Đề tài Liệu pháp hành vi và ứng dụng trong trị liệu tâm lý

Tâm lý học Lâm Sàng được biết đến từ thế kỷ XIX thông qua các Nhà Tâm lý học nổi tiếng như Lighner Witner (người Mỹ, 1867 – 1956 ), Pierre Janet ( người Pháp, 1851- 1947 ), Singmund Freud (người áo, 1856-1939 ). Mỗi tác giả lại đều có một hướng tiếp cận lâm sàng khác nhau về con người. Tuy vậy, điểm chung của họ là xem xét ứng xử con người trong bối cảnh riêng của người đó, làm nổi bật một cách trung thực nhất có thể các cách thức tồn tại và hoạt động của con người với tư cách là một cá nhân cụ thể, phát hiện các cách ứng xử bình thường hay bệnh lý, tìm ra các phương pháp trị liệu. Trong tiếng Pháp từ “Psychothérapie”, hay “psychotherapy” (tiếng Anh), theo tiếng Việt đó là Tâm pháp, tâm lý liệu pháp, liệu pháp tâm lý. Tuy xuất hiện dưới nhiều tên gọi như vậy thực chất cùng một nghĩa chung là các phương pháp tâm lý được sử dụng nhằm biến đổi hành vi kém thích nghi (C.Rogers,1949 ), nhằm biến đổi những vấn đề trong cuộc sống (A.Maslow,1959) hay nhằm điều trị những rối loạn tâm lý. Núi cỏch khỏc, tất cả cỏc kĩ thuật trị liệu tõm lý là nhằm mục đích giảm bớt những nỗi đau khổ hay trở ngại tâm lý gây nhiều khó khăn, cảm giác khó chịu, bất ổn của con người trong cuộc sống đời thường, nghề nghiệp, trong quan hệ gia đình, bè bạn, quan hệ xã hội. Trên thế giới hiện nay đang tồn tại 4 trường phái trị liệu tâm lý cơ bản: Phân tâm học, Trường phái hành vi, trường phái nhận thức hay hành vi nhận thức, Tâm lý học nhân văn. Mỗi trường phái do có cách tiếp cận khác nhau nên cũng có những liệu pháp khác nhau trong việc trợ giúp những người gặp khó khăn tâm lý.Trong các trường phái trên thì Tâm lý học hành vi kể từ khi ra đời vào những năm 20 của thế kỷ XX đã được áp dạng rộng rãi trên toàn thế giới và được tiếp nhận như một phương pháp đầy triển vọng trong việc điều trị những rối loạn tâm thần nói chung đặc biệt là rối lạn ám ảnh và sợ hãi.

doc30 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 4099 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Liệu pháp hành vi và ứng dụng trong trị liệu tâm lý, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phần một Mở Đầu Tâm lý học Lâm Sàng được biết đến từ thế kỷ XIX thông qua các Nhà Tâm lý học nổi tiếng như Lighner Witner (người Mỹ, 1867 – 1956 ), Pierre Janet ( người Pháp, 1851- 1947 ), Singmund Freud (người áo, 1856-1939 ). Mỗi tác giả lại đều có một hướng tiếp cận lâm sàng khác nhau về con người. Tuy vậy, điểm chung của họ là xem xét ứng xử con người trong bối cảnh riêng của người đó, làm nổi bật một cách trung thực nhất có thể các cách thức tồn tại và hoạt động của con người với tư cách là một cá nhân cụ thể, phát hiện các cách ứng xử bình thường hay bệnh lý, tìm ra các phương pháp trị liệu. Trong tiếng Pháp từ “Psychothérapie”, hay “psychotherapy” (tiếng Anh), theo tiếng Việt đó là Tâm pháp, tâm lý liệu pháp, liệu pháp tâm lý. Tuy xuất hiện dưới nhiều tên gọi như vậy thực chất cùng một nghĩa chung là các phương pháp tâm lý được sử dụng nhằm biến đổi hành vi kém thích nghi (C.Rogers,1949 ), nhằm biến đổi những vấn đề trong cuộc sống (A.Maslow,1959) hay nhằm điều trị những rối loạn tâm lý. Núi cỏch