Đề tài Một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của Công ty tinh dầu và các sản phẩm tự nhiên thuộc trung tâm khoa học tự nhiên và công nghệ quốc gia

Thương mại quốc tế đóng một vai trò quan trọng vào sự thành công của công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Đặc biệt là lĩnh vực hoạt động xuất khẩu từ lâu đã chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong sự tồn tại và phát triển kinh tế của mọi quốc gia. ở nước ta ngành tinh dầu là một ngành có lịch sử phát triển chưa lâu nhưng sản phẩm tinh dầu của Việt Nam trong những năm qua đã có mặt nhiều nơi trên khắp năm châu.

doc88 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1179 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của Công ty tinh dầu và các sản phẩm tự nhiên thuộc trung tâm khoa học tự nhiên và công nghệ quốc gia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Thương mại quốc tế đóng một vai trò quan trọng vào sự thành công của công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Đặc biệt là lĩnh vực hoạt động xuất khẩu từ lâu đã chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong sự tồn tại và phát triển kinh tế của mọi quốc gia. ở nước ta ngành tinh dầu là một ngành có lịch sử phát triển chưa lâu nhưng sản phẩm tinh dầu của Việt Nam trong những năm qua đã có mặt nhiều nơi trên khắp năm châu. Tinh dầu là một sản phẩm tự nhiên được chiết suất từ thực vật và được sử dụng rộng rãi trong kỹ nghệ chế biến thực phẩm, mỹ phẩm, dược phẩm..Trong đời sống không thể thiếu sự có mặt của tinh dầu, nhưng không nước nào có đủ tinh dầu cần thiết. Các nước nhiệt đới nói chung có lợi thế hơn các nước hàn đới và ôn đới không những ở chủng loại mà chất lượng tinh dầu cũng ưu việt hơn. Việt Nam là một nước có nhiều loại cây tinh dầu mọc hoang dã cùng với một số loại đã được trồng. Nguồn lợi từ sản xuất và xuất khẩu tinh dầu rất lớn và rất hiệu quả. Hiện nay đã có rất nhiều công ty trong và ngoài nước tham gia việc sản xuất và xuất khẩu tinh dầu làm cho thị trường này trở nên đa dạng, phong phú và sôi động. Công ty tinh dầu và các sản phẩm tự nhiên (viết tắt là ENTEROIL) là một Công ty có bề dày kinh nghiệm trong công tác thu mua xuất khẩu tinh dầu. Từ Trung tâm liên kết khoa học sản xuất tinh dầu và lương thực đến Công ty tinh dầu (1988) và hiện nay là Công ty tinh dầu và các sản phẩm tự nhiên (1997) Công ty đã trở thành đơn vị kinh doanh đầu tiên có hiệu quả ở Việt Nam. Tuy nhiên. trong điều kiện cơ chế thị trường hiện nay sự tranh mua tranh bán diễn ra cực kỳ phức tạp và lộn xộn, gây ra những đảo lộn hụt hẫng trong công tác thu mua và xuất khẩu tinh dầu. Do không hiểu biết về tính chất, thời vụ các loại tinh dầu về khả năng sản xuất tinh dầu tại các nước trên thế giới của một số Công ty trong nước khi tham gia xuất khẩu tinh dầu đã làm cho tình hình sản xuất tinh dầu ở nước ta trở nên hỗn loạn không có mục đích lâu dài và mất ổn định về phương hướng và chiến lược nuôi trồng các cây thảo mộc để chiết xuất tinh dầu. Công ty tinh dầu và các sản phẩm tự nhiên đã phải đổi mới các biện pháp tổ chức thu mua tinh dầu xuất khẩu đa dạng hoá các phương thức mua bán xuất khẩu để phát triển nguồn hàng ổn định xuất khẩu. Từ thực tiễn như vậy, trong phạm vi kiến thức được học tôi đã lựa chọn đề tài: “Một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của Công ty tinh dầu và các sản phẩm tự nhiên thuộc trung tâm khoa học tự nhiên và công nghệ quốc gia” cho chuyên đề thực tập. Một số phương pháp được