Đề tài Mô hình xác định các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất của ngành sản xuất giầy dép

Năm 2005 là năm cuối cùng ngành công nghiệp Việt Nam thực hiện lộ trình AFTA và tiến hành những bước đi quan trọng chuẩn bị gia nhập WTO. Sự tác động của tình hình kinh tế thế giới đối với nước ta ngày càng rõ nét và càng lớn do chính sách kinh tế mở và hội nhập quốc tế. Biến động tình hình kinh tế thế giới, khu vực sẽ ngày càng ảnh hưởng trực tiếp tới nền kinh tế Việt Nam.

doc65 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1520 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mô hình xác định các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất của ngành sản xuất giầy dép, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phần mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Năm 2005 là năm cuối cùng ngành công nghiệp Việt Nam thực hiện lộ trình AFTA và tiến hành những bước đi quan trọng chuẩn bị gia nhập WTO. Sự tác động của tình hình kinh tế thế giới đối với nước ta ngày càng rõ nét và càng lớn do chính sách kinh tế mở và hội nhập quốc tế. Biến động tình hình kinh tế thế giới, khu vực sẽ ngày càng ảnh hưởng trực tiếp tới nền kinh tế Việt Nam. Các ngành công nghiệp chế biến phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu sẽ gặp nhiều thách thức, khó khăn hơn do biến động giá. Tuy nhiên, cơ hội tham gia các thị trường xuất khẩu ngày càng mở rộng, đặc biệt là thị trường Mỹ. Thị trường trong nước Với trên 80 triệu dân và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế được duy trì ở mức cao như những năm vừa qua được coi là một thị trường đầy triển vọng về các sản phẩm công nghiệp và là một điều kiện tiền đề quan trọng cho sự phát triển của ngành công nghiệp trong nước. Hiện nay, nhiều sản phẩm công nghiệp chế biến như: thực phẩm chế biến, chế tạo cơ khí, điện, điện tử dân dụng, hàng dệt may, bia, sữa, dầu ăn, chất tẩy rửa, săm lốp xe đạp, xe máy, lốp ô tô máy kéo, giày dép..., đã chiếm được thị trường trong nước và dần cạnh tranh được với hàng ngoại nhập. Thị trường xuất khẩu Các thị trường xuất khẩu chủ yếu hai năm 2004-2005 của hàng công nghiệp Việt Nam là EU với các sản phẩm chủ yếu là hàng dệt may, giày dép, xe đạp; Nhật Bản với các sản phẩm chủ yếu là than, dầu thô, hàng dệt may, giày dép, hàng thủ công mỹ nghệ; ASEAN với các sản phẩm là hàng thủ công mỹ nghệ, dệt may, giày dép, linh kiện điện tử, dây, cáp điện... Thị trường Mỹ là thị trường lớn, chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong kim ngạch xuất khẩu với các sản phẩm chủ yếu như hàng dệt may, giày dép. Khả năng cạnh tranh của hàng công nghiệp Ngoài việc xuất khẩu nguyên liệu thô như khoáng sản, dầu thô, than,..., một số mặt hàng đã dần chiếm lĩnh thị trường trong nước và xuất khẩu như: dệt may, da giày, một số sản phẩm cơ khí, điện tử, điện gia dụng, hàng thủ công mỹ nghệ với mức tăng trưởng rất cao. Nhìn chung, hầu hết các sản phẩm công nghiệp đã có thị trường tiêu thụ, đặc biệt là thị trường nội địa. Qua một số nhận