khỏc, tất cả cỏc kĩ thuật trị liệu tõm lý là nhằm mục đích giảm bớt những nỗi đau khổ hay trở ngại tâm lý gây nhiều khó khăn, cảm giác khó chịu, bất ổn của con người trong cuộc sống đời thường, nghề nghiệp, trong quan hệ gia đình, bè bạn, quan hệ xã hội. Trên thế giới hiện nay đang tồn tại 4 trường phái trị liệu tâm lý cơ bản: Phân tâm học, Trường phái hành vi, trường phái nhận thức hay hành vi nhận thức, Tâm lý học nhân văn. Mỗi trường phái do có cách tiếp cận khác nhau nên cũng có những liệu pháp khác nhau trong việc trợ giúp những người gặp khó khăn tâm lý.Trong các trường phái trên thì Tâm lý học hành vi kể từ khi ra đời vào những năm 20 của thế kỷ XX đã được áp dạng rộng rãi trên toàn thế giới và được tiếp nhận như một phương pháp đầy triển vọng trong việc điều trị những rối loạn tâm thần nói chung đặc biệt là rối lạn ám ảnh và sợ hãi. 1.Lý do lựa chọn đề tài Là một cộng tác viên của Trung tâm Tư vấn và hỗ trợ tâm lý – Khoa Tâm lý học trực thuộc Trường khoa học xã hội và nhân văn, trên thực tế đi trị liệu tâm lý cho trẻ tăng động giảm chú ý, trẻ chậm phát triển trí tuệ cho thấy áp dụng trị liệu hành vi vào việc tác động giảm những hành vi lệch chuẩn, tăng động cũng có những chuyển biến nhất định.Từ thực tế như vậy, Tôi quyết định nghiên cứu đề tài này nhưng mới chỉ dừng lại ở nghiên cứu lý thuyết. Đây là tiền đề để sau này tôi có thể triển khai nghiên cứu sâu hơn về liệu pháp hành vi và ứng dụng của liệu pháp này trong việc trợ giúp những người có khó khăn tâm lý đặc biệt trong lĩnh vực tâm lý trẻ em. Lĩnh vực mà tôi mong muốn tìm hiểu và thực hành nhiều hơn. 2. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu về lý thuyết cũng như các kĩ thuật chủ yếu được sử dụng trong Liệu pháp hành vi. 3.Phương pháp nghiên cứu Do khuôn khổ của đề tài nên tôi chỉ dừng lại ở việc phân tích tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Nội Dung 1.LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA LIỆU PHÁP TÂM LÝ NÓI CHUNG VÀ LIỆU PHÁP HÀNH VI NÓI RIÊNG Liệu pháp tâm lý là một trong những liệu pháp cổ xưa nhất trong các liệu pháp trị liệu. Ngay từ thời xa xưa con người đã biết sử dụng tác động tâm lý trong việc chữa trị. Căn cứ vào nghiên cứu khảo cổ học (Ấn Độ, Ai Cập, Hy Lạp), thì từ thời xưa con người đã sử dụng tác động tâm lý từ những câu thần chú vào việc chữa bệnh. Vào thời kì Trung cổ, việc sử dụng tác động tâm lý vào việc chữa bệnh được giao phó cho các nhà phù thuỷ, vào thời đó người ta cho rằng bệnh tật là do “ ma quỷ” gây ra, vì vậy phải làm các phép để xua đuổi hoặc trừ “tà”cái được gọi là “ảo thuật huyền bí”. Ảnh hưởng của quan niệm này ngày nay vẫn còn gặp nhiều trong bộ tộc hoặc những vùng dân cư lạc hậu. Vào khoảng thế kỉ thứ XVI, do ảnh hưởng của sự phát triển của các ngành khoa học, đặc biệt là phát minh ra nam châm và xuất hiện khái niệm “ từ tính”. Khoảng cưối thế kỉ XVIII, Mesmer – nhà tâm thần học người Áo đã đưa ra luận thuyết “thể lỏng từ tính động vật ” và đã giải thích về cơ chế chữa bệnh của thôi miên, theo ông một vật thể lỏng từ tính vô hình ( không quan sát được) bao trùm cả vũ trụ tạo thành môi trường thể khác cũng như những người này với người khác và bệnh tật là do sự