Đề tài Một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ở Công ty Vân Đồn thuộc bộ đội biên phòng tỉnh Quảng Ninh

Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta có nhiều biến đổi quan trọng theo hướng tích cực. Theo tinh thần nghị quyết của Đại hội Đảng toán quốc lần thứ VIII. Nền kinh tế nước ta tiếp tục được định hướng theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế trong những năm gần đây. Trong mọi hoạt động kinh doanh của các đơn vị tổ chức, doanh nghiệp đã có rất nhiều thay đổi và định hình phù hợp với cơ chế của nền kinh tế thị trường.

doc56 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1263 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ở Công ty Vân Đồn thuộc bộ đội biên phòng tỉnh Quảng Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta có nhiều biến đổi quan trọng theo hướng tích cực. Theo tinh thần nghị quyết của Đại hội Đảng toán quốc lần thứ VIII. Nền kinh tế nước ta tiếp tục được định hướng theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế trong những năm gần đây. Trong mọi hoạt động kinh doanh của các đơn vị tổ chức, doanh nghiệp đã có rất nhiều thay đổi và định hình phù hợp với cơ chế của nền kinh tế thị trường. Kinh doanh trong cơ chế thị trường đòi hỏi các nhà doanh nghiệp phải rất năng động, nhạy bén, với mục đích cốt lõi là thoả mãn nhu cầu của thị trường nhằm mục đích thu lợi nhuận. Một doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả là kết quả của sự kết hợp chặt chẽ của hàng loạt các chiến lược, chính sách, biện pháp với những hoạt động cụ thể như mua, bán, dự trữ tồn kho, tổ chức lao động và sử dụng vốn v.v... Chính sách này có liên quan đến chính sách khác tạo thành hệ thống chính sách, chiến lược trong lĩnh vực kinh doanh đem lại hiệu quả cho các doanh nghiệp. Thực tế hiện nay, trên thị trường, có nhiều doanh nghiệp và có cơ sở tư nhân cùng kinh doanh mặt hàng than, gạo, hải sản... tạo thành một khu vực thị trường cạnh tranh rất sôi động và quyết liệt, đòi hỏi mỗi doanh nghiệp muốn dành thắng lợi phải có định hướng kinh doanh cụ thể và hợp lý. Công ty Vân Đồng thuộc Bộ đội biên phòng Quảng Ninh là một doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh có tổ chức, Công ty xây dựng chiến lược và kế hoạch kinh doanh có chính sách trong từng thời kỳ cụ thể, có mạng lưới kinh doanh rộng lớn đảm bảo quá trình mua bán diễn ra nhanh chóng và thông suốt, uy tín của Công ty đối với khách hàng ngày càng được nâng cao. Xuất phát từ tầm quan trọng và ý nghĩa của vấn đề kinh doanh, sau thời gian thực tập và nghiên cứu thực tiễn ở Công ty Vân Đồn thuộc Bộ đội biên phòng Quảng Ninh, được sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của thầy giáo hướng dẫn, sự đồng ý và tạo điều kiện thuận lợi của đơn vị thực tập, tôi chọn đề tài nghiên cứu. "Một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ở Công ty Vân Đồn thuộc bộ đội biên phòng tỉnh Quảng Ninh" làm luận văn tốt nghiệp cử nhân kinh tế. Nội dung luận văn được trình bày trong 3 phần chính: Phần I: Kinh doanh hàng hoá của doanh nghiệp thương mại trong nền kinh tế thị trường Phần II: Phân tích thực trạng kinh doanh của Công ty Vân Đồn - Bộ đội biên phòng tỉnh Quảng Ninh trong những năm gần đây. Phần III: Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ở Công ty Vân Đồn - Bộ đội biên phòng tỉnh Quảng Ninh. Qua đây tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy giáo Trần Văn Bão, cũng như các anh, chị ở Công ty Vân Đồn, những người đã hướng