Đề tài Khoá luận tốt nghiệp: Tình hình thực hiện bảo hiểm Hull và P&I tại Vinaship

Bảo hiểm có nguồn gốc từ rất xa xưa trong lịch sử văn minh nhân loại, thậm chí cho đến hiện giờ người ta vẫn chưa xác định được bảo hiểm xuất hiện từ khi nào. Dù vậy, trong bất kỳ phương thức sản xuất nào, dù lực lượng sản xuất có tiên tiến đến mấy thì con người với tư cách là chủ tư liệu sản xuất vẫn phải tuân theo quy luật khách quan của Thế giới vật chất, chịu những rủi ro trong quản lý sản xuất. Nhất là trong quản lý xã hội thường xuyên phải đối đầu với các tổn thất sản xuất, tinh thần do các nguyên nhân khách quan bên ngoài mà chúng ta chưa thể lường trước gây ra, khiến cho bản thân chủ thể không thể tự quản lý được. Ngay từ xa xưa, để hạn chế tổn thất và khắc phục hậu quả do những rủi ro gây ra, con người đã tự mình dành ra những khoản dự trữ nhất định. Tuy nhiên, biện pháp này tỏ ra kém hiệu quả và không kinh tế. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là khoa học quản lý kinh tế, con người hình thành các tổ chức chuyên nghiệp làm nhiệm vụ bảo hiểm. Lúc này hình thành hai đối tác là Người bảo hiểm và Người được bảo hiểm. Các tổ chức này đóng vai trò chuyển giao những rủi ro, bù đắp những tổn thất, thực hiện các chức năng phân phối lại, bảo toàn vốn, nhanh chóng khắc phục hậu quả, phục hồi sản xuất cho Người được bảo hiểm. Đặc biệt khi nền kinh tế đất nước đang phát triển nhanh, quá trình lưu thông, buôn bán hàng hóa giữa các nước gia tăng thì nhu cầu bảo hiểm cũng đòi hỏi phải phát triển tương ứng. Bảo hiểm lúc này đã trở thành bạn đường theo các nhà quản lý kinh tế, các chủ sản xuất kinh doanh. Với vai trò ngày càng quan trọng trong đời sống sản xuất kinh doanh của con người, nên lĩnh vực bảo hiểm được quan tâm và phát triển, thu hút các nhà đầu tư bỏ vốn kinh doanh. Các tổ chức bảo hiểm lớn mạnh không ngừng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Kinh doanh bảo hiểm đã thực sự phát triển không những về mặt quy mô tổ chức mà cả về loại hình bảo hiểm. Từ lý luận và thực tiễn cho thấy, bảo hiểm tồn tại một cách khách quan và ở mọi chế độ xã hội. Bảo hiểm giúp đỡ bù đắp những thiệt hại, mất mát về người và tài sản của nhà nước, của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, xã hội và của các cá nhân do các rủi ro gây nên nhằm khắc phục những hậu quả của các rủi ro, góp phần ổn định đời sống và sản xuất kinh doanh. Bảo hiểm đã tạo ra nguồn vốn lớn bằng phí bảo hiểm, tăng thu, giảm chi cho cán cân thanh toán Quốc tế, tạo ra tâm lý an toàn trong hoạt động kinh tế và đời sống xã hội. Bảo hiểm là một biện pháp kinh tế nhằm đảm bảo bù đắp những tổn thất về tài sản của mỗi đơn vị kinh tế riêng biệt do những rủi ro, biến cố gây ra bằng cách phân tán rủi ro này cho nhiều đơn vị kinh tế bị chính rủi ro này đe dọa. Bảo hiểm Hàng hải là một loại bảo hiểm bao gồm tất cả các giá trị bảo hiểm liên quan đến vận tải đường biển. Bảo hiểm Hàng hải là một ngành hoạt động nhằm bảo vệ Người được bảo hiểm. Người được bảo hiểm là các chủ tàu, các chủ hàng có hàng hóa chuyên chở bằng đường biển. Bằng hình thức bảo hiểm, chúng ta đã phân tán các hậu quả tài chính của một số biến cố Hàng hải hay sự cố chuyên chở cho nhiều người để mỗi người không bị