phân bố không đều của thể lỏng từ tính đó trong cơ thể con người, muốn bệnh khỏi cần phải lập lại sự thăng bằng đã bị biến loạn. Để lập lại sự thăng bằng này Mesmer đã sử dụng phương pháp thôi miên. Tuy cách giải thích của Mesmer đã bị hội đồng khoa học Hoàng gia ( Paris) bác bỏ vì không xác định được “hể lỏng từ tính động vật”, nhưng cách giải thích này đã được mở ra con đường mới cho các liệu pháp tâm lý khoa học ra đời. Thuật ngữ này được dịch từ Psychotherapy ( Psycho - Tâm lý; Therapy - Điều trị). Thuật ngữ này được xây dựng lần đầu tiên vào năm 1872 trong cuốn sách: “Ảnh hưởng của tâm lý lên cơ thể” của D. Tuke. Vào thế kỉ XIX là thời kì của nhiều trường phái và quan điểm về thôi miên. Năm 1843, Braid, phẫu thuật viên người Anh, người đầu tiên đưa ra thuật ngữ thôi miên “ hynotism” và đã cho xuất bản cuốn sách: “ Thần kinh học thôi miên”, theo Ông thôi miên là hậu quả của sự mệt mỏi của các giác quan cảm giác do quá trình tập trung chú ý ( nhìn vào ánh đèn). Tại Pháp xuất hiện hai trường phái thôi miên đối lập nhau, trường phái Paris đứng đầu là Charcot và trường phái Nancy mà đứng đầu là Bernhem. Trường phái Charcot được xem như là trở ngại cho sự phát triển của thôi miên, vì theo họ thôi miên như là biểu hiện của các rối loạn phân lý nhân tạo. ( Thuật ngữ cũ là Hysteria nhân tạo”. Bởi vì các tác giả này vừa dùng thôi miên để chữa bệnh đồng thời họ có thể tạo ra các rối loạn phân ly bằng thôi miên. Ngược lại, trường phái Nancy lại khẳng định thôi miên là giấc ngủ tạo ra bởi ám thị. Theo Bernhem không có thôi miên mà chỉ có ám thị, điều này về sau được nhiều tác giả đồng tình, bởi bản chất của thôi miên chỉ là ám thị trong trạng thái ý thức đặc thù - trạng thái thôi miên. Vào cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX đã có nhiều công trình nghiên cứu về thôi miên và đã áp dụng thành công thôi miên trong việc chữa bệnh. Trong số đó phải kể đến các công trình nghiên cứu của I.P.Paplov và các học trò của Ông. Theo Paplov, cơ chế của ám thị là do tác động tâm lý tạo ra một điểm hưng phấn trội trên vỏ não và xung quanh điểm trội đó hình thành một vùng ức chế nhằm lấn át các điểm hưng phấn bệnh lý khác. Còn thôi miên chỉ là hiện tượng ám thị trong trạng thái ý thức giai đoạn, trong trạng thái này tính chịu ám thị sẽ tăng cao. Năm 1930 P.Dubois, nhà tâm thần Thuỵ Sĩ đã đề ra liệu pháp giải thích hợp lý( hay liệu pháp thuyết phục), Theo Ông bệnh tâm căn là do tư duy lệch lạc về bệnh tật của người bệnh. Muốn chữa khỏi bệnh người thầy thuốc cần phải giải thích và dùng lời lẽ để thuyết phục người bệnh hiểu được những ý nghĩ sai lệch của họ. Nửa đầu thế kỉ XX, liệu pháp phân tâm( Psychoanalysis) ra đời và đã được phát triển ở nhiều nước châu Âu và Mỹ, người khởi xướng đọc ra học thuyết này là S. Freud. Đây là liệu pháp coi trọng tới bản năng tình dục, những xung đột trong thời kì thơ ấu và hiện tượng dồn ép bản năng tình dục trong vô thức. Mục đích của liệu pháp này là chuyển phức cảm tình dục bị dồn nén trong vô thức vào ý thức người bệnh. Về sau các học trò của Freud đã cải biến thành các liệu pháp hậu Freud về nguyên tắc vẫn giữ nguyên ý tưởng cơ bản của Freud, nhưng đã bổ xung thêm những quan