dẫn, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận văn này. Phần I Kinh doanh hàng hoá của doanh nghiệp thương mại trong nền kinh tế thị trường I/ Kinh doanh và nội dung cơ bản của hoạt động kinh doanh ở doanh nghiệp thương mại I.1. Mục tiêu của kinh doanh thương mại Kinh doanh là việc thực hiện một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời. Kinh doanh thương mại là một dạng của lĩnh vực đầu tư để thực hiện dịch vụ lưu thông hàng hoá trên thị trường nhằm mục đích sinh lời. Mục đích lợi nhuận là mục đích trước mắt, lâu dài và thường xuyên của hoạt động kinh doanh và nó cũng là nguồn động lực của kinh doanh. Muốn có lợi nhuận thì doanh thu bán hàng và dịch vụ phải lớn hơn chi phí kinh doanh. Muốn có doanh thu bán hàng và dịch vụ lớn thì phải chiếm được khách hàng, phải bán được nhanh chóng hàng hoá và giảm các khoản chi phí kinh doanh có thể và không cần thiết. Trong điều kiện cạnh tranh trên thị trường, việc thu hút được khách hàng đòi hỏi doanh nghiệp phải kinh doanh loại hàng hoá phù hợp với nhu cầu của khách hàng, được khách hàng chấp nhận. Mức độ đạt được và kỳ vọng về lợi nhuận phụ thuộc vào các loại hàng hoá và chất lượng của chúng, khối lượng và giá cả của hàng hoá bán được, cung cầu hàng hoá trên thị trường, chi phí kinh doanh và tốc độ tăng giảm của chi phí kinh doanh v.v... Kinh doanh chịu tác động của vô vàn các nhân tố chủ quan, khách quan rủi ro trong kinh doanh là thường xuyên, do vậy an toàn là mục tiêu thứ hai của các nhà kinh doanh. Trong thị trường cạnh tranh đầy biến động, có nhiều rủi ro, trong hoạt động kinh doanh vấn đề bảo toàn vốn và phát triển vốn để kinh doanh liên tục phát triển đòi hỏi phải đặt ra mục tiêu an toàn trong kinh doanh theo nguyên tắc "Trứng không bỏ hết vào một giỏ", phải có chi phí bảo hiểm kinh doanh mặc dù các quyết định đưa ra phải rất nhanh, nhạy, dám chịu mạo hiểm nhưng việc cân nhắc mặt lợi và mặt hại, tầm nhìn xa trông rộng và bản lĩnh rủi ro thiệt hại có thể xảy ra. Với ngành nào, lĩnh vực nào cũng không phải chỉ mình doanh nghiệp kinh doanh mà còn nhiều người cũng kinh doanh. Vấn đề là làm sao chiếm lĩnh được thị trường, vị trí của doanh nghiệp trên thị trường là chắc chắc và không ngừng được củng cố nâng cao. Vị thế trở thành mục tiêu thứ ba của doanh nhân, doanh nghiệp xác định vị trí của mình, củng cố thế lực kinh doanh. Mục đích thế lực là mục tiêu phát triển cả về quy mô kinh doanh, cả về thị phần trên thị trường đòi hỏi doanh nghiệp phải không ngừng tăng doanh số bán hàng và dịch vụ, phải không ngừng mở rộng và phát triển thị trường tăng từ quy mô nhỏ lên quy mô lớn, từ chỗ chen được vào thị trường tiến tới chiếm lĩnh thị trường và làm chủ thị trường. Kỳ vọng về thế lực trong kinh doanh phụ thuộc vào nguồn lực, tài lực và phụ thuộc cơ chế quản lý của Nhà nước trong từng giai đoạn. Mục tiêu chính của kinh doanh vẫn là tạo ra lợi nhuận. Nhưng vì mỗi doanh nghiệp mỗi lúc thường có nhiều mục tiêu và không phải lúc nào cũng thoả mãn được tất cả các mục tiêu đó ngay lập tức, nên đòi hỏi sự phân loại các mục tiêu, nghĩa là phải có sự lựa chọn mục tiêu. Những mục tiêu nào gần gũi nhất, có khả năng thực hiện lớn nhất sẽ được đặt lên hàng đầu. Vì vậy, việc lựa chọn mục tiêu thường được biểu diễn dưới dạng hình kim tự tháp gọi là "tháp mục tiêu". Trong đó những mục tiêu quan trọng và dễ có khả năng thực hiện nhất đối với các doanh nghiệp được xếp lên đỉnh tháp và cứ thế tuần tự cho đến những mục tiêu lâu dài nhất đòi hỏi phải được thực hiện trong những khoảng thời gian dài hạn. Mục tiêu quan trọng Mục tiêu lâu dài hơn Đối với doanh nghiệp thương mại hoạt động trong lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá thường có 5 mục tiêu cơ bản như: khách hàng, chất lượng, đổi mới, lợi nhuận và cạnh tranh. