Đề tài Một số biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh nhập khẩu ở công ty xuất nhập khẩu hàng không AIRIMEX

Hiện nay, Việt Nam trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập chung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong iều kiện đó nhiều loại hình doanh nghiệp , nhiều loại hình kinh tế cùng tồn tại, cùng tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh. Để tồn tại trong cơ chế mới với sự cạnh tranh khốc liệt, đòi hỏi hoạt động kinh doanh nói chung, kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng của mỗi doanh nghiệp phải đạt được hiệu quả cao.

doc99 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1415 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh nhập khẩu ở công ty xuất nhập khẩu hàng không AIRIMEX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Hđ iện nay, Việt Nam trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập chung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong iều kiện đó nhiều loại hình doanh nghiệp , nhiều loại hình kinh tế cùng tồn tại, cùng tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh. Để tồn tại trong cơ chế mới với sự cạnh tranh khốc liệt, đòi hỏi hoạt động kinh doanh nói chung, kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng của mỗi doanh nghiệp phải đạt được hiệu quả cao. Hiệu quả là mục tiêu phấn đấu cuối cùng của mỗi đơn vị kinh doanh. Điều đó hoàn toàn chính đáng và là lý do cơ bản để các doanh nghiệp cùng tồn tại và phát triển trên thị trường. Bên cạnh những thành công, tiến bộ của một số doanh nghiệp có không ít những doanh nghiệp hiệu quả kinh doanh thấp dẫn đến nguy cơ sa sút, không đứng nổi trong cơ chế thị trường, phải sát nhập, phá sản hoặc giải thể. Mặt khác tình trạng hoạt động kinh doanh nói chung gặp rất nhiều khó khăn lúng túng và bị động khi chuyển sang cơ chế mới, chưa tìm ra được các giải pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình. Ngoài ra khi chuyển sang cơ chế thị trường, việc xem xét đánh giá, phân tích hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp chưa được chú ý đúng mức, nhiều doanh nghiệp còn chưa đủ tiêu chuẩn để đánh giá, các giải pháp cho việc đẩy mạnh kinh doanh thiếu tính khả thi dẫn đến hiệu quả không cao. Về phương diện lý luận, vấn đề hiệu quả của hoạt động kinh doanh nói chung, kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng có rất nhiều quan điểm khác nhau. Vì vậy, việc nghiên cứu hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường hiện nay là rất cần thiết trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề hiệu quả trong việc đánh giá, phân tích kết quả hoạt động kinh doanh, với sự giúp đỡ tận tình của giáo viên hướng dẫn PTS Nguyễn thị Hường, các nhân viên trong công ty xuất nhập khẩu hàng không- AIRIMEX , tôi chọn đề tài:” Một số biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh nhập khẩu ở công ty xuất nhập khẩu hàng không AIRIMEX” làm luận văn tốt nghiệp. Việc nghiên cứu tập trung vào các vấn đề về hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty trong cơ chế mới. Mục đích của luận văn là nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về hiệu quả hoạt động kinh doanh của AIRIMEX. Qua đó rút ra kết luận và đưa ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh ở AIRIMEX. Đối tượng nghiên cứu: Công ty xuất nhập khẩu hàng không AIRIMEX. Kết cấu của luận văn được chia làm 3 chương: Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh nhập khẩu. Chương II: Phân tích thực trạng hiệu quả kinh tế của