sử dụng để nghiên cứu là phương pháp thống kê kinh tế, phương pháp thu thập số liệu, phương pháp phân tích hệ thống, phương pháp so sánh và sử dụng lý luận về kinh doanh xuất nhập khẩu. Mục đích của đề tài này là phân tích tình hình thực tế của Công ty giai đoạn 1995 - 1999 tìm hiểu thành công và những vấn đề tồn tại của Công ty từ đó đề xuất một số ý kiến nhằm đẩy mạnh xuất khẩu tinh dầu với lợi ích kinh tế cao nhất góp phần xây dựng nền kinh tế ngày càng vững mạnh. Bố cục của bài viết như sau: Chương I: Cơ sở lý luận chung về hoạt động xuất khẩu. Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu tinh dầu tại Công ty tinh dầu và các sản phẩm tự nhiên. Chương III: Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu của Công ty tinh dầu và các sản phẩm tự nhiên. Do thời gian có hạn và kiến thức còn nhiều hạn chế nên chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót rất mong được sự nhận xét góp ý của thầy cô và các bạn. chương I I-/ Thương mại quốc tế và vai trò của hoạt động kinh doanh xuất khẩu. 1-/ Tính tất yếu khách quan của thương mại quốc tế. Thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các nước thông qua mua bán. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của các quốc gia. Tiền đề xuất hiện trao đổi là phân công lao động xã hội. Với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật phạm vi chuyên môn hoá ngày một tăng. Số sản phẩm cùng dịch vụ để thoả mãn nhu cầu của con người ngày càng dồi dào. Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày càng tăng. Hay nói cách khác chuyên môn hoá gắn chặt với thương mại. Thương mại xuất hiện từ sự đa dạng về điều kiện tự nhiên của sản xuất các khu vực và các nước. Vì điều kiện sản xuất rất khác nhau giữa các nước nên mỗi nước dựa vào điều kiện thuận lợi của nước mình chuyên môn hoá sản xuất một mặt hàng cụ thể và xuất khẩu sản phẩm hàng hoá của mình để đổi lấy hàng nhập từ những nước khác. Theo lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam-Smith thì thương mại quốc tế giữa các nước với nhau phải dựa trên lợi thế tuyệt đối của từng nước làm cơ sở. Mỗi nước có lợi thế khác nhau nên sản xuất những sản phẩm khác nhau và đem trao đổi cho nhau thì các bên đều có lợi. Song như chúng ta đã biết phần lớn số lượng những mặt hàng đưa vào buôn bán không xuất phát từ điều kiện tự nhiên vốn có của sản xuất. Tại sao mỗi nước có trình độ thấp kém như nước ta lại có thể hy vọng buôn bán có lợi với các nước có nền công nghiệp phát triển như Đức, Nhật, Pháp,...? Nhà kinh tế học Anh David Ricardo đã trả lời câu hỏi này đầu tiên bằng lý thuyết về lợi thế so sánh. Lý thuyết này khẳng định nếu mỗi nước chuyên môn hoá sản phẩm mà nước đó có lợi thế tương đối (hay có hiệu quả sản xuất so sánh cao nhất) thì thương mại có lợi cho cả hai bên. Thậm chí nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với quốc gia khác trong sản xuất hầu hết các loại sản phẩm thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào thương mại quốc tế để tạo lợi ích cho mình. Khi tham gia vào thương mại quốc tế quốc gia có hiệu quả thấp trong sản xuất tất cả các loại hàng hoá sẽ chuyên môn hoá và xuất khẩu các loại hàng mà việc sản xuất chúng ít bất lợi nhất và nhập khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất chúng bất lợi lớn nhất. Để đơn giản David Ricardo đề cập đến hai nước và hai mặt hàng và tính mọi chi phí bằng số giờ lao động. Ví dụ: Lợi thế so sánh tuỳ thuộc vào chi phí so sánh. Bảng 1: Lao động cần thiết để sản xuất