ảnh hưởng trầm trọng. Trên thực tế có nhiều loại hình bảo hiểm tàu biển mà chủ tàu có thể tự lựa chọn cho mình một loại hình thích hợp: Bảo hiểm mọi rủi ro, Bảo hiểm tổn thất toàn bộ, Bảo hiểm tổn thất riêng, Bảo hiểm một phần giá trị, Bảo hiểm chuyến, Bảo hiểm định kỳ .v.v. Tóm lại, việc mua bảo hiểm tổn thất và bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu cho đội tàu là một việc làm cần thiết, có tính bắt buộc. Đồng thời việc mua bảo hiểm đem lại những lợi ích nhất định cho chủ tàu như đã nói ở trên. Đề tài của khoá luận tốt nghiệp này là: “Đánh giá tình hình thực hiện bảo hiểm P&I và Hull của Công ty Vận tải biển III trong hai năm 2001 - 2002" Để làm sáng tỏ vấn đề nêu trên, chúng ta cần nghiên cứu những nội dung sau: - Hiểu rõ được các điều kiện của bảo hiểm P&I-Protection&Indemnity, tình hình thực hiện công tác bảo hiểm P&I của Công ty Vận tải biển III trong hai năm 2001-2002. - Hiểu rõ được các điều khoản của bảo hiểm thân tàu- Hull, tình hình thực hiện bảo hiểm thân tàu của Công ty Vận tải biển III trong hai năm 2001-2002 - Thông qua các số liệu về công tác bảo hiểm P&I và Hull, đánh giá công tác bảo hiểm P&I và Hull của Công ty Vận tải biển III trong hai năm 2001-2002. - Từ đó tìm ra các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác bảo hiểm của Công ty trong năm tới. Thiết kế tốt nghiệp này hoàn thành được ngoài sự nỗ lực phấn đấu của bản thân em còn được sự chỉ đạo tận tình của thày giáo hướng dẫn Vũ Sỹ Tuấn – Trưởng khoa kinh tế ngoại thương, cũng như sự giúp đỡ nhiệt tình của các đồng nghiệp của em tại Công ty Vận tải biển III, Công ty bảo hiểm Hải Phòng, Chi nhánh bảo hiểm Thành phố Hồ Chí Minh tại Hải Phòng. Nhân dịp này, em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới thày giáo Vũ Sỹ Tuấn, các thầy cô giáo khác trong Khoa kinh tế ngoại thương và các đồng nghiệp ở Công ty Vận tải biển III, Công ty bảo hiểm Hải Phòng, Chi nhánh bảo hiểm Thành phố Hồ Chí Minh tại Hải Phòng, ban biên tập tạp chí Visaba Times, Hiệp hội VIFAS đã giúp em hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này.Vì thời gian có hạn và trình độ còn hạn chế, khoá luận tốt nghiệp của em không tránh khỏi những khiếm khuyết. Em mong được các thầy cô giáo chỉ bảo và châm chước. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô.

doc97 trang | Chia sẻ: ngatran | Lượt xem: 1444 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khoá luận tốt nghiệp: Tình hình thực hiện bảo hiểm Hull và P&I tại Vinaship, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Bảo hiểm có nguồn gốc từ rất xa xưa trong lịch sử văn minh nhân loại, thậm chí cho đến hiện giờ người ta vẫn chưa xác định được bảo hiểm xuất hiện từ khi nào. Dù vậy, trong bất kỳ phương thức sản xuất nào, dù lực lượng sản xuất có tiên tiến đến mấy thì con người với tư cách là chủ tư liệu sản xuất vẫn phải tuân theo quy luật khách quan của Thế giới vật chất, chịu những rủi ro trong quản lý sản xuất. Nhất là trong quản lý xã hội thường xuyên phải đối đầu với các tổn thất sản xuất, tinh thần do các nguyên nhân khách quan bên ngoài mà chúng ta chưa thể lường trước gây ra, khiến cho bản thân chủ thể không thể tự quản lý được. Ngay từ xa xưa, để hạn chế tổn thất và khắc phục hậu quả do những rủi ro gây ra, con người đã tự mình dành ra những khoản dự trữ nhất định. Tuy nhiên, biện pháp này tỏ ra kém hiệu quả và không kinh tế. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là khoa học quản lý kinh tế, con người hình thành các tổ chức chuyên nghiệp làm nhiệm vụ bảo hiểm. Lúc này hình thành hai đối tác là Người bảo hiểm và Người được bảo hiểm. Các tổ chức này đóng vai trò chuyển giao những rủi ro, bù đắp những tổn thất, thực hiện các chức năng phân phối lại, bảo toàn vốn, nhanh chóng khắc phục hậu quả, phục hồi sản xuất cho Người được bảo hiểm. Đặc biệt khi nền kinh tế đất nước đang phát triển nhanh, quá trình lưu thông, buôn bán hàng hóa giữa các nước gia tăng thì nhu cầu bảo hiểm cũng đòi hỏi phải phát triển tương ứng. Bảo hiểm lúc này đã trở thành bạn đường theo các nhà quản lý kinh tế, các chủ sản xuất kinh doanh. Với vai trò ngày càng quan trọng trong đời sống sản xuất kinh doanh của con người, nên lĩnh vực bảo hiểm được quan tâm và phát triển, thu hút các nhà đầu tư bỏ vốn kinh doanh. Các tổ chức bảo hiểm lớn mạnh không ngừng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Kinh doanh bảo hiểm đã thực sự phát triển không những về mặt quy mô tổ chức mà cả về loại hình bảo hiểm. Từ lý luận và thực tiễn cho thấy, bảo hiểm tồn tại một cách khách quan và ở mọi chế độ xã hội. Bảo hiểm giúp đỡ bù đắp những thiệt hại, mất mát về người và tài sản của nhà nước, của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, xã hội và của các cá nhân do các rủi ro gây nên nhằm khắc phục những hậu quả của các rủi ro, góp phần ổn định đời sống và sản xuất kinh doanh. Bảo hiểm đã tạo ra nguồn vốn lớn bằng phí bảo hiểm, tăng thu, giảm chi cho cán cân thanh toán Quốc tế, tạo ra tâm lý an toàn trong hoạt động kinh tế và đời sống xã hội. Bảo hiểm là một biện pháp kinh tế nhằm đảm bảo bù đắp những tổn thất về tài sản của mỗi đơn vị kinh tế riêng biệt do những rủi ro, biến cố gây ra bằng cách phân tán rủi ro này cho nhiều đơn vị kinh tế bị chính rủi ro này đe dọa. Bảo hiểm Hàng hải là một loại bảo hiểm bao gồm tất cả các giá trị bảo hiểm liên quan đến vận tải đường biển. Bảo hiểm Hàng hải là một ngành hoạt động nhằm bảo vệ Người được bảo hiểm. Người được bảo hiểm là các chủ tàu, các chủ hàng có hàng hóa chuyên chở bằng đường biển. Bằng hình thức bảo hiểm, chúng ta đã phân tán các hậu quả tài chính của một số biến cố Hàng hải hay sự cố chuyên chở cho nhiều người để mỗi người không bị ảnh hưởng trầm trọng. Trên thực tế có nhiều loại hình bảo hiểm tàu biển mà chủ tàu có thể tự lựa chọn cho mình một loại hình thích hợp: Bảo hiểm mọi rủi ro, Bảo hiểm tổn thất toàn bộ, Bảo hiểm tổn thất riêng, Bảo hiểm một phần giá trị, Bảo hiểm chuyến, Bảo hiểm định kỳ .v.v.. Tóm lại, việc mua bảo hiểm tổn thất và bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu cho đội tàu là một việc làm cần thiết, có tính bắt buộc. Đồng thời việc mua bảo hiểm đem lại những lợi ích nhất định cho chủ tàu như đã nói ở trên. Đề tài của khoá luận tốt nghiệp này là: “Đánh giá tình hình thực hiện bảo hiểm P&I và Hull của Công ty Vận tải biển III trong hai năm 2001 - 2002" Để làm sáng tỏ vấn đề nêu trên, chúng ta cần nghiên cứu những nội dung sau: - Hiểu rõ được các điều