hoạt động nhập khẩu ở công ty xuất nhập khẩu hàng không AIRIMEX. Chương III: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế của hoạt động nhập khẩu ở công ty AIRIMEX. Chương I Những vấn đề lí luận cơ bản về hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh nhập khẩu 1.Sự cần thiết và các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh nhập khẩu Khái niệm và các đặc trưng cơ bản của hoạt động nhập khẩu Nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế. Nó không phải là những hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài. Nhập khẩu là việc mua hàng hóa của nước ngoài đưa vào một quốc gia nhất định nhằm phát triển sản xuất kinh doanh và đời sống trong nước.Nhưng hoạt động nhập khẩu ở đây có sự khác biệt so với buôn bán trong nước ở chỗ:Chủ thể thực hiện hành vi mua bán trong hoạt động nhập khẩu có quốc tịch khác nhau,và đối tượng mua bán cũng được di chuyển từ quốc gia này đến quốc gia khác. Thị trường nhập khẩu rộng lớn, phức tạp, khó kiểm soát,mua bán qua trung gian chiếm tỷ lệ lớn, đồng tên thanh toán là ngoại tệ mạnh,hàng hóa phải vận chuyển qua biên giới, cửa khẩu... Các quốc gia khác nhau phải tuân theo những tập quán ,thông lệ quốc tế cũng như các quy định ở địa phương nơi đưa hàng hóa đến. Nhập khẩu hàng hóa nằm trong khâu phân phối và lưu thông hàng hóa của quá trình tái sản xuất mở rộng nhằm mục đích nối liền sản xuất với tiêu dùng giữa các quốc gia với nhau. Nhờ có nhập khẩu khả năng lựa chọn của người tiêu dùng được tăng lên và có điều kiện để được hưởng mức giá thấp. Việc nhập khẩu tư liệu sản xuất không tạo ra lợi ích trực tiếp mà thông qua ảnh hưởng của nó đến nền sản xuất trong nước. Trên thực tế, việc nhập khẩu này tác động theo hai hướng: -Việc nhập khẩu sản phẩm công nghiệp dẫn đến sự tiết kiệm trong tiêu dùng cho sản xuất tức là tạo khả năng giảm chi phí sản xuất trong nước nhiều hơn nếu người tiêu dùng chỉ mua hàng hóa của người sản xuất trong nước. Hơn nữa việc nhập khẩu sản phẩm công nghiệp còn tạo điều kiện tận dụng được nguồn nguyên liệu trong nước. -Việc nhập khẩu hàng công nghiệp tạo khả năng sản xuất hàng hóa theo những nhu cầu riêng biệt mà điều kiện trong nước không cho phép. Đứng trên góc độ nền kinh tế quốc dân ,nhập khẩu làm thay đổi cơ cấu tiêu dùng theo hướng hợp lý nhất, tạo khả năng áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật và thay đổi cơ cấu thu nhập quốc dân.Nó cũng góp phần hình thành nên môi trường cạnh tranh trong nước và buộc các nhà sản xuất trong nước phải xác định cơ cấu sản xuất hợp lý và có hiệu quả nhất. 1.2 Khái niệm và bản chất của hiệu quả kinh tế trong doanh nghiệp. Trong cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước hiện nay, để thực hiện tốt chế độ hạch toán kinh tế, bảo đảm lấy thu bù chi và có lãi trong hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá và dịch vụ, là cơ sở để tồn tại và phát triển của mỗi thành phần kinh tế trong điều kiện cạnh tranh gay gắt giữa các thành phần tham gia vào hoạt động kinh tế thế giới nói chung và trong mỗi quốc gia nói riêng. Điều này đòi hỏi mỗi thành phần kinh tế phải hoạt động có hiệu quả. Đó là mối quan tâm hàng đầu của tất cả các thành phần kinh tế nói chung và của doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng. Hiệu quả là một phạm trù kinh tế, nó xuất hiện và tồn tại từ xã hội chiếm hữu nô lệ đến xã hội chủ nghĩa hiện nay. Hiệu quả kinh doanh thể hiện trình độ sử dụng các yếu tố cần thiết tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh theo một mục đích