điểm mới, đó là nhấn mạnh đến tầm quan trọng của môi trường hiện tại đối với từng cá thể, ảnh hưởng trực tiếp của những kinh nghiệm sống sau thời thơ ấu, vai trò của các quan hệ xã hội đối với từng cá nhân, ý nghĩa của những quan niệm có ý thức của cá thể. Trong những năm đầu thế kỉ XX, một khuynh hướng liệu pháp tâm lý mới đã xuất hiện, đó là các phương pháp rèn luyện tự sinh ( Autogentic Training), đó là các phương pháp điều khiển tích cực trương lực cơ của B.Stokvis, tự thôi miên của E.Kretsschmer, phương pháp giãn cơ tuần tiến của Jacobson, đặc biệt nổi bật là phương pháp thư giãn tập trung ( Concentrative Relaxation) của Schultz. Các phương pháp này ra đời nhằm khắc phục những nhược điểm của liệu pháp thôi miên, đó là tính bị động và lệ thuộc của người bệnh vào thầy thuốc. Tuy nhiên do hiệu quả điều trị chưa cao và đặc biệt là do sự phức tạp của các kĩ thuật, như liệu pháp thư giãn tập trung của Schultz quá dài mang tính trừu tượng nên một trong thời gian dài bị lãng quên. Tuy nhiên vào những năm của thập kỉ 60 trở lại đây, phương pháp này lại được áp dụng trở lại, nhưng có sự cải thiện để phù hợp với tâm sinh lý của từng dân tộc. Ngoài ra nó còn được xem như là một phần trong liệu pháp hành vi, cũng được phát triển vào những năm của thập kỉ 60 thể kỉ XX. Trên những thành tựu của tâm lý học hành vi( Behaviourism) đo J.Watson khởi xướng và những thành tựu của học thuyết phản xạ có điều kiện của Pavlov, vào những năm 50, 60 của thế kỉ XX đã hình thành liệu pháp hành vi. Người có công lớn trong việc hoàn thiện liệu pháp hành vi phải kể đến đó là J.Wolpe. Liệu pháp hành vi sau khi ra đời đã áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới và được tiếp nhận như là một phương pháp đầy triển vọng trong việc điều trị các rối loạn tâm thần nói chung, đặc biệt là rối loạn ám ảnh và sợ hãi. Về sau các tác giả của trường phái nhận thức bổ sung thêm liệu pháp nhận thức như Bandura. Nhiều tác giả đã gộp hai liệu pháp này thành liệu pháp hành vi - nhận thức (Cognitive – Behavior Therapy ). có thể nói là công thức của các nhà trị liệu hành vi là : S( kích thích ) ( R( phản xạ ) ( C( củng cố ). Muốn thay đổi S thì phải thay đổi R và C. Còn chủ nghĩa nhận thức bổ sung yếu tố nhận thức vào như sau : S( Nhận thức (R(phản xạ) ( C (củng cố ) – thay đổi R phải thay đổi cả S, nhận thức và C. Vào cùng thời kì này cũng phải kể đến liệu pháp tâm lý toạ đàm( Conversational Psychotherapy) của Carl Roger. Liệu pháp này dựa chủ yếu trên cơ sở tâm lý học nhân đạo. Tâm lý học nhân đạo tìm kiếm động lực hành vi của con người trong giá trị tinh thần và đạo đức. Cùng với sự ra đời của các liệu pháp tâm lý kể trên vào những năm giữa thế kỉ XX, là sự xuất hiện và phát triển mạnh mẽ của liệu pháp tâm lý nhóm ( Group Psychotherapy) và liệu pháp gia đình( Family Therapy). Tóm lại, vào những năm giữa đến cuối thế kỉ XX là thời kì xuất hiện, thịnh hành và hoàn thiện nhiều liệu pháp tâm lý hiện đại, những liệu pháp này đã đóng góp tích cực vào công tác chữa trị bệnh tâm thần và các rối loạn tâm lý ngày có xu hướng gia tăng trong thời đại kinh tế phát triển rầm rộ, công nghiệp hoá và đô thị hoá, con người phải đối diện với nhiều xung đột