định trên ta thấy giầy dép là một trong nhiều mặt hàng có tiềm năng lớn trong sản xuất để phục vụ nhu cầu trong nước và có vị thế xuất khẩu rất rõ nét. Tuy nhiên ngành da giầy Việt Nam đang tồn tại hai hạn chế cần được nhanh chóng khắc phục nếu không nó sẽ kìm hãm sự phát triển. Thứ nhất là yếu kém vè năng lực thiết kế mẫu và công tác thị trường. Thứ hai là thiếu nguồn nguyên liệu trong nước, hầu hết các doanh nghiệp phải phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Chính điều này làm cho hiệu quả của ngành giảm do chi phí trung gian trong sản xuất ngày càng tăng. Mặc dù ngành còn nhiều hạn chế nhưng theo kế hoạch phát triển công nghiệp nói chung và cho nhóm ngành hàng tiêu dùng nói riêng, dệt may và giầy dép sẽ là hai mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Do đó làm thế nào để đưa ra lời giải đáp cho bài toán tăng năng suất, đẩy mạnh hiệu quả của ngành ta cần phải đánh giá năng lực sản xuất và các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả, đặc biệt là hiệu quả kỹ thuật của toàn ngành. Chính vì lý do như vậy nên tác giả đã chọn nghiên cứu đề tài: Mô hình xác định các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất của ngành sản xuất giầy dép 2. Mục đích nghiên cứu Xuất phát từ vai trò quan trọng của việc xem xét những nhân tố tác động đến hiệu quả, cụ thể là hiệu quả kỹ thuật của một ngành sản xuất, đề tài nghiên cứu áp dụng cho ngành công nghiệp sản xuất giầy dép của Việt Nam. Mục tiêu cơ bản của luận văn là xây dựng hàm sản xuất cho ngành sản xuất giầy dép theo cách tiếp cận biên ngẫu nhiên với các đầu vào cần thiết. Trên cơ sở đó tác giả cũng đưa ra một số tính toán và so sánh hiệu quả kỹ thuật của ngành và của các cơ sở sản xuất trong điều tra mẫu. Qua phân tích tác giả thấy hiệu quả của ngành không cao nên sẽ đánh giá tác động của một số nhân tố tới tính phi hiệu quả của ngành giầy dép. 3. Phạm vi nghiên cứu Tác giả tập trung các phân tích của mình đối với ngành Da Giầy ( bao gồm chủ yếu là các cơ sở sản xuất giầy dép, sản phẩm chủ yếu của ngành) Số liệu thu thập từ cuộc điều tra doanh nghiệp do Tổng cục thống kê thực hiện trong ba năm ( 2000 đến 2002) với một số chỉ tiêu cơ bản về tình hình sản xuất của doanh nghiệp. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận văn dùng lý luận và phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng kết hợp với phương pháp mô hình hoá trên cơ sở xây dựng quan hệ khách quan giữa các đại lượng phân tích., phương pháp thống kê mô tả đặc điểm của các chỉ tiêu kinh tế. Luận văn sử dụng phương pháp phân tích định lượng, xây dựng mô hình dựa vào số liệu thống kê để đánh giá hiệu quả kỹ thuật của một ngành sản xuất cụ thể.