn thể do tổ chức đoàn thể trả lương thì phần chệnh lệch giữa tiền lương tính theo mức lương tối thiểu của công ty lựa chọn và tiền lương do tổ chức đoàn thể trả được cộng vào để xác định đơn giá tiền lương của công ty. - Tiền lương tính thêm khi làm việc vào ban đêm (Vttlđ): Tiền lương tính thêm khi làm việc vào ban đêm, được xác định bằng 30% tiền lương khi làm việc vào ban ngày của số lao động làm việc vào ban đêm đã xác định trong kế hoạch. c/ Xây dựng đơn giá tiền lương: Công ty lựa chọn phương pháp phù hợp dưới đây để xây dựng đơn giá tiền lương, cụ thể: - Đơn giá tiền lương tính trên tổng doanh thu, áp dụng theo công thức sau: Vđg = [Ldb x TLmincty x (Hcb + Hpc) + Vđt] x 12 tháng + Vttld STkh Trong đó: + Vdg: Đơn giá tiền lương tính trên tổng doanh thu (đơn vị tính đồng/1.000 đồng doanh thu); + Ldb: Lao động định biên + TLmincty: Tiền lương tối thiểu của Công ty + Hcb: Hệ số lương theo cấp bậc công việc bình quân + Hpc: Hệ số phụ cấp bình quân + Vđt: Tiền lương của cán bộ chuyên trách đoàn thể do tổ chức đoàn thể trả lương + Vttld: Tiền lương tính thêm khi làm việc vào ban đêm + STkh: Tổng doanh thu kế hoạch - Đơn giá tiền lương tính trên tổng doanh thu trừ tổng chi phí (chưa có lương), áp dụng theo công thức sau: Vđg = [Ldb x TLmincty x (Hcb + Hpc) + Vđt] x 12 tháng + Vttld STkh - SCkh (chưa có lương) Trong đó: + Vdg: Đơn giá tiền lương tính trên tổng doanh thu trừ tổng chi phí chưa có lương (đơn vị tính đông/1.000 đồng tổng doanh thu trừ tổng chi phí chưa có lương) + Ldb, TLmincty, Hcb, Hpc, Vđt, Vttld: như trên + STkh : Tổng doanh thu kế + SCkh : Tổng chi phí kế hoạch - Đơn giá tiền lương tính trên lợi nhuận, áp dụng theo công thức sau: Vđg = [Ldb x TLmincty x (Hcb + Hpc) + Vđt] x 12 tháng + Vttld Pkh Trong đó: + Vdg : Đơn giá tiền lương tính trên tổng doanh thu (đơn vị tính đồng/1.000 đồng tổng trừ đi tổng chi phí chưa có lương); + Ldb, TLmincty, Hcb, Hpc, Vdt, Vttld: như trên + Pkh: Lợi nhuận kế hoạch - Đơn giá tiền lương tính trên đơn vị sản phẩm (kể cả sản phẩm qui đổi) tiêu thụ, áp dụng theo công thức sau: Vdg = Vgiờ x Tsp Trong đó: + Vdg: Đơn giá tiền lương tính trên đơn vị sản phẩm, kể cả sản phẩm quy đổi tiêu thụ (đơn vị tính là đồng/đơn vị sản phẩm); + Vgiờ: Tiền lương giờ để tính đơn giá tiền lương, được tín
Tài liệu liên quan