và stress tâm lý. 2. KHÁI NIỆM LIỆU PHÁP TÂM LÝ - liệu pháp tâm lý ra đời từ rất lâu, cùng với các trường phái tiếp cận khác nhau thì cũng có những định nghĩa khác nhau về liệu pháp. Ở đây xin chỉ ra một số định nghĩa tiêu biểu : - F.Van Elden đã xem liệu pháp tâm lý là mọi trị liệu có sử dụng các biện pháp tâm lý nhằm đấu tranh với bệnh tật. - Theo Miaxixev: Liệu pháp tâm lý là liệu pháp nhằm vào sự thay đổi mối quan hệ giữa các nhân cách. - Theo S.A.Rathus: Liệu pháp tâm lý được xem như là mối tương tác có hệ thống giữa nhà trị liệu với khách hàng, mà mối tương tác này mang những nguyên tắc tâm lý có ảnh hưởng tới những suy nghĩ, cảm giác hoặc hành vi của khách hàng nhằm giúp họ thay đổi những hành vi bất thường, nhằm điều chỉnh những vấn đề trong cuộc sống, hoặc nhằm phát triển một cá thể. - Theo Jeammet: Để liệu pháp tâm lý tồn tại nhà trị liệu cần phải nắm vững bản chất của các kĩ thuật tác động tâm lý đang vận dụng và để nhằm kiểm tra tiến triển cũng như hiệu lực của các tác động tâm lý đó. - Theo C. Roger ( 1949), xem liệu pháp tâm lý là kinh nghiệm nhằm biến đổi hành vi kém thích nghi hướng tới thích nghi hơn. - A.Maslow( 1959), xem liệu pháp tâm lý là phương pháp điều trị thông qua tác động lên cảm xúc, tự đánh giá và đánh giá của ngưòi khác thông qua phương thức điều chỉnh lại những vấn đề trong đời sống. ( Từ những định nghĩa trên, ta có thể gộp thành 4 nhóm định nghĩa sau: + Nhóm thiên về mô hình y học: xem liệu pháp tâm lý là phương pháp trị liệu sử dụng tác động tâm lý lên cả trạng thái lẫn lên hoạt động của cơ thể. + Nhóm thiên về tâm lý xem liệu pháp tâm lý là sự huy động tối ưu hoá quá trình rèn luyện và giáo dục hướng tới mẫu ứng xử hành vi thích nghi hơn. + Nhóm thiên về xã hội cho rằng liệu pháp tâm lý là liệu pháp sủ dụng tác động tâm lý vào mục đích kiểm tra đáp ứng xã hội. Như vậy, liêu pháp tâm lý là thuật ngữ có nghĩa chung dùng các phương pháp tâm lý nhằm biến đổi cảm xúc, cảm giác, nhận thức, hành vi…. Những yếu tố đang duy trì trạng thái tâm lý bất ổn của cá nhân, giúp cá nhân thích nghi tốt hơn với cuộc sống. 3. LÝ THUYẾT NỀN TẢNG CỦA LIỆU PHÁP HÀNH VI Tâm lý học hành vi ra đời vào năm 1913 ở Mỹ từ một bài báo có tính chất cương lĩnh với tiêu đề “ Tâm lý học dưới con mắt Nhà hành vi”. Từ khi ra đời cho đến nay, Trường phái tâm lý học hnh vi vói những lý luận của mình đã có những đóng góp to lớn trong công tác nghiên cứu cũng như giúp đỡ những người gặp khó khăn tâm lý. Những người có công đóng góp cho việc hình thành trị liệu hành vi là: Arnold Lazarus, Albert Bandura, Joseph Wolpe và Alan Kazdin. Khuynh hướng hành vi được phát triển trong những năm 50 và đầu những năm 60 như là sự cấp tiến thoát khỏi triển vọng của trị liệu phân tâm đang thịnh hành trước đó. Trị liệu hành vi có ba giai đoạn phát triển chính, đó là: 1) Giai đoạn khuynh hướng điều kiện hoá cổ điển; 2) Mô hình điều kiện hoá tạo tác; 3) Khuynh hướng nhận thức. Nguồn gốc của liệu pháp hành vi nằm trong Thuyết điều kiện hoá kinh điển và Thuyết điều kiện hoá thao tác được phát triển vào nửa đầu thế kỷ 20 bởi Pavlov ([1927] 1960) và Skinner (1953). 3.1/.