kiện của bảo hiểm P&I-Protection&Indemnity, tình hình thực hiện công tác bảo hiểm P&I của Công ty Vận tải biển III trong hai năm 2001-2002. - Hiểu rõ được các điều khoản của bảo hiểm thân tàu- Hull, tình hình thực hiện bảo hiểm thân tàu của Công ty Vận tải biển III trong hai năm 2001-2002 - Thông qua các số liệu về công tác bảo hiểm P&I và Hull, đánh giá công tác bảo hiểm P&I và Hull của Công ty Vận tải biển III trong hai năm 2001-2002. - Từ đó tìm ra các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác bảo hiểm của Công ty trong năm tới. Thiết kế tốt nghiệp này hoàn thành được ngoài sự nỗ lực phấn đấu của bản thân em còn được sự chỉ đạo tận tình của thày giáo hướng dẫn Vũ Sỹ Tuấn – Trưởng khoa kinh tế ngoại thương, cũng như sự giúp đỡ nhiệt tình của các đồng nghiệp của em tại Công ty Vận tải biển III, Công ty bảo hiểm Hải Phòng, Chi nhánh bảo hiểm Thành phố Hồ Chí Minh tại Hải Phòng. Nhân dịp này, em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới thày giáo Vũ Sỹ Tuấn, các thầy cô giáo khác trong Khoa kinh tế ngoại thương và các đồng nghiệp ở Công ty Vận tải biển III, Công ty bảo hiểm Hải Phòng, Chi nhánh bảo hiểm Thành phố Hồ Chí Minh tại Hải Phòng, ban biên tập tạp chí Visaba Times, Hiệp hội VIFAS đã giúp em hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này.Vì thời gian có hạn và trình độ còn hạn chế, khoá luận tốt nghiệp của em không tránh khỏi những khiếm khuyết. Em mong được các thầy cô giáo chỉ bảo và châm chước. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô. CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU VỀ CÔNG TY VẬN TẢI BIỂN III 1 . Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của Công ty vận tải biển III ********************************** Giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của quân và dân ta đang bước vào giai đoạn quyết liệt. Đế quốc Mỹ điên cuồng đánh phá miền Bắc, ném bom vào các căn cứ quân sự, cơ sở kinh tế, văn hóa của nước ta một cách khốc liệt. Xuất phát từ yêu cầu thống nhất quản lý của các lực lượng vận tải biển để chủ động tập trung mở các chiến dịch vận tải lớn, phục vụ chiến trường miền Nam và các tỉnh khu bốn cũ. Đồng thời từng bước xây dựng nền nếp quản lý kinh doanh và đào tạo đội ngũ sĩ quan, thuyền viên cho sự nghiệp phát triển của ngành vận tải biển sau khi chiến tranh kết thúc. Ngày 01-10-1970, Bộ giao thông vận tải quyết định thành lập “Công ty vận tải ven biển Việt Nam” trên cơ sở hợp nhất ba đội tàu “Giải Phóng-Tự Lực-Quyết Thắng” và một xưởng vật tư. Toàn bộ đội tàu của công ty khi mới thành lập có 217 chiếc tàu, hầu hết là tàu giải phóng, sà lan chở dầu đường sông, sà lan biển 800T, cùng với một số tàu ven biển như: Hòa Bình, Thống Nhất, Hữu Nghị, 20-7, Bến Thủy,.... Với tổng trọng tải là 24.000T. Trong 5 năm từ năm 1970 đến 1974 đội tàu của công ty đã vận chuyển gần 1,7 triệu tấn hàng hóa gồm: lương thực, thực phẩm, thuốc men, hàng quân sự, hậu cần cho chiến đấu và 1,4 triệu tấn xăng dầu, đáp ứng đầy đủ nhu cầu của chiến trường nhất là các chiến dịch lớn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Đảng và nhà nước giao phó. Ngay từ những ngày đầu mới thành lập, công ty trong hoàn cảnh có những khó khăn về nhiều mặt, Đảng ủy và giám đốc