nhất định. Với những hình thái xã hội khác nhau với các quan hệ sản xuất khác nhau thì bản chất của phạm trù hiệu quả và các yếu tố hợp thành phạm trù này cũng vận động theo những khuynh hướng khác nhau. Trong xã hội tư bản thì gia cấp tư bản nắm quyền sở hữu về tư liệu sản xuất, do vậy mọi hiệu quả, quyền lợi thu được từ sản xuất kinh doanh, và các quyền lợi khác đều thuộc về các nhà tư bản, mọi hiệu quả, quyền lợi và phúc lợi dành cho người lao động đều là rất nhỏ so với nhà tư bản. Điều này có thể giải thích được việc phấn đấu để có hiệu quả trong kinh doanh của nhà tư bản để đem về nhiều lợi nhuận, quyền lợi cho nhà tư bản chứ không phải đem nhiều lợi ích về cho người lao động và toàn xã hội. Việc tăng chất lượng sản phẩm hàng hoá của nhà tư bản không phải là yếu tố phục vụ cho nhu cầu của toàn xã hội mà là mục đích thu hút được nhiều khách hàng hơn, từ đó có nhiều cơ hội thu hút lợi nhuận cho mình hơn thông qua việc bán được nhiều hàng hoá hơn. ở đây nhà tư bản không cần quan tâm đến các hiệu quả xã hội như việc làm cho người lao động, tình trạng môi trường... Trong XHCN, phạm trù hiệu quả vấn tồn tại nhưng nó được phát triển lên là hiệu quả của toàn xã hội. Nói về mục đích của nền sản xuất XHCN cũng khác so với mục đích của nền sản xuất TBCN. Mục đích của nền sản xuất XHCN là ngày càng đáp ứng đầy đủ, được tốt hơn nhu cầu ngày càng tăng của mọi thành viên trong xã hội. Một doanh nghiệp không thể đưa vào sử dụng một công nghệ mới với năng suất cao mà để hàng loạt công nhân trở nên thất nghiệp, một nhà máy không thể chỉ quan tâm kết quả sản xuất mà không quan tâm đến chất thải ô nhiễm môi trường... như vậy đó là một bước phát triển của phạm trù hiệu quả từ xã hội tư bản lên CNXH. Hiệu quả kinh tế có rất nhiều cách hiểu và có rất nhiều định nghĩa khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích kinh doanh của từng doanh nghiệp. Theo nghĩa rộng, hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh những lợi ích đạt được từ các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Cụ thể, hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố của quá trình kinh doanh ở doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất trong hoạt động kinh doanh với chi phí ít nhất. Quan điểm thứ nhất : Nhà kinh tế học người Anh Adam Smith cho rằng hiệu quả là kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế là doanh thu tiêu thụ hàng hoá. Nhà kinh tế học người Pháp Ogiephri cũng quan niệm như vậy, ở đây hiệu quả được đồng nhất với chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Rõ ràng quan điểm này khó giải thích kết quả sản xuất kinh doanh có thể dùng cho chi phí mở rộng sử dụng các nguồn sản xuất, nếu cùng một mức kết quả với hai mức chi phí khác nhau thì quan điểm này chúng có cùng hiệu quả. Quan điểm thứ hai : Hiệu quả kinh tế là quan hệ tỷ lệ giữa phần tăng thêm của kết quả và phần tăng thêm của chi phí. Quan điểm này đã biểu hiện được quan hệ so sánh tương đối giữa kết quả đạt được và chi phí tiêu hao. Sản xuất kinh doanh là một quá trình trong đó các yếu tố tăng thêm có sự liên hệ mật thiết với các yếu tố sẵn có. Chúng trực tiếp hoặc gián tiếp tác động làm kết quả sản xuất thay đổi. ở quan điểm này tính hiệu quả kinh doanh chỉ được xét tới phần kết quả bổ sung và chi phí bổ sung, như vậy là không phù hợp với tính biện chứng thống nhất của hiện tượng theo quan điểm triết học của Mác -Lênin "Sự vật và hiện tượng đều có mối quan hệ ràng buộc hữu cơ tác động qua lại lẫn nhau chứ không tồn tại một cách riêng rẽ ". Như