Điều kiện hoá kinh điển Ban đầu, Pavlov đã phát hiện ra điều kiện hoá kinh điển dựa trên phản xạ tiết nước bọt của chó. Trong suốt thí nghiệm của mình, ông lưu ý rằng, đôi khi, con chó sẽ tiết nước bọt trước khi người ta đưa thức ăn cho nó, một phản xạ mà ông đặt tên là “sự tiết nước bọt tâm lý”. Qua tìm hiểu cơ chế của quá trình này, ông đã phát hiện ra cái mà ngày nay chúng ta gọi là Thuyết điều kiện hoá kinh điển. Pavlov cho rằng tiết nước bọt là một phản xạ bản năng đối với sự xuất hiện thức ăn, phản xạ này không cần học tập: phản xạ không điều kiện trước kích thích không điều kiện. Yếu tố mới lạ trong công việc của Pavlov là ông lưu ý rằng kích thích khác trội lên hiện diện vào lúc con vật có phản xạ không điều kiện, sau đó sẽ dẫn đến cùng một hành vi: kích thích trung gian ban đầu trở thành một kích thích có điều kiện và gây ra phản xạ có điều kiện, giống hệt phản xạ không điều kiện (Pha hưng phấn). Có thể phải cần đến một vài lần kết kết hợp thì sự liên kết giữa phản xạ trung gian và phản xạ không điều kiện mới hình thành. Việc của kích thích có điều kiện lặp lại khi kích thích không điều kiện vắng mặt sẽ làm giảm dần dần phản xạ không điều kiện, một quá trình mà người ta gọi là sự dập tắt. (Pha ức chế) Như muốn con chó không tiết nước dãi nữa khi nghe tiếng chuông hãy ngừng đưa thịt khi rung chuông, sau 1 vài lần, nó sẽ không tiết nước bọt nữa. Ứng dụng của kĩ thuật này vào trong việc điều trị những bệnh nhân bị chứng sợ hãi vô lý bằng một liệu pháp gọi là tiếp cận dần lo âu. (còn gọi là giải mẫn cảm). Chẳng hạn 1 nhà trị liệu sử dụng cách liên tục đặt đối tượng trước kích thích hay vật thể họ sợ hãi, bắt đầu bằng các sự kiện ít sợ nhất rồi chuyển sang những sự kiện hay những kích thích đáng sợ hơn. Để dần dần chủ thể tự nhận ra tình huống đó không có gì đáng sợ, lúc đó sự sợ hãi sẽ bị dập tắt. Điều kiện ảnh hưởng đến phản ứng cảm xúc cũng như hành vi, những quá trình nói trên với các rối loạn cảm xúc có một mối liên quan. Cách lý giải của trường phái Hành vi về hiện tượng ám ảnh sợ giả định rằng nó xuất phát từ một trải nghiệm được điều kiện hoá, trong đó cá nhân sợ hãi một cách không thích hợp một vật nào đó hoặc một tình huống nào đó, điều này có liên quan đến trải nghiệm sợ hãi hoặc lo lắng ở một thời điểm nào đó trong quá khứ. Tiếp theo, kích thích có điều kiện sẽ gây ra phản xạ sợ hãi có điều kiện. Nếu cá nhân trải qua nỗi sợ hãi sâu sắc, quá trình điều kiện hoá có thể mạnh mẽ đến mức chỉ cần một kinh nghiệm được điều kiện hoá cũng có thể dẫn đến nỗi sợ hãi lâu dài khó mà dập tắt được. Phản xạ này bao gồm 3 yếu tố: Lẩn tránh hoặc chạy trốn vật gây sợ hãi; Tình trạng khuấy động sinh lý cao độ rõ rệt với một loạt những triệu chứng khác nhau như căng thẳng về mặt thể chất, phản xạ giật mình tăng lên, rùng mình hay đổ mồ hôi; Cảm xúc lo lắng và sợ hãi. Sau một thời gian bị dập tắt, đáp ứng có điều kiện có thể tự nhiên hồi phục trở lại (pha hồi phục tự nhiên) nếu lại có kích thích có điều kiện thì đáp ứng cú điều kiện cú thể xuất hiện lại ớt nhiều. Pavlov đó khỏm phỏ ra sự thật này khi ụng nghiờn cứu lại ở con chú đó cú phản xạ cú điều kiện tiết nước bọt với tiếng chuụng trước đây nay đã bị dập tắt. Ông lại tiến hành gõ chuông và con chó lại tiết nước bọt trở