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu kinh doanh các doanh nghiệp thương mại hoạt động trên thương trường phải tuân thủ các quy luật cơ bản của kinh doanh, làm khác với quy luật thì chỉ chuốc lấy thất bại mà thôi. Kinh doanh có quy luật riêng của nó. + Quy luật hàng hoá vận động từ nơi có giá thấp đến nơi có giá cao. Nếu đi đúng đường này chúng ta có lời, nếu đi ngược dòng thì lỗ. + Quy luật mua rẻ bán đăt. Thuận thì có chênh lệch được gọi là lợi nhuận, ngược thì phải bù lỗ, diễn ra liên tục mua đắt bán rẻ thì phá sản. + Quy luật mua của người chán bán cho người cần. Hàng hoá người bánđã chán thì muốn bán cho nhanh, bán rẻ. Hàng của người mua cần thì thường trả giá cao. I.2. Nội dung cơ bản cua kinh doanh thương mại trong nền kinh tế thị trường Để hoạt động kinh doanh mọi người, mọi doanh nghiệp đều phải dự trên những yếu tố, những điều kiện nhất định kinh doanh thương mại có những đặc điểm và nội dung riêng của nó. a) Nghiên cứu và xác định nhu cầu thị trường về hàng hoá và dịch vụ để lựa chọn kinh doanh Đối tượng của kinh doanh thương mại là hàng hoá và các dịch vụ trong buôn bán hàng hoá. Có thể kinh doanh một loại hàng hoá (chuyên doanh) hoặc một nhóm hàng hoá (tổng hợp). Nhưng trước khi tiến hành hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp thương mại phải nghiên cứu và xác định nhu cầu thị trường về loại hàng hoá đó. Mỗi loại hàng hoá có đặc điểm cơ, lý, hoá và trạng thái khác nhau: Cho sản xuất hoặc tiêu dùng. Doanh nghiệp phải xác định được nhu cầu của khách hàng và tự đáp ứng cho các nhu cầu hiện nay. Nguồn cung ứng (sản xuất hoặc nhập khẩu) hàng hoá đó cũng có thể doanh nghiệp kinh doanh những hàng hoá chưa hề có trên thị trường nhưng chưa qua nghiên cứu tin chắc rằng nhu cầu của khách hàng sẽ có và ngày càng tăng lên. Nghiên cứu và xác định nhu cầu của thị trường và doanh nghiệp sẽ đáp ứng, đồng thời doanh nghiệp thương mại phải nghiên cứu và xác định khả năng của nguồn hàng, khả năng có thể khai thác, đặt hàng và thu mua để đáp ứng cho nhu cầu của khách hàng. Từ đó doanh nghiệp lựa chọn để đi vào kinh doanh. Việc nghiên cứu và xác định nhu cầu của thị trường về loại hàng hoá để lựa chọn kinh doanh không phải một lần mà thực hiện trong quá trình tồn tại, phát triển kinh doanh của doanh nghiệp. b) Huy động và sử dụng hợp lý các nguồn lực đưa vào kinh doanh Bất kỳ một hoạt động nào cũng là huy động các nguồn vốn và con người, đưa chúng vào hoạt động để tạo ra tiền lời cho các doanh nghiệp. Kinh doanh thương mại cũng phải huy động các nguồn lực để tiến hành các hoạt động kinh doanh. Các nguồn lực của doanh nghiệp mà doanh nghiệp có thể huy động được bao gồm: Vốn hữu hình: Như tiền của, nhà ở, kho tàng, cửa hàng, quầy quán... Vốn vô hình như: sự nổi tiếng của nhãn hiệu hàng hoá, tín nhiệm của khách hàng... Doanh nghiệp cần kết hợp các nguồn lực và con người cụ thể như thế nào để doanh nghiệp có thể tiến hành kinh doanh một cách nhanh chóng, thuận lợi và rút ngắn thời gian chuẩn bị, có kết quả kinh doanh nhanh chóng và phát triển kinh doanh cả bề rộng và bề sâu. Việc huy động và sử dụng hợp lý các nguồn lực về cơ bản đó là tài năng của giám đốc và hệ thống tham mưu chức năng giúp giám đốc, cũng như