một đơn vị sản phẩm của David Ricardo Quốc gia Sản phẩm ở Mỹ ở Châu Âu - Một đơn vị lương thực 1 giờ lao động 3 giờ lao động - Một đơn vị quần áo 2 giờ lao động 4 giờ lao động Nhìn vào bảng trên ta thấy Mỹ có chi phí lao động thấp hơn cả về lương thực và quần áo. Năng suất lao động của Mỹ gấp từ 2 đến 3 lần Châu Âu (2 lần về quần áo, 3 lần về lương thực) thế nhưng cả hai bên Mỹ và Châu Âu đều có lợi khi buôn bán với nhau. Mỹ chi phí cho một đơn vị lương thực là 1 giờ lao động, cho 1 đơn vị quần áo là 2 giờ lao động. Châu Âu chi phí cho 1 đơn vị lương thực là 3 giờ lao động và cho 1 đơn vị quần áo là 4 giờ lao động. Ricardo đã chứng minh một cách chắc chắn rằng cả Mỹ và Châu Âu đều có lợi nếu Mỹ chuyên môn hoá về lương thực còn Châu Âu chuyên môn hoá về quần áo. Mỹ xuất khẩu lương thực để trả tiền nhập khẩu quần áo từ Châu Âu kết quả của mở rộng thương mại giữa hai khu vực là có lợi vì Mỹ mua quần áo qua đường thương mại rẻ hơn sản xuất trong nước Châu Âu được lợi qua việc chuyên môn hoá sản xuất quần áo và mua lương thực rẻ hơn qua đường thương mại rẻ hơn sản xuất trong nước. Từ đó ta thấy tiền lương thực tế sau khi có thương mại cao hơn trước khi có thương mại ở cả Mỹ và Châu Âu. Do chuyên môn hoá sản xuất và thương mại làm cho mức sản xuất mở rộng trên thế giới cả về lương thực và quần áo từ đó tạo cho mọi người có cuộc sống khá hơn. Sự khác nhau về sở thích và mức cầu cũng là một nguyên nhân khác để có thương mại quốc tế. Ngay cả trong trường hợp hiệu quả tuyệt đối trong hai nơi giống hệt nhau, buôn bán vẫn có thể diễn ra do sự khác nhau về sở thích. Quốc gia cũng như cá nhân không thể sống riêng rẽ mà vẫn đầy đủ được. Thương mại quốc tế có tính chất sống còn vì một lý do cơ bản là ngoại thương mở rộng khả năng sản xuất và tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với gianh giới của khả năng sản xuất tiêu dùng trong nước khi thực hiện chế độ tự cung, tự cấp, không buôn bán với các nước khác. Những lợi ích mà thương mại quốc tế đem lại đã làm cho thương mại và thị trường thế giới trở thành nguồn lực của nền kinh tế quốc dân, là nguồn tiết kiệm nước ngoài, là nhân tố kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học công nghệ. Thương mại quốc tế là cầu nối kinh tế của mỗi quốc gia với các nước trên thế giới, vừa là hậu cần cho sản xuất và đời sống của toàn xã hội. 2-/ Vai trò của hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Xuất khẩu hàng hoá là một hoạt động nằm trong lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá của quá trình tái sản xuất mở rộng nhằm mục đích liên kết sản xuất với tiêu dùng của nước này với nước khác. Hoạt động đó không chỉ diễn ra giữa các cá thể riêng biệt mà có sự tham gia của toàn bộ hệ thống kinh tế với sự điều hành của Nhà nước. Chính vì vậy, xuất khẩu có vai trò to lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Nền sản xuất xã hội một nước phát triển như thế nào phụ thuộc rất lớn vào lĩnh vực kinh doanh này. Đối với những nước mà trình độ phát triển kinh tế còn thấp như nước ta những nhân tố tiềm năng là: tài nguyên thiên nhiên và lao động. Còn những yếu tố thiết hụt là vốn, kỹ thuật, thị trường và khả năng quản lý. Chiến lược hướng về xuất khẩu về thực chất là giải pháp kết hợp chúng với tiềm năng trong nước về lao động và tài nguyên thiên nhiên để tạo ra sự tăng trưởng mạnh cho nền kinh tế góp phần rút ngắn khoảng cách chênh lệch với các nước giàu. a. Vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân. * Xuất khẩu tạo