- ngành giầy dép. Ngoài ra tác giả còn dựa trên những quan điểm và kế hoạch phát triển kinh tế của Nhà nước để đánh giá thực trạng cũng như phân tích, đề ra định hướng cho ngành sản xuất. 5. Những đóng góp chủ yếu của luận văn - Luận văn đã đưa ra những phân tích về thực trạng và xu hướng vận động của một ngành rất quan trọng trong lĩnh vực xuất khẩu là ngành sản xuất giầy dép. - Trên cơ sở muốn lượng hoá hiệu quả hoạt động của ngành, tác giả đã nghiên cứu hiệu quả kỹ thuật, một trong hai phần cấu tạo nên tăng trưởng năng suất tổng hợp của ngành. - Tác giả cũng đưa ra một số phân tích về các nhân tố tác động đến mức phi hiệu quả của toàn ngành giầy dép nói riêng và ngành gộp giầy dép - dệt may nói chung. - Cuối cùng luận văn đóng góp một số giải pháp dựa trên việc phân tích định tính và định lượng hiệu quả của ngành sản xuất giầy dép. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn chia làm ba chương với nội dung như sau Chương I: Tổng quan chung về ngành sản xuất giầy dép Đầu tiên tác giả khoanh vùng phạm vi phân tích trong ngành giầy dép thông qua việc đánh giá tình hình hoạt động của ngành trong những năm gần đây. Ngành có tiềm năng xuất khẩu lớn nên sản xuất có rất nhiều biến động vì bị chi phối bởi thị trường tiêu thụ. Do đó một số cơ hội và thách thức đã đặt ra với toàn ngành. Chương II: Mô hình hàm sản xuất biên ngẫu nhiên đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kỹ thuật của một ngành sản xuất. Muốn toàn ngành phát triển thì bản thân từng cá thể là các doanh nghiệp trong ngành phải nỗ lực, do đó hiệu quả của từng cơ sở sẽ ảnh hưởng đén mức hiệu quả chung của toàn ngành. Nội dung của chương này đề cập đến việc xây dựng hàm sản xuất biên ngẫu nhiên, từ đó ước lượng theo một phương pháp thích hợp sẽ tính được hiệu quả kỹ thuật của một ngành sản xuất nói chung, xác định các nhân tố ảnh hưởng tới mức hiệu quả và phi hiệu quả của toàn ngành. Chương III: áp dụng mô hình cho ngành sản xuất giầy dép Việt Nam áp dụng các tính toán và mô hình cho ngành giầy dép trên cơ sở phân tích mẫu ngẫu nhiên, đánh giá được hiệu quả của ngành và vai trò của các chỉ têu kinh tế tới mức hiệu quả đó, một số giải pháp được đưa ra để giúp ngành giầy dép có điều kiện tận dụng các cơ hội phát triển và định hướng rõ ràng trong giai đoạn sau. chương I tổng quan về ngành sản xuất giầy dép 1. Thực trạng tình hình sản xuất giầy dép của Việt Nam Nền kinh tế của một quốc gia có thể tăng trưởng nhanh hay chậm trong thời đại ngày nay phụ thuộc vào sự phát triển của từng ngành sản xuất và dịch vụ. Mỗi ngành có một thế mạnh dựa vào đặc tính và khả năng tiêu thụ của sản phẩm. Với tiến trình hội nhập kinh tế, hàng hoá Việt Nam đang ngày càng có chỗ đứng trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên việc làm thế nào để đứng vững và tiến lên trong điều kiện cạnh tranh gay gắt đang là yêu cầu đặt ra với mỗi ngành sản xuất. Trong nhóm ngành lớn là sản xuất hàng tiêu dùng, ngành giầy dép đang ngày càng có vị trí quan trọng không những chỉ hoạt động trong nước mà vị thế xuất khẩu cũng nâng lên rõ rệt. Ngành công nghiệp giầy dép của Việt Nam trong 7 năm trở lại đây tăng trưởng rất nhanh, đặc biệt là sản lượng và xuất khẩu. Giai đoạn từ 1997 - 2000 đã tăng từ 206 triệu đôi lên đến 303 triệu đôi. Hiện nay, năng lực sản xuất của chúng ta có thể sản xuất được khoảng 400 triệu đôi. Phần lớn các sản