sự phát huy khả năng của mọi thành viên trong doanh nghiệp. c) Tổ chức các hoạt động nghiệp vụ mua, bán, dự trữ, bảo quản, vận chuyển khuyến mại và các hoạt động dịch vụ khách hàng. Hoạt động kinh doanh cơ bản của doanh nghiệp thương mại là mua để bán. Tổ chức tạo nguồn hàng, khai thác đặt hàng, ký kết hợp đồng kinh tế để đảm bảo nguồn hàng cho doanh nghiệp đáp ứng cho nhu cầu của khách hàng. Tổ chức phân phối và bán hàng là nghiệp vụ kinh doanh quan trọng bậc nhất, bởi vì chỉ có bán được hàng doanh nghiệp mới thù hồi được vốn, mới có nguồn trang trải chi phí lưu thông và mới có lợi nhuận. doanh nghiệp cũng phải dự trữ hàng hoá để đảm bảo cung ứng đầy đủ, kịp thời, đồng bộ và ổn định cho các khách hàng. Để thực hiện các nghiệp vụ mua, bán, dự trữ hàng hoá, doanh nghiệp phải tổ chức mạng lưới mua bán, các kho dự trữ, các cửa hàng, quầy hàng để bán hàng. Đồng thời phải thực hiện các nghiệp vụ vận chuyển, giao nhận, thanh toán với người mua hàng, người bán hàng v.v... Trong hoạt động kinh doanh phải thực hiện hoạt động dịch vụ phục vụ khách hàng. Chỉ có thực hiện các hoạt động dịch vụ mới có thể thu hút được khách hàng. d) Quản trị vốn, phí, hàng hoá và nhân sự trong hoạt động kinh doanh Quản trị kinh doanh thương mại phải quản trị vốn, kinh doanh chi phí, hàng hoá và nhân sự. Quản trị vốn là thực hiện sử dụng vốn trong kinh doanh và theo dõi được kết quả sử dụng vốn là có lãi hay lỗ. Phải quản lý được các khoản chi và phải chi đúng mục đích. Đúng kế hoạch và đúng hướng. Quản trị chi phí là phải có kế hoạch chi, phải theo dõi và tính toán đúng đắn các khoản chi phí, tiết kiệm chi phí. Quản trị hàng hoá phải nắm được quy trình, quy phạm bảo quản loại hàng hoá và không ngừng nâng cao trình độ kỹ thuật công nghệ của các cán bộ công nhân viên có liên quan. Quản trị nhân sự là lựa chọn, bố trí, sắp xếp, phân công việc nào người nấy phù hợp để hoàn thành tốt mọi chức năng nhiệm vụ của doanh nghiệp. Quản trị nhân sự cũng như quản trị các hoạt động kinh doanh phải thực hiện các chức năng hoạch định, tổ chức, cán bộ, chỉ huy và kiểm tra. I.1. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại I.3.1. Doanh nghiệp thương mại và vai trò của doanh nghiệp thương mại trong nền kinh tế quốc dân a) Doanh nghiệp thương mại và chức năng của nó + Doanh nghiệp thương mại: Phân công lao động xã hội và chế sở hữu về tư liễu đã làm nảy sinh ra nền sản xuất hàng hoá. Quá trình tái sản xuất bao gồm: sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Tiền tệ ra đời đã làm cho quá trình trao đổi sản phẩm mang hình thái mới là lưu thông hàng hoá với hai thái cực đối lập là mua và bán. Thực hiện hai thái cưc này dần dần trở thành các chức năng hoạt động của một loại người (chuyên môn hoá) đó là thương nhân. Như vậy, thương mại trở thành lĩnh vực kinh doanh. Quy luật chi phối hoạt động mua bán nàylà mua rẻ, bán đắt. Dùng tiền của mua hàng hoá sau đó đem bán lại cũng có khả năng thu lợi nhuận. Thương nhân và sản xuất có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và tuân theo quy luật nhất định. Mối quan hệ này thể hiện thông qua hoạt động của các doanh nghiệp thương mại trong nền kinh tế hàng hoá. Như vậy, doanh nghiệp thương mại là một đơn vị kinh doanh được thành lập với mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá, đáp ứng nhu cầu của thị trường nhằm thu lợi nhuận. + Chức năng của các doanh nghiệp thương mại: Là những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực phân phối, lưu thông hàng hoá, doanh