vậy, quan điểm này cũng chưa hợp lý, kết quả sản xuất tăng thêm không chỉ do tăng thêm chi phí mà còn do việc mở rộng sử dụng các nguồn dự trữ. Quan điểm thứ ba: Hiệu quả kinh tế được đo bằng hiệu số giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Ưu điểm của quan điểm này là phản ánh được mối quan hệ bản chất của hiệu quả kinh tế. Nó đã gắn được hiệu quả với toàn bộ chi phí, coi hiệu quả kinh doanh là sự phản ảnh trình độ sử dụng các chi phí. Tuy nhiên, nó vẫn chưa biểu hiện được tương quan về lượng và chất giữa kết quả và chi phí, chưa phản ánh hết mức độ chặt chẽ của mối quan hệ này. Để phản ánh được tình hình sử dụng các nguồn nhân lực chúng ta phải cố định một trong hai yếu tố hoặc kết quả đạt được, hoặc chi phí bỏ ra, nhưng theo quan điểm của chủ nghĩa Mác -Lênin thì các yếu tố này không ở trạng thái tĩnh mà luôn luôn biến đổi, vận động. Động lực chủ yếu quyết định sự biến đổi và vận động nằm ngay trong lòng sự vật, hiện tượng. Vì vậy, khi xem xét hiệu quả của một quá trình hoạt động kinh tế nào đó, phải xem xét trong trạng thái động. Quan điểm 4: Do nhà kinh tế học Mác- Lênin cho rằng: Hiệu quả kinh tế là mức độ thoả mãn yêu cầu của qui luật kinh tế cơ bản XHCN cho rằng quĩ tiêu dùng với tính cách là chi tiêu đại diện cho mức sống của mọi người trong doanh nghiệp, là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh. Quan điểm này có ưu điểm là đã bám sát mục tiêu của nền sản xuất XHCN là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Song khó khăn ở đây là phương tiện đo lường thể hiện tư tưởng định hướng đó. Khái niệm quĩ tiêu dùng được đề cập ở đây là một bộ phận của thu nhập quốc dân, bộ phận còn lại là tích luỹ. Chọn quĩ tiêu dùng để phản ánh hiệu quả chưa thấy rõ đầy đủ vai trò của quĩ tích luỹ nhằm phát triển sản xuất để có quĩ tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai không thể đưa quĩ tiêu dùng lên tối đa mà laị không tuân theo một tỉ lệ thích hợp giữa quí tích luỹ và quĩ tiêu dùng, phải kết hợp một cách tốt nhất giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. Từ các quan điểm trên ta thấy rằng để xây dựng một khái niệm hoàn chỉnh và chính xác về hiệu quả kinh tế trước hết cần phải xem xét tới tính biện chứng của các yếu tố kết quả đạt được và các chi phí nguồn lực bỏ ra, sau đó là mức độ phản ánh mối liên hệ giữa các hiện tượng của quan niệm được xây dựng. Để làm sáng tỏ bản chất về hiệu quả của kinh tế hoàn chỉnh theo định hướng trên chúng ta phải xuất phát từ những luận điểm của triết học Mác - Lê nin. Bất kỳ một hoạt động nào của con người, cầu một tổ chức, của toàn xã hội nói chung đều đi đến một mục tiêu nhất định. Mọi hoạt động đều hướng tới mục tiêu nhưng không phải lúc nào cũng đạt được mà kết quả có thể là thấp hơn hoặc cao hơn, tuỳ thuộc vào các yếu tố chủ quan và khách quan tác động vào. Từ đó ta thấy rằng hiệu quả không phải tự nhiên mà có được, nó không phải là tồn tại khách quan ngoài ý muốn của con người mà nó phụ thuộc vào con người có chấp nhận nó là có ích hay không và họ sử dụng nó như thế nào. Hiệu quả luôn đi liền với mọi hoạt động của con người, hiệu quả phụ thuộc vào hoạt động của con người, hiệu quả không phải là kết quả cuối cùng.