Đề tài Hoàn thiện nội dung và phương pháp phân tích tình hình tài chính tại Công ty cổ phần Xây dựng Dầu khí Nghệ An

Phân tích tài chính doanh nghệp là một công cụ quản lý quan trọng giúp các nhà quản trị nhận thức được thực trạng, chất lượng hoạt động tài chính của doanh nghiệp, trên cơ sở đó cung cấp những căn cứ khoa học và thực tiễn cho các quyết định tài chính trong tương lai. Vì vậy công tác phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp cần phải được nghiên cứu dựa trên cơ sở khoa học về mặt lý luận và thực tiễn. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, phân tích tài chính trong các doanh nghiệp đã được các nhà quản lý quan tâm và đã đem đến những hiệu quả nhất định. Mặc dù vậy công tác phân tích tài chính vẫn còn vướng mắc về nội dung hệ thống các chỉ tiêu và phương pháp làm hạn chế tác động tích cực. Vì vậy đòi hỏi phải có sự thay đổi về chất Trong quá trình nghiên cứu với việc chọn đề tài “Hoàn thiện nội dung và phương pháp phân tích tình hình tài chính tại Công ty cổ phần Xây dựng Dầu khí Nghệ An” hy vọng sẽ cung cấp cho các nhà quản lý thuộc ngành xây lắp nói chung và c Công ty cổ phần Xây dựng Dầu khí Nghệ An và các đối tượng quan tâm nói riêng những phương pháp , nội dung và hệ thống chỉ tiêu phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp

doc102 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1481 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện nội dung và phương pháp phân tích tình hình tài chính tại Công ty cổ phần Xây dựng Dầu khí Nghệ An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA KẾ TOÁN --------***-------- TẠ QUANG THOAN HOÀN THIỆN NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG DẦU KHÍ NGHỆ AN LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ HÀ NỘI -10/2010 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Phân tích tài chính doanh nghệp là một công cụ quản lý quan trọng giúp các nhà quản trị nhận thức được thực trạng, chất lượng hoạt động tài chính của doanh nghiệp, trên cơ sở đó cung cấp những căn cứ khoa học và thực tiễn cho các quyết định tài chính trong tương lai. Vì vậy công tác phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp cần phải được nghiên cứu dựa trên cơ sở khoa học về mặt lý luận và thực tiễn. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, phân tích tài chính trong các doanh nghiệp đã được các nhà quản lý quan tâm và đã đem đến những hiệu quả nhất định. Mặc dù vậy công tác phân tích tài chính vẫn còn vướng mắc về nội dung hệ thống các chỉ tiêu và phương pháp làm hạn chế tác động tích cực. Vì vậy đòi hỏi phải có sự thay đổi về chất Trong quá trình nghiên cứu với việc chọn đề tài “Hoàn thiện nội dung và phương pháp phân tích tình hình tài chính tại Công ty cổ phần Xây dựng Dầu khí Nghệ An” hy vọng sẽ cung cấp cho các nhà quản lý thuộc ngành xây lắp nói chung và c Công ty cổ phần Xây dựng Dầu khí Nghệ An và các đối tượng quan tâm nói riêng những phương pháp , nội dung và hệ thống chỉ tiêu phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài Từ sự cần thiết trên, mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm: Góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về công tác phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp nói chung và tại Công ty cổ phần Xây dựng Dầu khí Nghệ An nói riêng. Nghiên cứu đánh giá thực trạng về hệ thống chỉ tiêu và phương pháp phân tích tình hình tài chính tại Công ty cổ phần Xây dựng Dầu khí Nghệ An. Vận dung những vấn