nghiệp thương mại thực hiện các chức năng cơ bản sau: Thứ nhất là chức năng lưu chuyển hàng hoá trong nền kinh tế nhằm thoả mãn mọi nhu cầu xã hội. Đây là chức năng xã hội của doanh nghiệp thương mại. Với chức năng này, các doanh nghiệp thương mại phải nghiên cứu và nắm vững nhu cầu thị trường, huy động và sử dụng hợp lý các nguồn hàng trong nền kinh tế quốc dân, tổ chức các mối quan hệ giao dịch thương mại, bảo đảm phân phối hợp lý hàng hoá vào các kênh tiêu thụ. Thứ hai là chức năng tiếp tục quá trình sản xuất trong lưu thông. Chức năng này thể hiện việc các doanh nghiệp thương mại thực hiện các nhiệm vụ phân loại, lên nhãn hiệu, ghép đồng bộ sản phẩm, bảo quản và vận chuyển hàng hoá... Thực hiện chức năng này, hàng hoá qua các doanh nghiệp thương mại được duy trì và làm tăng thêm giá trị sử dụng, thoả mãn tốt được nhu cầu của khách hàng, nâng cao khả năng thâm nhập thị trường của hàng hoá kinh doanh. Thứ ba là chức năng tái hiện giá trị hàng hoá: Các doanh nghiệp thương mại chuyên mua bán hàng hoá, trước hết đó là tác động mua của doanh nghiệp. Mua không phải là mục đích hoạt động, mua để bán, có bán được thì mới mua. Khi mua hàng hoá, các doanh nghiệp thương mại đã làm chức năng tiêu thụ sản phẩm cho người sản xuất. Mục đích hoạt động của doanh nghiệp thương mại là nhằm thu được lợi nhuận. Muốn thu được lợi nhuận thì phải bán được hàng hoá. Giá bán phải cao hơn giá mua và cộng thêm chi phí. Nếu không bán được hàng hoá hoặc bán được hàng hoá hoặc bán với giá thấp hơn giá vốn thì doanh nghiệp sẽ bị thua lỗ và có nguy cơ bị phá sản. Do vậy, bán khó hơn mua. Khi bán hàng hoá, các doanh nghiệp thương mại đã làm chức năng bảo đảm vật tư cho sản xuất và hàng tiêu dùng cho dân cư. Thứ tư là chức năng tổ chức sản xuất. Doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá không phải chỉ tác động trong lưu thông. Qua hoạt động mua bán, các doanh nghiệp thương mại còn có ảnh hưởng to lớn tới quá trình sản xuất, thúc đẩy hoặc làm đình trệ sản xuất. Nó góp phần phân bố, tổ chức lãi xã hội hình thành những quan hệ kinh tế mới. Điều đó thể hiện ở ba mặt sau: + Doanh nghiệp thương mại là người đại diện cho các doanh nghiệp tiêu dùng để quan hệ với các doanh nghiệp sản xuất. ở đây, các doanh nghiệp thương mại phải am hiểu nhu cầu tiêu dùng để đặt hàng với người sản xuất, hướng dẫn sản xuất phù hợp với yêu cầu của thị trường, nắm chắc khách hàng mua và sở thích của họ. + Doanh nghiệp thương mại đại diện được cho người sản xuất để quan hệ với người tiêu dùng. Thực hiện chức năng này, các doanh nghiệp phải điều tra nghiên cứu thị trường để giúp người sản xuất chiếm lĩnh được thị trường, hướng dẫn các đơn vị tiêu dùng về sử dụng hợp lý, có hiệu quả hàng hoá, làm dịch vụ thương mại, quảng cáo giới thiệu sản phẩm cho các doanh nghiệp sản xuất. Nó phải giúp cho người sản xuất tiêu thụ được nhanh hàng hoá. + Doanh nghiệp thương mại là trung gian giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Các doanh nghiệp thương mại đảm bảo sự cân đối cung cầu hàng hoá ghép mối hợp lý và người tiêu dùng, tổ chức vận động hợp lý của sản phẩm hàng hoá trong nền kinh tế quốc dân. Nó là trung tâm thông tin về thương mại, thị trường. Quá trình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại góp phần phân bố lại xã hội trên phạm vi doanh nghiệp kinh doanh và bảo vệ môi trường. I.3.2. Các hình thức kinh doanh thương mại: a) Kinh doanh chuyên môn hoá: Doanh nghiệp chỉ kinh doanh một hoặc một nhóm hàng hoá nhất định. Chẳng