cùng với các cán bộ công nhân viên đã chủ trương vừa xây dựng củng cố tổ chức, vừa đảm bảo sản xuất. Phát động mạnh mẽ phong trào tự quản, bảo dưỡng thiết bị phương tiện kết hợp với việc tăng cường các điều kiện và khả năng của các xưởng và trạm sửa chữa tại Hải Phòng và khu bốn cũ đảm bảo nhiệm vụ trùng tu các phương tiện đồng thời tổ chức việc cung ứng sinh hoạt cho các tàu đủ điều kiện sản xuất đạt năng suất cao. Trên cơ sở thực hiện đồng bộ các chủ trương đã đề ra, trong thời kỳ mới thành lập công ty vận tải biển vẫn luôn đảm bảo thực hiện nhiệm vụ cấp trên đã giao cho. Tuyến vận tải trong nước từ Hải Phòng vào khu IV cũ được xác định là nhiệm vụ trọng tâm của Công ty, kết hợp vận tải hai chiều là hàng vào đồng thời lấy hàng ra chủ yếu là gỗ. Với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Trải qua những năm tháng ác liệt gian khổ 160 cán bộ, chiến sĩ, sĩ quan, thuyền viên của công ty đã hy sinh trên khắp các tuyến đường biển, các cảng cùng với tổn thất của tài sản: 48 phương tiện, trên 3.000T tàu bị máy bay Mỹ bắn phá, bị thủy lôi phá hủy. Đảng và nhà nước đánh giá cao sự đóng góp, hy sinh của tập thể cán bộ, sĩ quan, thuyền viên của công ty vào sự nghiệp chống Mỹ cứu nước đã dành cho công ty nhiều phần thưởng cao quý. Hai tập thể được tặng danh hiệu anh hùng TL 06 Và TK 154 cùng nhiều huân chương các loại cho tập thể, cá nhân trong giai đoạn này. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, thực hiện khẩu hiệu “Giải phóng đến đâu đường biển sâu đến đó ”, tất cả các tàu của công ty đã theo sát tình hình chiến sự. Chỉ sau vài ngày giải phóng Sài Gòn, các tàu Hoà Bình, Sông Đà đã có mặt nối liền Bắc - Nam sau hơn hai mươi năm chia cách. Cũng trong thời gian này cùng với việc tập trung thực hiện nhiệm vụ chính trị hàng đầu là vận tải trong nước, công ty đã giành một số tàu thích hợp để vận chuyển hàng xuất nhập khẩu trên tuyến Việt Nam - Hồng Kông. Ngày 9-11-1973 tàu Hoà Bình mở tuyến Việt Nam - Nhật Bản thắng lợi. Đây là một tiền đề, một cái mốc quan trọng đánh dấu bước phát triển mới của ngành hàng hải Việt Nam. Từ đó công ty đã đưa tàu hoạt động thường xuyên trên tuyến Việt Nam - Hồng Kông Và tuyến Việt Nam - Nhật Bản hình thành hai lực lượng vận tải với hai nhiệm vụ khác nhau: - Đội tàu nhỏ làm nhiệm vụ vận chuyển ở các tuyến trong nước. - Đội tàu lớn làm nhiệm vụ kinh doanh trên các tuyến nước ngoài phục vụ xuất nhập khẩu thu về ngoại tệ cho nhà nước. Từ sự hình thành trên, để từng bước chuyên môn hóa và nâng cao hiệu quả kinh doanh tạo tiền đề cho xây dựng và phát triển ngành, tháng 3 - 1975 bộ giao thông vận tải quyết định tách một bộ phận lớn phương tiện vận tải và lao động của công ty để thành lập : “Công ty vận tải biển III ” với nhiệm vụ chủ yếu là tổ chức vận tải trong nước. Từ đó công ty còn có 8 tàu với tổng trọng tải là 36.000DWT làm nhiệm vụ tổ chức kinh doanh vận tải nước ngoài phục vụ xuất nhập khẩu và nhanh chóng xây dựng đội tàu vận tải biển. Từ số phương tiện nhỏ ban đầu có hai tuyến vận tải Hồng Kông và Nhật Bản công ty đã tổ chức mở thêm các tuyến mới đi các nước Đông Nam á, đưa tàu hoạt động thường xuyên trên các tuyến này, tranh thủ chở thuê tăng thu ngoại tệ. Năm 1980 công ty vận tải biển III ( Vinaship ) mở luồng hàng đi các cảng Bắc Nhật Bản và Hàn Quốc vv đem lại một thành công mới cho ngành vận tải biển Việt Nam trong công cuộc mở rộng thị phần vận tải quốc tế. Đến năm 1987 đã trả nợ xong, năng lực vận tải tăng gấp 6 lần ban đầu. Bằng con đường tự lực cánh sinh, mạnh dạn, sáng tạo công ty vận tải biển III đã xây dựng được một đội tàu biển xa tương đối lớn trong khu vực. Đồng thời tự đào tạo đội ngũ sĩ quan, thuyền viên và cán bộ quản lý có trình độ chuyên môn vững vàng đáp ứng yêu cầu phát triển khai thác kinh doanh trong lĩnh vực vận tải biển của công ty cũng như giúp đỡ cho việc phát triển lực lượng vận tải biển sau này. Với chiều dài 30 năm qua, hoạt động kinh doanh khai thác vận tải biển của công ty trải qua nhiều biến đổi do tác động khách quan của nền kinh tế đất nước và biến đổi kinh tế chính trị trên thế giới, song công ty vận tải biển III đã khẳng định vị trí của mình trong ngành vận tải biển. Công ty đang dần ổn định để chuẩn bị cho những bước đi mới trong tương lai, tiếp kịp với sự chuyển biến chung của nền kinh tế đất nước. Công ty vận tải biển III hiện có : Trụ sở chính: Số 01 hoàng Văn Thụ, Hải Phòng. Các đại diện ở các tỉnh, thành phố: - Đại diện tại thành phố Hà Nội. - Đại diện tại tỉnh Quảng Ninh. - Đại diện tại thành phố Hồ Chí Minh. - Đại diện tại thành phố Đà Nẵng. Các dịch vụ, đại lý: - Đại lý tàu - Ban khai thác kinh doanh cầu cảng và kho bãi Container. - Đại lý xuất khẩu thuyền viên (CREWING CENTER). - Đại lý dầu nhớt Cantex (Cantex LUBRICATION AGENCY) Công ty liên doanh vận tải hàng công nghệ cao ( TRANSVINA ). Xí nghiệp dịch vụ vận tải( TRANSE ) Đội tàu của công ty tính đến tháng 02 năm 2003: - Số tàu 12 chiếc . - Tổng trọng tải: 98.638,5 DWT 2. Cơ cấu tổ chức và quản lý của Công ty ****************************** 2.1. Sơ đồ tổ chức. CÁC KHỐI PHÒNG BAN CỦA CÔNG TY   Khối quản lý  Khối kinh doanh khai thác đội tàu  Khối phòng ban hành chính  Khối kinh doanh dịch vụ khác   Phòng tài chính kế toán  Phòng khai thác thương vụ  Phòng hành chính  Địa lý tàu biển   Phòng kỹ thuật  Xí nghiệp dịch vụ vận tải  Phòng bảo vệ quân sự  Trung tâm thuyền viên   Phòng pháp chế hàng hải   Trung tâm thông tin & vi tính  Ban khai thác cầu cảng và kho bãi Container   Phòng tổ chức cán bộ-lao động tiền lương   Ban thanh tra  Đại lý dầu nhờn Cantex   Phòng vật tư   Các chi nhánh của công ty    Phòng kinh tế đối ngoại      Ban quản lý an toàn ( ISM CODE )           Bảng 1: Sơ đồ phòng ban của công ty 2.2. Bộ máy tổ chức. a. Ban giám đốc. 1. Tổng giám đốc: - Đồng chí : Đoàn Bá Thước - Chức năng, nhiệm vụ : Là người đại diện pháp nhân cho mọi hoạt động của Công ty. 2.Phó tổng giám đốc phụ trách kỹ thuật. - Đồng chí Đỗ Văn Hội: Giúp Tổng giám đốc về vấn đề quản lý khoa học kỹ thuật đối với độ tàu. b. Các khối ban của công ty. 1. Khối quản lý 1.1- Phòng tài chính kế toán : Là một phòng nghiệp vụ tham mưu cho Tổng giám đốc về quản lý hoạt động tài chính, hạch toán kinh tế và hạch toán kế toán cho toàn công ty. Quản lý kiểm soát các thủ tục thanh toán, việc hạch toán, đề xuất các biện pháp giúp Công ty thực hiện các chỉ tiêu về tài chính 1.2 - Phòng kỹ thuật. Là phòng nghiệp vụ tham mưu giúp Tổng giám đốc về quản lý kỹ thuật,vật tư của đội tàu. Chịu sự chỉ đạo trực tiếp của phó Tổng giám đốc kỹ thuật, quản lý kiểm soát việc thực hiện các tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm về kỹ thuật, bảo quản bảo dưỡng, sửa chữa, tiêu hao vật tư, phụ tùng phục vụ cho khai thác kinh doanh vận tải hoạt động có hiệu quả 1.3 - Phòng pháp chế hàng hải: Là phòng nghiệp vụ tham mưu giúp giám đốc về công tác pháp chế, thanh tra, an toàn hàng hải nằm trong khối quản lý và kiểm soát. Có nhiệm vụ và quyền hạn chủ yếu sau: - Quản lý, hướng dẫn thực hiện công tác pháp chế hàng hải. Tổ chức thanh tra việc thực hiện các quy định của công ty, pháp luật quốc tế và Việt Nam trên các tàu. - Quản lý, hướng dẫn thực hiện về công tác an toàn hàng hải, an toàn lao động trong sản xuất và hoạt động khai thác vận tải trong toàn công ty. - Quản lý theo dõi, hướng dẫn thực hiện công tác bảo hiểm tàu, ôtô, tai nạn lao động trong toàn Công ty. - Nghiên cứu, tư vấn về luật pháp quốc tế và Việt nam có liên quan đến hoạt động kinh doanh của Công ty. - Đôn đốc, giám sát, kiểm tra việc thực hiện các yêu cầu an toàn Hàng hải theo luật Quốc tế và Việt nam, các quy định của đăng kiểm, theo dõi thời hạn của giấy tờ đã đăng ký, đăng kiểm có liên quan đến hoạt động khai thác kinh doanh tàu. -Tổ chức chỉ đạo hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra an toàn hàng hải, tổ chức kiểm tra định kỳ, đột xuất về an toàn lao động, phòng cháy nổ trong toàn Công ty. - Thực hiện về nghiệp vụ bảo hiểm trong toàn Công ty. - Yêu cầu các phòng, ban, tàu, các đơn vị trong công ty cung cấp số liệu chứng từ, hồ sơ liên quan đến hoạt động khai thác kinh doanh vận tải, khai thác kỹ thuật khi cần cho nghiệp vụ của phòng. - Kiểm tra sự việc, hồ sơ có liên quan đến các vụ việc gây ảnh hưởng đến sản xuất, tổn thất tài sản, phương tiện, thiết bị và con người để làm rõ nguyên nhân giúp cho việc xử lý rút kinh nghiệm. - Có quyền đề nghị khen thưởng và kỷ luật các cá nhân tập thể thực hiện an toàn Hàng hải, an toàn lao động, cũng như chấp hành các luật pháp Quốc tế, Việt nam và quy chế của Công ty. 1.4 - Phòng tổng hợp. - Chức năng, nhiệm vụ: + Phụ trách việc thực hiện kế hoạch sản xuất của các phòng ban, các tàu, các dịch vụ. + Kết hợp với Phòng tổ chức lao động tiền lương, Phòng kế toán tài vụ trong việc phân phối lương ở các phòng ban, các tàu. + Theo dõi tổng hợp kết quả sản xuất kinh doanh của toàn Công ty, phân tích , đánh giá từng quý, từng năm, tham mưu kịp thời cho lãnh đạo Công ty các biện pháp điều chỉnh cân đối để đảm bảo thực hiện kế hoạch đề ra. 1.5 - Phòng tổ chức cán bộ- lao động tiền lương. Là phòng nghiệp vụ tham mưu giúp tổng giám đốc về công tác tổ chức lao động tiền lương trong hoạt động khai thác kinh doanh như chức năng nhiệm vụ. Quản lý khai thác và sử dụng lực lượng lao động của Công ty theo luật pháp ( Bộ luật lao động và dân sự ) phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và đặc điểm của Công ty 1.6 - Ban quản lý an toàn quốc tế ( ISM – Code ): Chịu trách nhiệm về hệ thống quản lý an toàn của Công ty. Đảm bảo hoạt động an toàn của các tàu theo luật hàng hải Quốc tế (IMO). Đồng thời Ban cũng đang tiến hành xây dựng hệ thống quản lý chất lượng của công ty ( ISO 9001 ). 