Để so sánh hiệu quả của các hoạt động với nhau phải so sánh các yếu tố đầu vào để tạo ra kết quả cuối cùng, từ đó có thể nhận xét, một cách chính xác hiệu quả hoạt động kinh doanh. Bản chất của hiệu quả kinh tế chính là hiệu quả của lao động xã hội, được xác định bằng cách so sánh giữa chất lượng kết quả hữu ích cuối cùng thu được với lượng hao phí lao động xã hội. Do vậy thước đo hiệu quả là sự tiết kiệm hao phí lao động xã hội ( lao động sống và lao động vật hoá ) và tiêu chuẩn của hiệu quả là việc tối đa hóa kết quả và tối thiểu hoá chi phí dựa trên những điều kiện sẵn có. 1.3 Phân loại hiệu quả kinh tế. Có nhiều cách phân loại hiệu quả khác nhau tùy vào từng chỉ tiêu khác nhau: Hiệu quả kinh tế tuyệt đối và hiệu quả kinh tế tương đối. Hiệu quả kinh tế tổng hợp và hiệu quả kinh tế bộ phận. Hiệu quả kinh tế doanh nghiệp và hiệu quả kinh tế ngành. Hiệu quả kinh tế của một vùng và hiệu quả kinh tế của nền kinh tế quốc dân. Hiệu quả kinh tế tài chính và hiệu quả kinh tế xã hội . Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này ta chỉ quan tâm đến cách phân loại cuối cùng:Hiệu quả có thể được chia thành hiệu quả tài chính và hiệu quả xã hội . Hiệu quả về mặt tài chính là những lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp đạt được sau khi đã bù đắp các khoản hao phí lao động xã hội. Hiệu quả về mặt xã hội là những lợi ích mà doanh nghiệp tạo ra, đem lại cho xã hội, bản thân doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh của mình. Tất cả mọi thành phần kinh tế khi tham gia vào nền sản xuất đều phải quan tâm đến cả hai tiêu thức trên, tuỳ thuộc vào vào từng thành phần kinh tế mà tỷ trọng hai tiêu thức này khác nhau. Với các doanh nghiệp tư nhân, các công ty TNHH, các công ty nước ngoài thì tiêu thức hiệu quả kinh tế được quan tâm hơn so với tiêu thức hiệu quả xã hội. Với các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp có sự chỉ đạo góp vốn liên doanh của nhà nứơc thì tiêu thức hiệu quả xã hội được đề cao hơn. Điều này phù hợp với các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là không ngừng ngày càng nâng cao nhu cầu vật chất, tinh thần của toàn xã hội, không có sự mất bình đẳng, phân biệt giữa các thành phần kinh tế, giữa nội bộ nhân dân trong toàn xã hội. Hiệu quả kinh tế được xác định thông qua việc so sánh giữa các chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Có thể diễn đạt khái niệm hiệu quả kinh tế như sau : Biểu hiện bằng số tương đối. Hiệu quả kinh tế : K H = F Trong đó : H là hiệu quả kinh tế K là kết quả của hoạt động kinh doanh F là chi phí cần thiết để thực hiện hoạt động kinh doanh Đối với hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu : K là tổng doanh thu bán hàng hoá, là tổng lợi nhuận, là tổng giá trị gia tăng sau một thương vụ xuất nhập khẩu hoặc một khoảng thời gian nhất định như tháng, quí, năm. F là toàn bộ chi phí có được hàng hoá bán cho người mua. Bao gồm : Giá mua vào sản phẩm + chi phí cần thiết khác như chi phí hoàn thiện chế biến sản phẩm, chi phí hành chính khác,... Biểu hiện bằng số tuyệt đối H=K-F Qua hai cách trên ta có thể tính toán được hiệu quả kinh tế. Đối với hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu do đặc điểm của tiền tệ thanh toán là đồng tiền mạnh, chứ không phải là đồng tiền bản tệ do đó để tính đúng được hiệu quả kinh tế ta cần phải qui đổi về cùng một đơn vị tiền tệ, lấy tỷ giá hối đoái tại thời điểm thực hiện hợp đồng và tỷ giá hối đoái khi tính hiệu quả, nếu có chênh lệch phải cộng hoặc trừ vào kết quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của doanh nghiệp. Một khó khăn cho việc xác định kết quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng là để tạo ra được một kết quả chúng ta phải cần nhiều chi phí, có những chi phí có thể xác định được nhưng cũng có những chi phí không thể xác định được (chi phí vô hình ) như bằng