đề lý luận và thực tiễn về phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp, đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu và phương pháp phân tích tình hình tài chính tại Công ty cổ phần Xây dựng Dầu khí Nghệ An. góp phần nâng cao chất lượng công tác phân tích tình hình tài chính tại công ty. 3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài: Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn của công tác phân tích tài chính, hệ thống chỉ tiêu và phương pháp phân tích tình hình tài chính tai Công ty cổ phần Xây dựng Dầu khí Nghệ An. Phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ nghiên cứu lý luận về phân tích hiệu quả kinh doanh một cách chuyên sâu. Số liệu thực tế chỉ nghiên cứu tại Công ty cổ phần Xây dựng Dầu khí Nghệ An. 4. Phưong pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác-Lê nin làm phương pháp luận, đồng thời kết hợp các phương pháp tư duy trìu tượng, phân tích, tổng hợp...để làm rõ vấn đề đặt ra cần giải quyết nhằm đề xuất được những giải pháp khả thi. Đề tài cũng sử dụng lý thuyết hệ thống, mô hình hoá và phương pháp thống kê so sánh bằng các số liệu minh hoạ, các bài viết đăng trên các báo và tạp chí để phân tích và làm sáng tỏ vấn đề. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Về mặt khoa học: Góp phần tổng kết lại về mặt lý luận nội dung và phương pháp phân tích tình hình tài chính. Làm tiền đề áp dụng lý thuyết vào thực tiễn. Về mặt thực tiễn: Khảo sát thực trạng về nôi dung và phương pháp phân tích tình hình tài chính tại công ty Cổ phần Xây dựng Dầu khí Nghệ An, đánh giá công tác phân tích tài chính tại công ty, từ đó kiến nghị những giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện nôi dung và phương pháp phân tích tài chính tại công ty. 6. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liêu tham khảo, kết cấu của luận văn gồm những nội dung chính sau đây: Chương 1: Cơ sở lý luận về nội dung và phương pháp phân tích tình hình tài chính các doanh nghiệp. Chương 2: Thực trạng nội dung và phương pháp phân tích tình hình tài chính tại công ty Cổ phần Xây dựng Dầu khí Nghệ An. Chương 3: Hoàn thiện nội dung và phương pháp phân tích tài chính tại công ty Cổ phần Xây dựng dầu khí Nghệ An. CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH CÁC DOANH NGHIỆP 1.1. TÀI CHÍNH DOANH DOANH NGHIỆP VÀ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 1.1.1. Tài chính doanh nghiệp Tài chính là một bộ phận cấu thành trong các hoạt động kinh tế của doanh nghiệp. Nó có mối liên hệ hữu cơ và tác động qua lại với các hoạt động kinh tế khác. Mối quan hệ này phản ánh và thể hiện sự tác động gắn bó, thường xuyên giữa phân phối với sản xuất và trao đổi có thể tiến hành bình thường và liên tục. Trong doanh nghiệp thương mại, để thực hiện việc mua bán, trao đổi hàng hoá được vận động luân chuyển không ngừng qua các giai đoạn mua hàng, dự trữ hàng, bán hàng và thanh toán tiền hàng. Doanh thu từ hoạt động kinh doanh phải bù đắp được các khoản chi phí đã bỏ ra và mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp từ đó hình thành nên các nguồn tài chính. Trong doanh nghiệp thương mại nguồn tài chính đựơc hình thành từ kết quả quá trình sản xuất kinh doanh tạo nên các mối quan hệ tài chính tiền tệ khác nhau, song chúng đều mang những đặc trưng cơ bản sau: Phản ánh những luồng chuyển dịch giá trị, sự vận động của các nguồn tài chính nảy sinh và gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Sự vận động chuyển hoá các nguồn