phẩm này đều được xuất khẩu, trung bình mỗi năm tổng giá trị giầy dép xuất khẩu của Việt Nam đạt 1,5 tỷ USD. Trong đó, châu Âu là thị trường hàng đầu, chiếm khoảng 65% lượng hàng xuất khẩu của Việt Nam, sau đó là thị trường Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Tuy nhiên, từ năm 2000 đến nay tốc độ tăng trưởng của ngành đã bắt đầu chững lại và có dấu hiệu giảm dần bởi sức cạnh tranh ngày càng mạnh từ phía các nhà sản xuất giầy dép Trung Quốc. Tổng kim ngạch xuất khẩu giầy dép của cả nước năm 2002 đạt 1,82 tỷ đô la, tăng 17,2% so với cùng kỳ năm 2001. Năm 2002, mặc dù tình hình kinh tế toàn cầu có ổn định hơn trước, một số nền kinh tế đã dần được phục hồi, sức mua của các thị trường chủ yếu từng bước được ổn định, thị trường Mỹ được mở… song ngành giầy lại tiếp tục gặp phải những thách thức mới: Tốc độ thay đổi mẫu mốt của khách hàng tăng trong khi quy mô của các đơn đặt hàng bị thu nhỏ lại rất nhiều, sức ép đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế về quản lý chất lượng, đảm bảo trách nhiệm xã hội, bảo vệ môi trường từ khách hàng tăng. Đặc biệt, việc Trung Quốc ra nhập tổ chức thương mại thế giới đã làm cho cạnh tranh giữa giầy dép nước ta sản xuất và giầy dép Trung Quốc càng trở nên quyết liệt hơn bao giờ hết. Trước những khó khăn thách thức mới, toàn ngành đã phải dốc sức điều chỉnh kế hoạch sản xuất, kinh doanh, tăng đầu tư chiều sâu nhằm đáp ứng nhanh các đơn hàng khó, từng bước hướng một từng bộ phận sản xuất từ chủ yếu làm gia công cho đối tác nước ngoài sang phương thức tự sản xuất, tự tiêu thụ nhằm tăng tính chủ động trong sản xuất kinh doanh, chiếm lĩnh thị trường và tăng kết quả kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp có những bước đầu tư đột phá khâu thiết kế mẫu mốt thời trang, ứng dụng tin học trong thiết kế mẫu và quản lý sản xuất: Cty Hữu Nghị Đà Nẵng, Cty An Lạc, Cty Phú Lâm ….Một số công ty đã xây dựng và khẳng định được những thương hiệu của mình trong và khu vực như : Cty Bitis, Vina Giầy… Bảng 1.1 Sản lượng sản xuất da - giầy của Việt Nam 2001 - 2003 Đơn vị tính: triệu đôi TT Sản phẩm 2001 2002 2003 1 Giầy vải 37,79 189,43 192,354 2 Các loại khác 76,43 71,71 68,364 3 Giầy thể thao 138,30 31,43 40,15 4 Giầy nữ 69,50 67,43 70,215 Tổng số: 322,02 360,00 371,083 Nguồn: Hiệp hội Da - Giầy Việt Nam Bảng 1.2 Kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp chủ yếu 2001-2003 Chỉ tiêu Đơn vị tính 2001 2002 2003 1. Kim ngạch XKCN Triệu USD 10615 10610 14101 Hàng CN nặng và KS ,, 5247 5210 6150 Hàng CN nhẹ và TTCN ,, 5368 6400 7951 2. Mặt hàng XK chủ yếu Hàng dệt may Triệu USD 1975 2752 3600 Hàng giày dép ,, 1560 1867 2217 Hàng thủ công mỹ nghệ ,, 235 329 367 Than đá Nghìn .Tấn 4290 5870 6200 Dầu thô ,, 16732 16879 17169 Hàng điện tử & linh kiện Triệu USD 595 492 680 Nguồn: Bộ Kế hoạch đầu tư Đến năm 2010, ngành giầy da Việt Nam đạt mục tiêu sẽ trở thành ngành công nghiệp xuất khẩu trọng yếu. Kim ngạch xuất khẩu sẽ đạt 3300 triệu vào năm 2006 và tăng lên đạt 6200 triệu USD năm 2010. Mục tiêu