phát minh sáng chế, uy tín kinh doanh của công ty ... Điều này chứng tỏ việc xác định chi phí chưa hẳn lúc nào cũng chính xác. Mặt khác một số chi phí bỏ ra không phải chỉ tạo ra một kết quả mà có khi có nhiều kết quả khác nhau. Tuy nhiên, nếu sử dụng thống nhất đơn vị tính thì kết quả vẫn cho biết tình hình khái quát hoạt động của công ty trong thừi gian tới. Tính toán , xác định hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu là biện pháp so sánh giữa chi phí và kết quả. Chi phí và kết quả có quan hệ biện chứng lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau đây là mối quan hệ "nhân quả ". Muốn có kết quả thì phải có chi phí, nếu không có nhân tố khách quan tác động thì sẽ thu được một kết quả có thể tính toán được đó là hiệu quả tài chính. Để hiệu quả kinh tế là một số dương, chi phí bỏ ra phải nhỏ hơn kết quả thu được. Trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu là một hình thức kinh doanh quốc tế, phạm vi buôn bán vược ra khỏi biên giới quốc gia do đó nó chứa đựng rất nhiều rủi ro, do đó để đạt được hiệu quả kinh tế trong xuất nhập khẩu là rất khó khăn... Đối với các doanh nghiệp nhà nước, nói đến hiệu quả hoạt động kinh doanh là phải nói đến hiệu quả tài chính và hiệu quả xã hội. Dựa vào những mục tiêu, những chiến lược của nghành đó, của đất nước trong thời kỳ đó, mặc dù có ít, không có hoặc thua thiệt về hiệu quả kinh tế nhưng bù lại là hiệu quả xã hội đạt được thì vẫn được coi là có hiệu quả trong hoạt động kinh doanh. Như vậy, hiệu quả hoạt động kinh doanh nói chung và hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng được xem xét trên tổng thể hai mặt kinh tế và xã hội và được tính theo công thức: Hq = Hkt + Hxh Trong đó : Hq:là hiệu quả hoạt động kinh doanh Hkt:là hiệu quả kinh tế Hxh:là hiệu quả xã hội Đây chính là công thức cuối cùng để xác định được, so sánh được hiệu quả giữa các doanh nghiệp kinh doanh và giữa các thời kỳ khác nhau. Nó phản ánh lợi ích cuối cùng đem lại, phục vụ cho toàn xã hội. Việc xác định hiệu quả kinh tế một cách chính xác đòi hỏi tốn nhiều công sức thống kê kết quả của toàn bộ nền kinh tế liên quan đến hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Thông thường người ta có thể tính toán được hiệu quả xã hội trong nội bộ doanh nghiệp, hiệu quả kinh doanh của hoạt động xuất nhập khẩu được đánh giá thông qua việc thực hiện các chủ trương chính sách của nhà nước trong thời kỳ nhất định. Kết quả của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu được xác định bằng các chỉ tiêu thể hiện mục tiêu kinh doanh cần đạt được như doanh số bán ra, lợi nhuận thu về ... Các chỉ tiêu chi phí được xác định bằng các chỉ tiêu khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích, yêu cầu của đối tượng phân tích bao gồm chỉ tiêu tổng hợp và các chỉ tiêu đặc thù. Để đánh giá được hiệu quả kinh doanh nhập khẩu cần phải xem xét một cách toàn diện cả về thời gian và không gian trong mối quan hệ với hiệu quả chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nhất là trong giai đoạn hiện nay với đường lối chính sách mở cửa của nước ta, tạo đà cho nền công nghiệp hoá, hiện đại hoá xây dựng đất nước, hoạt động nhập khẩu thực sự là vấn đề cần thiết, đáng quan tâm vì đây là điều kiện cần, điều kiện số một, để thực hiện nhiệm vụ, chủ trương xây dựng đất nước mà Đảng đã đề ra. Về mặt thời gian, hiệu quả mà doanh nghiệp đạt được trong từng giai đoạn, từng thời kì không được làm giảm sút hiệu quả của các giai đoạn, các thời kì, các kì kinh doanh tiếp t
Tài liệu liên quan