lực trong kinh doanh được điều chỉnh bằng hệ thống các quan hệ phân phối thông qua việc tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ, các loại vốn kinh doanh nhất định trong hoạt động của doanh nghiệp. Động lực của sự vận và chuyển hoá các nguồn lực nhằm mục tiêu thu được các khoản doanh lợi trong khuôn khổ cho phép của Luật kinh doanh. Như vậy có thể nói tài chính doanh nghiệp là mối quan hệ tiền tệ gắn liền với việc hình thành vốn, phân phối sử dụng và quản lý vốn trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Bản chất bên trong của tài chính là những mối quan hệ kinh tế đa dạng. Xét trong phạm vi hoạt động của một doanh nghiệp thì có các quan hệ tài chủ yếu sau: Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với Nhà nước : Thể hiện trong việc doanh nghiệp thực hiện sản xuất kinh doanh theo hướng phát triển kinh tế- xã hội của Nhà nước hoặc Nhà nước giao chỉ tiêu, kế hoạch thực hiện. Doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho ngân sách Nhà nước và ngược lại trong một số trường hợp cần thiết Nhà nước có thể can thiệp và bảo hộ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Điều đó thể hiện mối quan hệ tác động qua lại và tương hỗ lẫn nhau trong hành lang pháp lý cho phép. Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với thị trường: Bao gồm thị trường hàng hoá, thị trường sức lao động, thị trường tài chính….Đây là những quan hệ mua bán, trao đổi các yếu tố phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp và những quan hệ cung ứng giao lưu vốn. Quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp: Là những quan hệ về phân phối, điều hoà cơ cấu thành phần vốn kinh doanh, phân phối thu nhập giữa các thành viên trong nội bộ doanh nghiệp; các quan hệ về thanh toán hợp đồng lao động giữa chủ doanh nghiệp với người lao động. Các mối quan hệ này đều thông qua việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp như: Vốn pháp định, vốn lưu động, quỹ tiền lương, quỹ khấu hao, quỹ dự trữ tài chính…nhằm phuc vụ các mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Các mối quan hệ này phát sinh một cách thường xuyên, liên tục, đan xen nhau và hình thành nên các hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, tài chính của doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tình hình tài chính của doanh nghiệp ổn định và phát triển cho phép doanh nghiệp thực hiện chế độ hạch toán một cách đầy đủ. Nếu trong quá trình vận động của vốn, sau một chu kỳ kinh doanh, lượng vốn thu về lớn hơn số vốn đã bỏ ra. Ngoài ra tình hình tài chính tốt cho phép doanh nghiệp tăng sức cạnh tranh của mình trên thị trường. Vì vậy Tài chính doanh nghiệp là một nội dung cần được xem xét và đánh giá kỹ lưỡng để giúp doanh nghiệp và các đối tác có khả năng nắm bắt tình hình tài chính của doanh nghiệp một cách đầy đủ và chính xác nhất. Phân tích tình hình tài chính là tổng thể các phưong pháp được sử dụng để nghiên cứu các mối quan hệ nói trên nhằm nhận thức đánh giá một cách đúng đắn, toàn diện tình hình tài chính doanh nghiệp, qua đó giúp cho những người sử dụng thông tin đưa ra được những quyết định đúng đắn trong qun lý kinh tế nói chung và quản lý tài chính nói riêng. 1.1.2. Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp 1.1.2.1. Khái niệm phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp Phân tích tài chính là tổng thể các phương pháp được sử dụng để đánh giá tình hình tài chính đã qua và hiện nay. Giúp cho nhà quản lý đưa ra được những quyết định quản lý chuẩn xác, đánh giá chính xác tình trạng của doanh nghiệp. Nói cách khác phân tích tài chính doanh nghiệp là quá trình xem xét, đối chiếu , kiểm tra, so sánh số liệu giữa hiện tại và quá khứ để đánh giá tình hình tài chính trong quá khứ và hiện tại của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó dự đoán tiềm năng, hiệu quả kinh doanh và các rủi ro tài chính cũng như triển vọng của doanh nghiệp trong tương lai. Từ đó giúp cho nhà quản lý đưa ra được những quyết định quản lý sản xuất kinh doanh đúng đắn, chính xác để phát triển doanh nghiệp, giúp cho những đối tượng quan tâm đi tới những dự đoán chính xác về tình hình tài chính của doanh nghiệp, qua đó có những quyết định sáng suốt, phù hợp với những mục tiêu mà doanh nghiệp phấn đấu để hương tới. 1.1.2.2. Vai trò phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp * Đối với nhà quản lý: Là người trực tiếp quản lý doanh nghiệp, phân tích tài chính doanh nghiệp nhằm hướng tới các mục tiêu sau đây: Thứ nhất, tạo ra những chu kỳ đều đặn để đánh giá hoạt động quản lý trong giai đoạn đã qua, việc thực hiện nguyên tắc cân bàng tài chính, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán và rủi ro tài chính trong doanh nghiệp. Thứ hai, phân tích tài chính là cơ sở cho những dự đoán tài chính của doanh nghiệp trong tương lai. Thứ ba, hướng các quyết định của ban giám đốc theo chiều hướng phù hợp với tình hình thực tế của doanh nghiệp, như các quyết định về đầu tư, tài trợ, phân phối lợi nhuận. Thứ tư, phân tích tài chính nhằm kiểm tra, kiểm soát hoạt động quản lý trong doanh nghiệp. * Đối với các nhà đầu tư (cá nhân, cổ đông, các đơn vị khác …): là những người giao vốn của mình cho doanh nghiệp quản lý và sử dung trong qua trình sản xuất kinh doanh để hưởng lãi. Thu nhập của họ là tiền lời được chia và thặng dư vốn cổ phần. Hai yếu tố này phần lớn chịu ảnh hưởng của lợi nhuận thu được của doanh nghiệp. Vì vậy, phân tích tài chính giúp cho các nhà đầu tư đánh giá chính xác thực trạng hoạt động của doanh nghiệp và ước đoán giá trị cổ phiếu, dựa vào việc nghiên cứu các báo cáo tài chính của doanh nghiệp qua đó phân tích được khả năng sinh lời, các tiềm ẩn rủi ro tài chính của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh. * Đối với các nhà cung cấp vật tư, hàng hoá dịch vụ: Phân tích tài chính doanh nghiệp nhằm mục đích xác định khả năng thanh toán của doanh nghiệp tại thời điểm hiện tại và trong tương lai qua đó để đưa ra quyết đinh có nên giao dịch với doanh nghiệp hay không, mức độ bán chịu vật tư hàng hoá dịch vụ như thế nao? * Đối với ngân hàng và các tổ chức tín dụng: Là những người cho các doanh nghiệp vay vốn để đảm bảo nhu cầu tài chính trong quá trình sản xuất kinh doanh. Khi quyết định cho doanh nghiệp vay họ phải biết chắc chắn khả năng hoàn trả các khoản. Thu nhập của ngân hàng và các tổ chức tín dụng đó là lãi vay mà doanh nghiệp phải trả. Do đó phân tích tài chính doanh nghiệp đối với ngân hàng và các tổ chức tín dung nhằm mục đích xác đinh khả năng thanh toán các khoản nợ mà doanh nghiệp vay của ngân hàng và xác định mức lãi thu được như thế nào. * Đối với những người hưởng lương trong doanh nghiệp: là những người có thu nhập duy nhất là tiền lương được trả hàng tháng. Ngoại trừ trong các công ty cổ phần, thu nhập của họ còn có thêm khoản tiền lãi được chia tương ứng với tỷ lệ cổ phần mà họ đóng góp. Các khoản thu nhập này nhận được còn phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy phân tích tài chính doanh nghiệp giúp họ định hướng việc làm ổn định của mình, trên cơ sở đó họ yên tâm cống hiến hết mình cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp . * Đối với cơ quan quản lý nhà nước ( Cơ quan thuế, kiểm toán, thanh tra nhà nước…) Phân tích tài chính doanh nghiệp giúp họ đánh giá đúng thực trạng tài chính, trách nhiệm nộp thuế cho ngân sách nhà nước, trên cơ sở đó các cơ quan quản lý nhà nước hoạch định chính sách về quản lý tài chính như chống độc quyền và chống phá giá … Như vậy, phân tích tài chính doanh nghiệp là một công cụ hữu ích được dùng để xác định giá trị kinh tế, đánh giá tình hình tình hình tài chính doanh nghiệp giúp cho những đối tượng quan tâm lựa chọn và đưa ra những quyết định phù hợp nhất để thực hiện mục tiêu mà mình theo đuổi. 1.2. CÁC PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH CỦA DOANH NGHIỆP Phân tích báo cáo tài chính xét theo nghĩa khái quát đề cập tới nghệ thuật phân tích và giải thích các báo cáo tài chính. Để áp dụng hiệu quả nghệ thuật này đòi hỏi phải thiết lập một quy trình có hệ thống và logic, có thể sử dụng làm cơ sở cho việc ra quyết định. Trong phân tích cuối cùng, việc ra quyết định là mục đích chủ yếu của phân tích BCTC. 1.2.1. Phương pháp so sánh Đây là phương pháp được sử dụng khá phổ biến trong phân tích để đánh giá kết quả, xác định vị trí và xu hướng biến động của chỉ tiêu phân tích. Để áp dụng phương pháp này cần chú ý những vấn đề sau: - Các chỉ tiêu phải đảm bảo các điều kiện: + Các chỉ tiêu so sánh phải thống nhất về nội dung phản ánh; + Phải thống nhất về phương pháp tính toán; + Phải thống nhất về thời gian và đơn vị đo lường; Nếu không đảm bảo các điều kiện trên thì việc so sánh sẽ mất giá trị, có khi còn phản ánh sai lệch thông tin. - Cần phải có gốc để so sánh; việc xác định gốc so sánh tùy thuộc vào mục đích cụ thể của phân tích. + Khi nghiên cứu nhịp độ biến động, tốc độ tăng trưởng của các chỉ tiêu (về mặt thời gian): có thể lựa chọn gốc để so sánh là trị số của các chỉ tiêu kỳ kế hoạch, kỳ trước, số liệu dự toán, cùng kỳ này năm trước… + Khi đánh giá kết quả đạt được của doanh nghiệp so với các đơn vị khác (về mặt không gian): có thể lựa chọn số liệu của các đơn vị có điều kiện tương đương, chọn tổng thể hay bộ phận của cùng tổng thể hoặc số liệu trung bình ngành…, để làm gốc so sánh. Các trị số của chỉ tiêu ở kỳ trước, kế hoạch, dự toán, cùng kỳ năm trước gọi chung là trị số kỳ gốc và thời kỳ chọn làm gốc so sánh đó, gọi chung là kỳ gốc. Còn kỳ chọn để phân tích gọi là kỳ phân tích. Với mục đích cụ thể của phân tích có thể chọn phương pháp so sánh bằng số tuyệt đối; so sánh bằng số tương đối (tương đối giản đơn, tương đối liên hệ, tương đối kết cấu…); so sánh bằng số bình quân. 1.2.2. Phương pháp loại trừ Phương pháp loại trừ được sử dụng để xác định xu hướng và mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến chỉ tiêu phản ánh đối tượng phân tích. Bằng cách, khi xác định sự ảnh hưởng của nhân tố này thì loại trừ ảnh hưởng của các nhân tố còn lại. Khi sử dụng phương pháp này cần chú ý tới hai điều kiện sau: - Các nhân tố có quan hệ với chỉ tiêu phân tích được biểu hiện dưới dạng một tích số (hoặc một thương số). - Việc sắp xếp và trình tự xác định ảnh hưởng lần lượt trong từng nhân tố đến chỉ tiêu phân tích dựa trên quan điểm tích lũy về lượng sẽ dẫn đến biến đổi về chất (nhân tố số lượng sắp xếp trước, nhân tố chất lượng xếp sau). Có hai phương pháp được sử dụng, đó là: + Phương