phát triển ngành da giầy cũng được xác định cụ thể: đến năm 2006 sản xuất được 470 triệu đôi giầy dép các loại; 51,7 triệu chiếc cặp, túi xách các loại; 40 triệu feet vuông da thuộc thành phẩm. Năm 2010, tương ứng sẽ là 720 triệu đôi; 80,7 triệu chiếc và 80 triệu feet vuông. Theo dự báo của thế giới, từ nay đến 2007 sản lượng giầy dép của toàn thế giới tăng bình quân 3 - 3,2%/năm và thực tế hiện nay ngành da giầy Việt Nam vẫn đang phải trực diện với không ít thách thức từ sản xuất đến thị trường tiêu thụ, đặc biệt là thị trường xuất khẩu. Bảng 1.3 Giá trị xuất khẩu giầy dép giai đoạn 2000 - 2004 (triệu USD) Năm 2000 2001 2002 2003 2004 Giá trị 1,464 1,559 1,667 2,268 2,610 Nguồn: Trung tâm thông tin Bộ Thương mại Đến hết ngày 10/12/2004, kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành đạt 2,61 tỷ USD (Trong đó: Kim ngạch xuất khẩu cặp, túi xách đạt 0,16 tỷ USD), tăng 22% so với năm 2003. Năm 2004, sản xuất kinh doanh của toàn ngành có phần biến động so với năm 2003, các doanh nghiệp sản xuất giầy vải tiếp tục gặp khó khăn, với yêu cầu mẫu mã đa dạng và phức tạp hơn, đơn hàng giầy vải ngày càng thu hẹp (chỉ các loại giầy vải có mũ từ da thuộc, vải cao cấp được các khách hàng lựa chọn nhiều hơn). Các doanh nghiệp có khách hàng tiềm năng, đơn hàng nhiều tiếp tục gia tăng và phát triển sản xuất, đặc biệt các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và liên doanh. Một số doanh nghiệp thực sự khó khăn do không có khách hàng thường xuyên, thu hẹp sản xuất (phần lớn các doanh nghiệp này là doanh nghiệp Nhà nước: Công ty giầy Hiệp Hưng, Công ty Giầy Thăng Long, Công ty Giầy Vĩnh Yên…). Khu vực phía Bắc khó thu hút khách hàng hơn phía Nam (trừ khu vực Hải Phòng). Phần giá trị gia tăng trong nước của các sản phẩm da giầy hiện mới chỉ ở mức rất thấp (35 - 40%), do phần lớn các doanh nghiệp sản xuất gia công, nhiều nguyên liệu vẫn tiếp tục phải nhập ngoại và do các đối tác chỉ định. * Về đầu tư: Năm 2004, ít doanh nghiệp đầu tư mới cho sản xuất giầy, riêng phần nguyên phụ liệu và thuộc da tiếp tục được đầu tư mạnh hơn: Công ty thuộc da Hào Dương bắt đầu đi vào hoạt động, một số cơ sở nhỏ tại khu thuộc da Phú Thọ Hoà ra đời, công ty thuộc da Primer Vũng Tàu (Chuyên cung cấp các loại da thuộc thành phẩm cho công ty PouYuen đã đi vào sản xuất từ quý II/2004, công ty thuộc da Samwoo, công ty Green Tech đã đi vào sản xuất ổn định… Các cơ sở sản xuất nguyên phụ liệu (đế giầy, da tráng PU, keo, phụ liệu…) có quy mô không lớn được hình thành để phục vụ nhu cầu của các doanh nghiệp giầy. Tuy nhiên, nhiều loại nguyên phụ liệu sản xuất trong nước có giá bán cao hơn nhập khẩu nên các doanh nghiệp (đặc biệt là các doanh nghệp gia công) vẫn lựa chọn nhập khẩu hơn là mua trong nước. * Về thị trường và hoạt động xúc tiến thương mại: Sản lượng xuất khẩu vào thị trường Mỹ tiếp tục gia tăng (năm 2004 chiếm 14 - 15% kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành), chủ yếu do các công ty 100% vốn nước ngoài, liên doanh, một vài công ty lớn của Việt