lại. Chúng ta cũng thấy điều này tương tự trong khi quan sát những người nghiện ma túy đang cố gắng cắt cơn. Ngay cả khi họ đã được điều trị, nhưng nếu được tiếp xúc với những loại chất bột trắng hoặc những ống hút, ống tiêm (những cái có liên kết chặt chẽ với ma túy) thì đột nhiên họ bị thôi thúc phải dùng ma túy mặc dù đã cắt cơn được 1 thời gian dài. Điều này cũng thường xảy ra với những trường hợp bệnh nhân có những biểu hiện rối loạn lo âu, sau 1 thời gian triệu chứng giảm nhưng bệnh nhân dễ dàng xuất hiện những triệu chứng khác khi có những kích thích tương tự gần giống với lo âu. Chính điều này đã làm các bậc cha mẹ nhiều khi chán nản mà bỏ cuộc giữa chừng. 3.2.Điều kiện hoá thao tác Trái ngược với hành vi phản xạ liên quan đến điều kiện hoá kinh điển, điều kiện hoá thao tác đã đi đến chỗ giải thích rằng hành vi là chủ động và có mục đích. Theo tiền đề cơ bản của Skinner, hành vi nếu được củng cố sẽ tăng lên về tần suất hay được lặp đi lặp lại; còn nếu không được củng cố hay bị trừng phạt thì sẽ giảm tần suất hoặc không lặp lại nữa. Định nghĩa của ông về “cái củng cố” (reinforcer) cũng rất “hành vi”: đó là cái mà người ta quan sát thấy rằng nó làm tăng tần suất hay cường độ của một hành vi. Ông không đưa ra giả thuyết nào về các quá trình trung gian bên trong như sự yêu thích, sự thoả mãn hay hứng thú. Skinner phân biệt giữa 2 loại củng cố: củng cố bậc một (primary reinforcer), như thức ăn và nước, những nhu cầu bẩm sinh của con người, và củng cố bậc hai, những củng cố liên hệ với củng cố bậc một thông qua quá trình điều kiện hoá kinh điển phức tạp. Theo cách này, chính thuộc tính của những củng cố như chú ý và tương tác xã hội cũng được củng cố. (VD:được tiền, có thể mua đồ ăn) – tiền cỏch củng cố bậc hai. Quá trình thao tác hàm chứa sự phát triển của rất nhiều rối loạn tâm thần. Lewinsohn và cộng sự, vào năm 1979 cho rằng trầm cảm là hậu quả của việc một cá nhân bị tách ra khỏi hệ thống tán thưởng mà trước đó họ thuộc về. Ngược lại, Seligman (1975) cho rằng trầm cảm bắt nguồn từ thất bại trong việc trốn tránh kích thích tiêu cực của môi trường. Lý luận của ông xuất phát từ một serie những nghiên cứu mà trong đó người ta áp dụng sốc điện đối với động vật, chúng có thể tránh hoặc là không tránh những sốc điện này. Những con vật có thể tránh được sốc điện có vẻ không trải qua một tác dụng xấu nào. Còn những con không thể tránh sốc điện biểu hiện cái mà Seligman gọi là “sự tuyệt vọng được tập nhiễm”. Chúng trở nên thờ ơ và thậm chí khi được đưa vào những điều kiện có thể tránh được sốc điện, chúng cũng không có một cố gắng nào để tránh. Người ta xem điều này là tương tự với một số nguyên nhân gây trầm cảm. 3.3.Kết hợp điều kiện hoá kinh điển và điều kiện hoá thao tác Mô hình điều kiện hoá kinh điển về ám ảnh sợ được xem xét cho đến nay, đã mô tả đầy đủ quá trình tập nhiễm nỗi lo lắng và sợ hãi. Tuy nhiên, điều đó chưa đủ để giải thích tại sao chúng lại duy trì trong một thời gian dài, bởi vì biểu hiện lặp đi lặp lại đối với vật hoặc tình huống gây sợ hãi ngay cả khi không xuất hiện hậu quả xấu, lẽ ra đã có thể làm giảm sự lo hãi thông qua quá trình dập tắt. Lý thuyết hai yếu tố của Mowrer (1947) kết hợ