hạn kinh doanh xăng dầu hoặc kinh doanh xi măng, kinh doanh lương thực... Loại hình kinh doanh này có ưu điểm: + Nắm chắc được thông tin về người mua, người bán, giá cả thị trường, tình hình hàng hoá và dịch vụ nên có khả năng làm chủ được thị trường vươn lên giành độc quyền kinh doanh. + Trình độ chuyên môn hoá ngày càng được nâng cao, có điều kiện để hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật. Đặc biệt là hệ thống các cơ sở vật chất chuyên dùng tạo ra lợi thế lớn trong cạnh tranh. + Có khả năng đào tạo được những cán bộ quản lý giỏi, các chuyên gia và nhân viên kinh doanh giỏi. Bên cạnh đó, loại hình kinh doanh này cũng có những nhược điểm nhất định: + Trong điều kiện cạnh tranh - xu thế tất yếu của nền kinh tế thị trường thì hệ số rủi ro cao. + Khi mặt hàng kinh doanh bị bất lợi thì chuyển hướng kinh doanh chậm. b) Kinh doanh tổng hợp Doanh nghiệp kinh doanh rất nhiều loại hàng hoá khác nhau, kinh doanh không lệ thuộc vào hàng hoá hay thị trường truyền thống, bất cứ hàng hoá nào có lợi thế kinh doanh. Đây là loại hình kinh doanh của nhiều hộ tiểu thương, cửa hàng bách hoá tổng hợp. * Loại hình kinh doanh này có ưu điểm: + Hạn chế được một số rủi ro trong kinh doanh do dễ chuyển hướng kinh doanh. + Vốn kinh doanh ít bị ứ đọng do mua nhanh, bán nhanh và đầu tư vốn cho nhiều ngành hàng có khả năng quay vòng nhanh. + Có thị trường rộng, luôn có thị trường mới và bước đầu cạnh tranh đã kích thích năng động sáng tạo và đòi hỏi sự hiểu biết nhiều của kinh doanh. * Nhược điểm của loại hình kinh doanh này là: + Khó trở thành độc quyền trên thị trường và ít có điều kiện tham gia với các liên minh độc quyền. + Với mỗi ngành hàng luôn là ngành kinh doanh nhỏ, không ổn định. Do vậy, không thể tìm kiếm lợi nhuận siêu ngạch. + Không bộc lộ được sở trường kinh doanh. Do không chuyên môn hoá nên khó đào tạo, bồi dưỡng được các chuyên gia ngành hàng. II/ Nội dung của đẩy mạnh kinh doanh ở doanh nghiệp thương mại II.1. Xây dựng chiến lược và kế hoạch kinh doanh ở doanh nghiệp thương mại a) Chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại Nhà kinh doanh với những đức tính cần thiết và sự am hiểu kỹ năng quản trị kinh doanh chưa thể đưa doanh nghiệp của mình để thành công nếu chưa đề ra được kinh doanh năng động. Chiến lược đó thể hiện nội dung hoạt động, mục tiêu và các giải pháp ứng xử của doanh nghiệp trên thị trường. Chiến lược ấy bao gồm một số nội dung chủ yếu sau đây: + Chiến lược quy mô kinh doanh và tích luỹ phát triển tài sản vô hình. Quy mô kinh doanh của doanh nghiệp phải được xác định hợp lý trên cơ sở dự đoán dung lượng thị trường, tiềm lực kinh doanh. Doanh nghiệp phải xác định được điểm hoà vốn để tối ưu hoá quy mô kinh doanh. Chiến lược về quy mô kinh doanh bao gồm lựa chọn quy mô sản xuất tối ưu để tránh bị tồn kho ứ đọng và chiến lưọc thích nghi sản phẩm. Thích nghi sản phẩm có một ý nghĩa quan trọng đối với việc tồn tại và phát triển doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần xây dựng chu trình chiến lược sản phẩm: sản phẩm hiện có, sản phẩm cải tiến, sản phẩm tương tự cho ý nghĩa kinh tế, sản phẩm mới. Mỗi doanh nghiệp đều có hai loại tài sản: + Tài sản hữu hình: Đó là những yếu tố vật chất có tính định lượng như tiền vốn, vật tư, máy móc thiết bị và lao động. + Tài sản vô hình: Đó là lòng tin của khách hàng đối với hãng cũng như đối với sản phẩm, là hình ảnh quen thuộc và nổi tiếng của nhãn hiệu, là các hiểu biết về luồng thông tin và khoa h
Tài liệu liên quan