Nam như: Công ty Sao Vàng, Công ty TNHH Duy Hưng… thực hiện. Thị trường EU (chiếm 73 - 75%) có những biến động nhất định với các yêu cầu ngày càng cao về sản phẩm không sử dụng hoá chất độc hại, doanh nghiệp thực hiện tốt các tiêu chuẩn về nhãn mác v.v… Đồng thời chịu tác động do vừa qua EU ban hành một số quy định mới về hệ thống ưu đãi thuế quan (GSP) và xem xét lại 8 nước có kim ngạch xuất khẩu lớn vào EU (trong đó có Việt Nam) để tiếp tục cho thực hiện quy chế ưu đãi thuế quan. Bộ Thương mại và Hiệp hội Da - Giầy đã kiến nghị Chính phủ đàm phán và tác động để Việt Nam tiếp tục được hưởng ưu đãi thuế quan. Kết quả phần lớn các nước EU ủng hộ để Việt Nam tiếp tục được hưởng GSP. Nếu có biến động, việc xuất khẩu giầy dép sang EU sẽ gặp khó khăn hơn. Thị trường Nhật chiếm mức 2,5% và các nước khác duy trì ở mức như những năm trước đây. Năm 2004, Hiệp hội tiếp tục được giao nhiệm vụ đầu mối thực hiện chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp trong ngành tiếp cận, khảo sát thị trường, giới thiệu quảng bá sản phẩm của doanh nghiệp trực tiếp tới các khách hàng nhập khẩu tiềm năng * Về chi phí cho sản xuất Tiếp tục có sự biến động, các chi phí đầu tư vào gia tăng cao (các dịch vụ, điện nước, sinh hoạt, tiền lương và bảo hiểm), các doanh nghiệp chịu nhiều sức ép trong bối cảnh công phí và giá bán không tăng, các yêu cầu khách hàng phải đáp ứng đầy đủ hơn. Theo các chuyên gia trong ngành xác nhận, phần giá trị gia tăng trong kim ngạch xuất khẩu của ngành còn rất khiêm tốn, mới chỉ chiếm khoảng 15 - 20%, trong đó chưa loại trừ giá trị thương hiệu. Bởi lẽ, hầu hết các doanh nghiệp trong ngành vẫn đang thực hiện phương thức sản xuất gia công cho các hãng giầy nổi tiếng thế giới. Nếu loại bỏ yếu tố thương hiệu của sản phẩm, giá trị gia tăng này sẽ còn thấp hơn. Từ đầu năm đến nay, kim ngạch xuất khẩu của ngành da giầy đạt 1,36 tỷ USD. Với đà này, năm 2005, kim ngạch xuất khẩu toàn ngành sẽ đạt khoảng 2,7 - 2,8 tỷ USD. Tốc độ tăng trưởng được đo ở mức 18 - 19%. Trong bối cảnh của cạnh tranh thị trường thì sự tăng trưởng đó là rất đáng kể. Hiệp hội Da - giầy Việt Nam đã cho biết các doanh nghiệp sản xuất của Việt Nam đang bị cạnh tranh dữ dội từ phía Trung Quốc. Thời gian qua, nhiều doanh nghiệp đã đầu tư vào sản xuất giầy cấp thấp do những sản phẩm này chỉ cần công nghệ đơn giản, cơ cấu sản xuất gọn nhẹ, chi phí đầu tư ít, lại có thị trường rộng. Trước đây giầy cấp thấp có tỷ trọng chiếm tới 40% trong cơ cấu giầy xuất khẩu của ngành da giầy Việt Nam. Nhưng hai năm gần đây, doanh nghiệp Việt Nam đã mất dần thị trường bởi sự cạnh tranh rất mạnh của các nhà sản xuất Trung Quốc. Do đó, để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp cần phải nhanh chóng chuyển hướng sản xuất các mặt hàng tung và cao cấp do những sản phẩm này đang có xu hướng tiêu dùng mạnh. Nhiều doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp FDI, liên doanh và doanh nghiệp trong nước đã chuyển hướng hiệu quả. Hiện nay, để sản xuất giầy cao cấp, các doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế như trình độ công nghệ rất thấp, khả năng phát triển sản phẩm gần như không có, việc xây dựng mối quan hệ với khách hàng rất lỏng lẻo, năng suất lao động chỉ bằng một nửa so với các doanh nghiệp Trung Quốc. Để phát triển, không còn cách nào khác là các doanh nghiệp phải đẩy mạnh đầu tư công nghệ mới để nâng cao chất lượng sản phẩm, năng suất lao động và chú trọng đến khâu thiết kế sản phẩm, phát triển thị trường. Dự báo nhu cầu trong nước một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu năm 2005 Các sản phẩm công nghiệp Đơn vị tính 2000 2005 Nhu cầu Năng lực sản xuất Nhu cầu Năng lực sản xuất Dầu thô Triệu tấn 0 15,4 0 18 Xi măng Triệu tấn 13,5 18,6 29-30 29 Thép xây dựng “ 1,67 2,5 3,3-3,6 3,5 Than sạch “ 7,6 12-13 12-13,5 22 Hàng may sẵn Triệu SP 64 540 83-88 800 Giày dép Triệu đôi 80 360 160 390-450 Giấy 1000 tấn 480 377 800 670 Bia Triệu lít 800 800 970-970 1150 Nguồn: Bộ Kế hoạch đầu tư Trong năm 2005, sản xuất kinh doanh của ngành giầy da có phần biến động so với năm 2004. Một số doanh nghiệp, chủ yếu là doanh nghiệp Nhà nước, do không có khách hàng thường xuyên, phải thu hẹp sản xuất. Các doanh nghiệp sản xuất giầy vải khó khăn hơn, nhiều doanh nghiệp phải chuyển sang sản xuất giầy thể thao và giầy nữ. Kim ngạch xuất khẩu giầy dép của Việt Nam tuần từ 22 - 27/8/2005 vào một số thị trường chủ yếu Thị trường Trị giá (USD) Mỹ 9.557.129 Anh 9.242.720 Đức 5.081.941 Hà Lan 3.266.650 Pháp 2.380.154 Mêhicô 2.289.778 Bỉ 1.972.878 Canada 1.745.623 Tây Ban Nha 1.171.179 Italia 1.048.373 Nguồn: Vietnam Net Do mặt hàng da giầy được xuất khẩu nhiều trên thị trường thế giới (Việt Nam đứng ở vị trí thứ tư ) nên các doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất đều quan tâm đến thị trường tiêu thụ. Điều đó cũng ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất không những của một doanh nghiệp mà còn chung cho cả ngành. Giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt được của các doanh nghiệp Việt Nam từ năm 1999 đến 2002 đã liên tục sụt giảm từ 59% trong tổng số xuống còn 53,1%; 51,1% và 47,9% (Riêng các doanh nghiệp dân doanh tăng từ 26,73% năm 2000, lên 30,06% năm 2001, rồi giảm còn 29,1% năm 2002); trong khi các doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài lại gia tăng từ 35,34% lên 41,3%; 42,88% và 45,4% vào các thời điểm tương ứng; các doanh nghiệp liên doanh cũng tăng tương tự từ 5,66%; 5,6%; 5,7% và 5,8%. Lý do được giải thích là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, dù 100% vốn hay liên doanh với doanh nghiệp trong nước, đều có sẵn những thị trường lớn và mặt hàng xuất khẩu ổn định, ít bị phụ thuộc vào phía đối tác về nguyên phụ liệu, đơn hàng như các doanh nghiệp Việt Nam. 2. Những tồn tại ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất của ngành giầy dép 2.1. Thiếu nguyên liệu và công nghiệp phụ trợ Theo phân tích của các nhà kinh tế, Việt Nam không tự chủ được nguồn nguyên liệu trong nước, phụ thuộc nhiều vào nh
Tài liệu liên quan