vốn cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá đất nước. Để thực hiện đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trước hết chúng ta cần phải nhập khẩu một lượng lớn máy móc trang thiết bị hiện đại từ bên ngoài nhằm trang bị cho nền sản xuất. Nguồn vốn cho nhập khẩu thường dựa chủ yếu vào các nguồn vay, viện trợ, đầu tư nước ngoài và xuất khẩu. Nguồn vốn vay rồi cũng phải trả, còn nguồn viện trợ và đầu tư nước ngoài thì có hạn hơn nữa nguồn này thường bị phụ thuộc vào nước ngoài. Vì vậy nguồn vốn quan trọng để nhập khẩu chính là xuất khẩu. Thực tế là, nước nào gia tăng được xuất khẩu thì nhập khẩu cũng tăng theo. Ngược lại nếu nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu làm thâm hụt cán cân thương mại quá lớn sẽ có thể ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế quốc dân. * Xuất khẩu đóng góp vào việc dịch chuyển cơ cấu kinh tế thúc đẩy sản xuất phát triển. Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ. Đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại. Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là tất yếu đối với nước ta. Ngày nay đa số các nước đều lấy nhu cầu thị trường thế giới làm cơ sở để tổ chức sản xuất. Điều đó tác động tích cực đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động này thể hiện ở các điểm: - Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi. Chẳng hạn, khi phát triển ngành dệt xuất khẩu sẽ tạo cơ hội đầy đủ cho phát triển ngành sản xuất nguyên liệu như bông hay thuốc nhuộm. - Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần cho sản xuất ổn định và phát triển. - Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước. * Xuất khẩu có vai trò kích thích đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động hướng ra thị trường thế giới, một thị trường ngày càng cạnh tranh quyết liệt. Sự tồn tại và phát triển của hàng hoá xuất khẩu phụ thuộc rất lớn vào chất lượng, giá cả, do đó phụ thuộc rất lớn vào kỹ thuật công nghệ sản xuất chúng. Điều này thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước luôn luôn tìm tòi sáng tạo để cải tiến nâng cao chất lượng công nghệ sản xuất. Mặt khác xuất khẩu trong nền kinh tế còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải đổi mới hoàn thiện công tác quản trị sản xuất và kinh doanh đòi hỏi nâng cao tay nghề người lao động. * Xuất khẩu có tác động tích cực với việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân. Thông qua hoạt động sản xuất hàng hoá xuất khẩu với nhiều công đoạn khác nhau thu hút một số lượng lớn lao động với thu nhập không thấp tăng giá trị ngày công lao động tăng thu nhập quốc dân nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động. * Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại. Đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò tăng cường sự hợp tác quốc tế với các nước, nâng cao địa vị và vai trò của quốc gia trên thương trường quốc tế. Xuất khẩu và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quĩ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế. Ngược lại chính các quan hệ kinh tế đối ngoại mà chúng ta vừa kể trên lại tạo tiền đề cho mở rộng xuất khẩu. Đối với nước ta, hướng mạnh về xuất khẩu là một trong những mục tiêu quan trọng trong phát triển kinh tế đối ngoại qua đó tranh thủ đón bắt thời cơ ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại rút ngắn sự chênh lệch về trình độ phát triển của Việt Nam so với thế giới. b. Vai trò của xuất khẩu đối với doanh nghiệp. Ngày