pháp thay thế liên hoàn; + Phương pháp số chênh lệch Phương pháp thay thế liên hoàn Thay thế liên hoàn là phương pháp xác định ảnh hưởng của từng nhân tố đến sự biến động của chỉ tiêu nghiên cứu bằng cách thay thế lần lượt (mỗi nhân tố một lần) các nhân tố từ giá trị kỳ gốc sang kỳ phân tích để xác định trị số của chỉ tiêu nghiên cứu khi trị số của nhân tố thay đổi; rồi so sánh trị số của chỉ tiêu nghiên cứu vừa tính được với trị số của chỉ tiêu nghiên cứu trước khi thay thế nhân tố. Từ đó rút ra được nhận xét về ảnh hưởng của nhân tố thay thế đến chỉ tiêu nghiên cứu. Có thể khái quát mô hình chung của phương pháp này như sau: Giả sử có đối tượng phân tích (đối tượng nghiên cứu) là Q và Q chịu ảnh hưởng của các nhân tố a,b,c,d và các nhân tố này có quan hệ tích số với chỉ tiêu cần phân tích Q => Q = a.b.c.d Ta có: Chỉ tiêu nghiên cứu kỳ phân tích: Q1 = a1. b1. c1. d1 Chỉ tiêu nghiên cứu kỳ gốc : Q0 = a0. b0. c0. d0 Số tuyệt đối : DQ = Q1 – Q0 Số tương đối: x 100 DQ là số chênh lệch tuyệt đối của chỉ tiêu phân tích giữa kỳ phân tích và kỳ gốc. Các nhân tố ảnh hưởng DQa = a1. b0. c0. d0 - a0.b0.c0.d0 DQb = a1.b1. c0. d0 - a1. b0. c0. d0 DQc = a1. b1. c1. d0 - a1.b1. c0. d0 DQd = a1.b1.c1.d1 - a1. b1. c1. d0 Cuôi cùng là tổng hợp. DQ = DQa + DQb + DQc + DQd Trên cơ sở xác định sự ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố cần rút ra nhật xét, kết luận và kiến nghị giải pháp thiết thực nhằm không ngừng nâng cao kết quả của chỉ tiêu phân tích. Phương pháp số chênh lệch Với những điều kiện, trình tự vận dụng và giả sử như trên phương pháp chênh lệch để xác định mức độ ảnh hưởng của nhân tố nào thì trực tiếp dùng số chênh lệch về giá trị kỳ phân tích so với kỳ gốc của nhân tố đó để xác định. Có thể khái quát mô hình chung của phương pháp số chênh lệch như sau: DQ = Q1 – Q0 = DQa + DQb + DQc + DQd Trong đó : DQa = (a1 – a0). b0. c0. d0 DQb = (b1 – b0). a1. c0. d0 DQc = (c1 – c0). a1. b1. d0 DQd = (d1 – d0). a1.b1.c1 1.2.3. Phương pháp chi tiết chỉ tiêu phân tích Khi phân tích có thể chi tiết chỉ tiêu phân tích theo bộ phận cấu thành, theo thời gian và theo địa điểm. Sau đó, mới tiến hành xem xét, so sánh mức độ đạt được của từng bộ phận giữa kỳ phân tích so với kỳ gốc và mức độ ảnh hưởng của từng bộ phận đến tổng thể cũng như xem xét tiến độ thực hiện và kết quả đạt được trong từng thời gian hay mức độ đóng góp của từng bộ phận vào kết quả chung. Từ đó, tìm cách cải tiến các giải pháp cũng như điều kiện vận dụng từng giải pháp một cách phù hợp, hiệu quả. 1.2.4. Các phương pháp phân tích khác Phương pháp liên hệ cân đối Cơ sở của phương pháp này là dựa trên mối quan hệ của các nhân tố liên hệ cân đối doanh thu và chi phí, mua sắm và sử dụng vật tư… Có thể xây dựng phương pháp phân tích mà trong đó, các chỉ tiêu, nhân tố có quan hệ với chỉ tiêu phân tích được biểu hiện dưới dạng là tổng số hoặc hiệu số (mối quan hệ lỏng lẻo). Trong mối quan hệ cân đối này, các nhân tố đứng độc lập tách biệt với nhau và cùng tác động đồng thời đến sự biến động của chỉ tiêu phản ánh đối tượng nghiên cứu. Mỗi một sự biến đổi của từng nhân tố độc lập giữa kỳ phân tích so với kỳ gốc sẽ làm cho chỉ tiêu phản ánh đối tượng nghiên cứu thay đổi một lượng tương ứng và không cần phải đặt nguyên tố đó trong các điều kiện giả định. Có thể khái quát mô hình chung của phương pháp này như sau: Với những giả sử như trên, có đối tượng phân tích (đối tượng nghiên cứu) là Q và Q chịu ảnh hưởng của các nhân tố a,
Tài liệu liên quan