2. Khối kinh doanh khai thác đội tàu. 2.1 - Phòng khai thác thương vụ: Là phòng nghiệp vụ tham mưu giúp tổng giám đốc quản lý, khai thác đội tàu có hiệu quả nhất, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng giám đốc. 2.2 - Xí nghiệp dịch vu vận tải ( Transe ) Là đơn vị trực thuộc của Công ty, được Tổng Giám đốc giao cho thực hiện một số nhiệm vụ về cung cấp dịch vụ vận tải. Thực hiện sự chỉ đạo, điều hành về kinh doanh dịch vụ và quản lý tài chính, Tổ chức cán bộ lao động, thực hiện nhiệm vụ kế hoạch theo phân cấp của Công ty. Được Tổng giám đốc giao thực hiện một số nhiệm vụ về liên doanh trong lĩnh vực vận tải. 3. Khối phòng ban hành chính . 3.1 - Phòng hành chính: Là phòng nghiệp vụ giúp Tổng Giám đốc công ty về việc hành chính. 3.2 - Phòng kinh tế đối ngoại. Là phòng nghiệp vụ tham mưu giúp Tổng giám đốc về công tác đối ngoại, quan hệ kinh tế đối ngoại trong lĩnh liên quan đến hoạt động khai thác kinh doanh tàu biển theo chức năng, nhiệm vụ của Công ty. 3.3 - Phòng thanh tra - Bảo vệ - Quân sự. Là phòng nghiệp vụ tham mưu giúp Tổng giám đốc về công tác thanh tra, bảo vệ an toàn sản xuất, thực hiện công tác quân sự 3.4 - Trung tâm thông tin và vi tính. Là đơn vị giúp Tổng Giám đốc về xây dựng, khai thác, sử dụng hệ thống tin học của Công ty trong sự thống nhất toàn ngành trong điều kiện phát triển chung của toàn quốc và khu vực. 3.5 - Các chi nhánh của Công ty: Hiện nay Công ty có chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Hà Nội. Việc mở thêm chi nhánh khi xét thấy yêu cầu sản xuất, Tổng Giám đốc sẽ quyết định. Các chi nhánh là một đơn vị hành chính trong mô hình cơ cấu tổ chức hiện nay của Công ty, được quyết định thành lập theo yêu cầu quản lý điều hành phục vụ sản xuất tại những nơi đầu mối kinh tế ở xa trụ sở chính. Nhiệm vụ chung của các chi nhánh công ty ở các tỉnh, thành phố: - Giải quyết, phục vụ mọi yêu cầu trong quản lý, khai thác kinh doanh của Công ty cho các tàu về khu vực xếp dỡ hàng hóa theo hợp đồng vận tải, nhận vật tư, nhiên liệu thay thế thuyền viên và những yêu cầu đột xuất khác theo sự chỉ đạo chung của Công ty . - Tham mưu giúp Tổng giám đốc trong việc xây dựng mối quan hệ giữa công ty với địa phương nơi có chi nhánh, phục vụ cho hoạt động khai thác kinh doanh vận tải dịch vụ sản xuất, cũng như thực hiện chấp hành những quy định của địa phương theo luật hiện hành. - Thu xếp cho các hoạt động, giao tiếp, tiếp xúc khách hàng, hội nghị, hội thảo lãnh đạo và cán bộ Công ty đến công tác tại địa phương. Quản lý, khai thác, sử dụng có hiệu quả các tài sản, trang bị cho hoạt động của chi nhánh 4. Khối kinh doanh, dịch vụ khác: 4.1 - Đại lý tàu biển ( SHIPPING AGENCY ) - Chức năng, nhiệm vụ : Làm công tác đại lý cho các tàu trong nước và nước ngoài đến cảng Việt nam. 4.2 - Đại lý dầu nhờn Cantex: - Chức năng, nhiệm vụ: Làm kho hàng, bán các sản phẩm dầu nhớt cho hãng Cantex - Hoa kỳ. 4.3 - Trung tâm thuyền viên (VINASHIP CREWING CENTER): - Đào tạo thuyền viên và cung cấp thuyền viên đi làm thuê cho các tàu nước ngoài. Hoạt động kinh doanh dịch vụ, sản xuất khác theo yêu cầu của Công ty đảm bảo chất lượng, đạt hiệu quả kinh tế cao. - Chức năng, nhiệm vụ: Tham mưu giúp Tổng giám đốc đồng thời với việc cung ứng cho hoạ
Tài liệu liên quan