nay xu hướng vươn ra thị trường nước ngoài là một xu hướng chung của tất cả các quốc gia và các doanh nghiệp việc xuất khẩu các loại hàng hoá và dịch vụ ra nước ngoài đưa lại cho doanh nghiệp những lợi ích sau: Xuất khẩu tạo điều kiện cho doanh nghiệp có cơ hội mở rộng thị trường, mở rộng quan hệ kinh doanh với các bạn hàng trong nước và nước ngoài trên cơ sở hai bên cùng có lợi, tăng doanh số và lợi nhuận đồng thời phân tán và chia sẻ rủi ro, mất mát trong hoạt động kinh doanh tăng cường uy tín kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường. Thông qua hoạt động xuất khẩu các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Qua đó có điều kiện giữ gìn nâng cấp và phát triển trình độ kỹ thuật công nghệ phát triển hệ thống các kênh phân phối sản phẩm. Xuất khẩu đảm bảo cho doanh nghiệp luôn nâng cao việc sử dụng các kỹ năng quản lý chuyên môn chẳng hạn như kỹ năng quản lý hoạt động xuất khẩu, bán hàng trên thị trường quốc tế quản lý và dự đoán những xu hướng biến động của tỉ giá hối đoái. Mặt khác, qua xuất khẩu doanh nghiệp có được nguồn ngoại tệ để nhập khẩu máy móc thiết bị, công nghệ, kỹ thuật để tái đầu tư vào quá trình sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều lao động vào làm việc, tạo ra thu nhập ổn định cho cán bộ công nhân viên tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu vật liệu tiêu dùng vừa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng ngày càng phong phú của nhân dân vừa tăng khả năng quay vòng vốn nhanh, tạo điều kiện thu lợi nhuận cao. 3-/ Một số hình thức xuất khẩu chủ yếu. a. Theo hình thức quản lý của Nhà nước, phân thành: * Xuất khẩu mậu dịch: hàng hoá xuất khẩu mậu dịch là hàng hoá Nhà nước trực tiếp quản lý theo kế hoạch, định hướng phát triển nền kinh tế quốc dân. * Xuất khẩu phi mậu dịch: hàng hoá xuất khẩu phi mậu dịch là những hàng hoá Nhà nước không quản lý trực tiếp, không nằm trong kế hoạch định hướng của Nhà nước. b. Theo khối lượng hàng hoá xuất khẩu, phân thành: * Xuất khẩu chính ngạch: Đây là phương thức xuất khẩu theo thông lệ quốc tế. Thông thường hình thức này được áp dụng với những đơn vị kinh doanh mang tính chất lớn, có thị trường ổn định. * Xuất khẩu tiểu ngạch: Đây là hình thức xuất khẩu mà hàng hoá khi xuất khẩu phải có tờ khai xuất khẩu tiểu ngạch và biên lai nộp thuế xuất khẩu tiểu ngạch. c. Theo mức độ quản lý của Nhà nước, phân thành: * Xuất khẩu có hạn ngạch (Quota): là hình thức xuất khẩu phải do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt căn cứ vào đề nghị của Bộ Thương mại và Uỷ ban kế hoạch Nhà nước. * Xuất khẩu tự do: là hình thức xuất khẩu mà hàng hoá xuất khẩu không thuộc diện mặt hàng được Nhà nước quản lý bằng hạn ngạch. d. Theo nguồn gốc và hình thức giao hàng, phân thành: * Xuất khẩu trực tiếp: là hình thức đơn vị ngoại thương đã đặt mua sản phẩm của các đơn vị sản xuất trong nước (mua đứt). Sau đó xuất khẩu những sản phẩm này ra nước ngoài với danh nghĩa là hàng của đơn vị mình. Các bước tiến hành: + Ký kết hợp đồng nội, mua hàng, trả tiền hàng cho các đơn vị sản xuất trong nước. + Ký kết hợp đồng ngoại, giao hàng và thanh toán tiền hàng với bên nước ngoài. * Xuất khẩu uỷ thác: trong hình thức này đơn vị ngoại thương đóng vai trò là trung gian xuất khẩu, làm thay cho đơn vị sản xuất (bên có hàng) làm thủ tục cần thiết để xuất hàng và hưởng phần trăm phí uỷ thác theo giá trị hàng xuất khẩu. Các bước tiến hành: + Ký kết hợp đồng uỷ thác xuất khẩu cho đơn vị sản xuất trong nước. + Ký kết hợp đồng với bên nước ngoài, giao hàng và thanh toán tiền. + Nhận phí uỷ thác từ đơn vị sản xuất trong nước. Ưu điểm của hình thức này là mức độ rủi ro thấp, trách nhiệm ít, người đứng ra xuất khẩu không phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng. Đặc biệt, người này không cần huy động vốn để mua hàng, tuy hưởng phí ít nhưng nhận tiền nhanh, cần ít thủ tục và ít phải chịu rủi ro. * Xuất khẩu gia công uỷ thác: Trong hình thức này, đơn vị ngoại thương đứng ra nhập nguyên vật liệu hay bán thành phẩm về cho công ty gia công sau đó thu hồi thành phẩm xuất lại cho bên nước ngoài, phần trăm uỷ thác và gia công phí được thoả thuận trước giữa hai bên và trả cho đơn vị ngoại thương. Các bước tiến hành: + Ký kết hợp đồng gia công uỷ thác với các đơn vị trong nước. + Ký hợp đồng gia công với nước ngoài và nhập nguyên liệu. + Giao nguyên liệu gia công (định mức kỹ thuật đã được thoả thuận gián tiếp giữa đơn vị sản xuất trong nước với bên nước ngoài và đơn vị hưởng phí gia công uỷ thác). Ưu điểm của hình thức này là không cần bỏ vốn kinh doanh nhưng hiệu quả kinh tế tương đối cao, rủi ro ít, thanh toán khá đảm bảo vì đầu ra chắc chắn. Tuy nhiên hình thức này đòi hỏi làm nhiều thủ tục về nhập và xuất, các cán bộ kinh doanh phải có nhiều kinh nghiệm. * Bán buôn đối lưu (hàng đổi hàng): là hình thức giao dịch mà trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng trao đổi có giá trị tương đương. ở đây mục đích xuất khẩu không phải nhằm thu một khoản ngoại tệ mà nhằm thu một lượng hàng hoá có giá trị xấp xỉ lô hàng đã xuất. Nội dung của một số nghiệp vụ buôn bán đối lưu: + Trong nghiệp vụ hàng đổi hàng: hai bên trao đổi trực tiếp với nhau những hàng hoá dịch vụ có giá trị tương đương, việc giao hàng diễn ra hầu như đồng thời và không dùng tiền làm trung gian mua bán. + Trong nghiệp vụ bù trừ: hai bên trao đổi hàng hoá với nhau trên cơ sở ghi giá trị hàng giao, đến cuối kỳ hạn hai bên mở so sổ đối chiếu giá trị hàng giao với giá trị hàng nhận. Sau khi bù trừ tiền hàng mà có số dư thì tiền đó được giữ lại để chi trả theo yêu cầu của bên chủ nợ. + Trong nghiệp vụ mua đối lưu thường một bên giao thiết bị cho bên kia rồi mua lại thành phẩm hoặc bán thành phẩm. + Trong nghiệp vụ chuyển giao nghĩa vụ bên nhận hàng chuyển khoản nợ về tiền hàng cho một bên thứ ba. + Trong giao dịch bồi hoàn: người ta đổi hàng hoá hoặc dịch vụ lấy những dịch vụ hoặc ưu huệ. * Xuất khẩu theo Nghị định thư Đây là hình thức xuất khẩu hàng hoá (thường là hàng trả nợ) được ký theo Nghị định thư giữa hai Chính phủ. Xuất theo hình thức này có nhiều ưu đãi như khả năng thanh toán chắc chắn (do Nhà nước trả cho đơn vị xuất khẩu), giá cả nhìn chung dễ chấp nhận. Tóm lại, với các hình thức xuất khẩu trên việc áp dụng hình thức nào còn phụ thuộc vào bản thân doanh nghiệp và phải đáp ứng được yêu cầu của cả hai bên sản xuất, gia công trong nước cũng như bên nước ngoài. II-/ Nội dung hoạt động kinh doanh xuất khẩu. 1-/ Nghiên cứu thị trường. Vấn đề nghiên cứu thị trường là một việc làm cần thiết đầu tiên đối với bất cứ công ty nào muốn tham gia vào thị trường thế giới. Nghiên cứu thị trường theo nghĩa rộng là quá trình điều tra để tìm triển vọng bán hàng cho một sản phẩm cụ thể hay một nhóm sản phẩm kể cả phương pháp thực hiện mục tiêu đó. Quá trình nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin, số liệu về thị trường, so sánh, phân tích những số liệu đó và rút ra kết luận. Những kết luận này giúp cho quả
Tài liệu liên quan