Đề tài Một số biện pháp nhằm hoàn thiện công tác giao dịch và hợp đồng xuất nhập khẩu tại công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật - Bộ Thương mại ( Technoimport )

Với chính sách đổi mới của nền kinh tế, nước ta đã và đang nhanh chóng hội nhập vào xu hướng chung này, tích cực tham gia vào các tổ chức kinh tế trong khu vực và thế giới: AFTA, WTO, APEC.với quan điểm này chúng ta coi trọng vai trò của Thương mại Quốc tế, coi đây là chiếc cầu nối liền giữa nền kinh tế nước ta với nền kinh tế thế giới, là chiếc đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sản xuất trong nước, thu hút đầu tư, công nghệ hiện đại cho nền kinh tế, là phương tiện để thúc đẩy sự phân công lao động quốc tế.

doc94 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1340 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp nhằm hoàn thiện công tác giao dịch và hợp đồng xuất nhập khẩu tại công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật - Bộ Thương mại ( Technoimport ), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời mở đầu Thương mại quốc tế là một bộ phận hữu cơ của nền kinh tế thị trường. Trong thế giới hiện đại, trước xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế thế giới, mọi quốc gia, mọi khu vực không thể đứng ngoài xu thế này. Với chính sách đổi mới của nền kinh tế, nước ta đã và đang nhanh chóng hội nhập vào xu hướng chung này, tích cực tham gia vào các tổ chức kinh tế trong khu vực và thế giới: AFTA, WTO, APEC....với quan điểm này chúng ta coi trọng vai trò của Thương mại Quốc tế, coi đây là chiếc cầu nối liền giữa nền kinh tế nước ta với nền kinh tế thế giới, là chiếc đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sản xuất trong nước, thu hút đầu tư, công nghệ hiện đại cho nền kinh tế, là phương tiện để thúc đẩy sự phân công lao động quốc tế. Để nâng cao hiệu quả kinh doanh Thương mại Quốc tế cho xứng đáng với vị thế và vai trò của nó, bên cạnh các chính sách, biện pháp của nhà nước thì một biện pháp có tính then chốt là các doanh nghiệp kinh doanh thương mại quốc tế phải tích cực hoàn thiện hoạt động kinh doanh của mình, nâng cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu. Kinh doanh xuất nhập khẩu là một hoạt động bao gồm nhiều hoạt động nghiệp vụ. Muốn nâng cao hiệu quả kinh doanh thì mỗi hoạt động nghiệp vụ cũng cần luôn được đổi mới và hoàn thiện. Qua quá trình nghiên cứu lý luận và thực tập thực tế tại công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật ( Technoimport ) để góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp cũng như trang bị cho mình những kiến thức thực tế cơ bản về nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu, em mạnh dạn đi vào nghiên cứu đề tài : Một số biện pháp nhằm hoàn thiện công tác giao dịch và hợp đồng xuất nhập khẩu tại công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật - Bộ Thương mại ( Technoimport ). Em xin chân thành cảm ơn giáo viên trực tiếp hướng dẫn em hoàn thiện chuyên đề này. Đặc biệt em xin cảm ơn sự giúp đỡ,chỉ bảo nhiệt tình của các bác, các cô, các chú phòng xuất nhập khẩu công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật -nơi em thực tập tốt nghiệp. Đề tài gồm 3 phần: Chương I : Lý luận chung về công tác giao dịch và hợp đồng kinh tế ở các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Chương II : Thực trạng công tác giao dịch và hợp đồng xuất nhập khẩu tại công ty Technoimport. Chương III: Một số biện pháp nhằm hoàn thiện công tác giao dịch và hợp đồng tại công ty Technoimport. Chương I: Lý Luận Chung Về Công Tác Giao DịchVà Hợp Đồng Kinh Tế ở Các Doanh Nghiệp Xuất Nhập Khẩu I ) Thương Mại Quốc Tế và vai trò của nó đối với sự phát triển của các quốc gia: Thương Mại Quốc Tế là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các nước thông qua mua bán. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội. Và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt ở môĩ quốc gia. Nguồn gốc và lợi ích Thương Mại Quốc Tế : Thương Mại Quốc Tế ra đời một cách khách quan, nó là kết quả tất yếu của sự phân công lao động xã hội, sự chuyên môn hoá và sự khác biệt về tự nhiên, địa lí, sở thích…giữa các quốc gia trên thế giới. Tiên đề xuất hiện sự trao đổi đó là phân công lao động xã hội. Với tiến bộ khoa học kỹ thuật, phạm vi chuyên môn hoá ngày càng tăng, số sản phẩm và dịch vụ để thoả mãn nhu cầu con người ngày một dồi dào, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày một tăng. Trước hết, Thương Mại Quốc Tế xuất hiện từ sự đa dạng và điều kiện tự nhiên để sản xuất giữa các nước, từ đó việc chuyên môn hoá sản xuất một số mặt hàng có lợi thế và nhập khẩu các mặt hàng khác từ nước ngoài mà sản xuất trong kém lợi thế hơn thì chắc chắn sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Sự khác nhau về điều kiện sản xuất mới chỉ giải thích được sự hình thành Thương Mại Quốc Tế giữa các nước kinh doanh một số mặt hàng như: dầu lửa, lương thực, du lịch dịch vụ…Nhưng trong thực tế Thương Mại Quốc Tế diễn ra chỉ có vậy. Nước Mỹ sản xuất được ôtô vẫn nhập khẩu ôtô từ Nhật Bản? Nước ta với xuất phát điểm thấp, chi phí sản xuất hầu như lớn hơn tất cả các mặt hàng của các cường quốc kinh doanh lại vẫn có thể tham gia vào Thương Mại Quốc Tế với chính các nước đó? Câu trả lời chỉ có thể giải thích được bằng lợi thế so sánh hay lợi thế tương đối của David Ricardo. Lý thuyết về lợi thế tương đối được nhà kinh tế học người Anh David Ricardo (1772-1823) đem ra và chứng minh: Lý thuyết này được xây dựng trên một loạt các giả thiết đã được đơn giản hoá: Chỉ xét riêng hai nước sản xuất hàng hoá; nhân tố sản xuất duy nhất là lao động; lao động chuyển tự do trong từng nước, không thể di chuyển giữa các nước; chi phí sản xuất không đổi; công nghệ sản xuất và thương mại hoàn toàn tự do. Quy luật lợi thế tương đối nhấn mạnh vào sự khác nhau về chi phí sản xuất coi đó là chìa khóa của phương thức thương mại, lý thuyết này khẳng định nếu một nước chuyên môn hoá vào sản xuất các sản phẩm mà các nước đó có lợi thế so sánh thì Thương Mại Quốc Tế sẽ có lợi cho cả hai bên. Ngoài những cơ sở trên, còn rất nhiều lý do khác khiến Thương Mại Quốc Tế trở nên quan trọng trong thế giới hiện đại. Một trong những lý do đó có thể là Thương Mại Quốc Tế cần thiết cho việc thực hiện chuyên môn hoá để có hiệu quả cao trong nhiều ngành công nghiệp hiện đại. Chuyên môn háo quy mô lớn làm cho chi phí sản xuất giảm. Và hiệu quả kinh tế theo quy mô giúp các nước có thể sản xuất các mặt hàng với khối lượng lớn với chi phí thấp. Sự khác nhau về sở thích và mức cầu cũng là một nguyên nhân khác của Thương Mại Quốc Tế. Đặc trưng cơ bản nhất của nền sản xuất hàng hoá là sản phẩm được sản xuất ra để bán cho thị trường. Thị trường có chấp nhân hàng hoá dịch vụ hay không phụ thuộc vào mức độ của hàng hoá-dịch vụ với nhu cầu của khách hàng. Một sản phẩm sản xuất ra ở một nước có thể tiêu thụ chậm ở nước đó nhưng lại đặc biệt thích hợp với thị hiếu của thị trường nước ngoài. Bên cạnh đó bản quyền sở hữu trí tuệ( công nghiệp) cũng là một trong những nguyên nhân của Thương Mại Quốc Tế. Chúng ta đang sống trong thời đại mà cuộc cách mạng khoa học- kỹ thuật trên thế giới phát triển không ngừng. Khoa học kỹ thuật công nghệ can thiệp vào mọi ngóc ngách của đời sống xã hội, nó là một động lực thúc đẩy sự tiến bộ văn minh của xã hội loài người. Nhờ có nó mà những ước mơ mong muốn của con người tưởng như không tưởng đã biến thành sự thật. Để khuyến khích sự phát triển của khoa học kỹ thuật công nghệ mới, chính phủ các nước cho phép các nhà phát minh sáng chế được giữ bản quyền của mình, không cho phép bất kỳ đối tượng nào khác được quyền sử dụng nó vào sản xuất. Điều này có thể làm xuất hiện những quốc gia có khả năng sản xuất ra một loại hàng hoá nào đó có lợi thế so sánh thậm chí vẫn phải nhập khẩu hàng hoá từ nước đó. Ngoài ra còn có những nguyên nhân khác thuộc về tâm lý khách hàng và vai trò của chính phủ. Khách hàng có tâm lý mua hàng hoá từ nước ngoài- xuất hiện nhu cầu nhập khẩu. Chính phủ các nước có thể khuyến khích nhập khẩu hay xuất khẩu thông qua các chính sách thuế quan hay phi thuế quan. Chính phủ có thể tạo ra những đơn hàng lớn để khuyến khích xuất nhập khẩu. Các chính sách xuất nhập khẩu của nhà nước rất quan trọng, nó là cơ sở pháp lý và định hướng kinh doanh xuất nhập khẩu. Chức năng và nhiệm vụ của kinh doanh Thương Mại Quốc Tế: Chức năng của Thương Mại Quốc Tế: Ngoại thương là thực hiện lưu thông hàng hóa giữa các nước khác nhau; Là việc mua bán hàng hoá với nước ngoài bao gồm việc xuất nhập khẩu hàng hoá dịch vụ; Việc gia công cho nước ngoài hoặc thuê nướcngoài gia công, hoạt động xuất nhập khẩu tại chỗ. Như vậy xuất nhập khẩu là nội dung cơ bản cuả kinh doanh Thương Mại Quốc Tế. Nên kinh doanh xuất nhập khẩu cũng chính là thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của kinh doanh Thương Mại Quốc Tế. Thương mại quốc tế có những chức năng cơ bản sau đây: -Tạo vốn cho quá trình đầu tư trong nước. -Chuyển hoá giá trị sử dụng làm thay đổi cơ cấu vật chất tổng sảnư phẩm xã hội và thu nhập quốc dân được sản xuất trong nước. -Góp phần nâng cao hiệu quả của vốn kinh tế quốc dân bằng việc tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh trong nước. -Góp vốn nâng cao hiệu quả của nền kinh tế quốc dân bằng việc tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh. Nhiệm Vụ của Thương Mại Quốc Tế: - Là một ngành kinh tế đảm nhận khâu lưu thông hàng hoá giữa trong nước và nước ngoài nhằm thoả mãn nhu cầu đất nước. Do đó nhiệm vụ của Thương Mại Quốc Tế là: - Tổ chức quá trình lưu thông hàng hoá với nước ngoài thông qua mau bán làm chiếc cầu nối hữu cơ giữa nền sản xuất trong nước, thị trường trong nước với thị trường thế giới, thoả mãn nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng về hàng hoá theo số lượng, chất lượng, mặt hàng, địa điểm và thời gian phù hợp với chi phí thấp nhất. - Nhiệm vụ của Thương Mại Quốc Tế được xác định trên cơ sở các chức năng và phụ thuộc vào bôí cảnh quốc tế cũng như mục tiêu phát triển kinh tế xã hội do đảng và chính phủ đề ra. Trong giai đoạn hiện nay khi nền kinh tế Việt Nam đã có biến đổi sâu sắc xuất hiện nhiều nhân tố mới. Chúng ta đang trong giai đoạn qua độ chuyển từ nền sản xuất nhỏ, lạc hậu đi lên nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, còn trong chặng đầu của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức kinh doanh khác nhau. Quá trình toàn cầu hoá và quốc tế hoá đã và đang chi phối mạnh mẽ nền kinh tế thế giới trong đó có Việt Nam. Bên cạnh đó cuộc khủng hoảng tiền tệ trong khu vực Đông Nam á vừa qua cũng gây những ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt đông kinh tế nói chung và hoạt động buôn bán ngoại thương nói riêng trong khu vực trong đó có Việt Nam. Xuất phát tứ những cở sở đó hoạt động kinh doanh Thương Mại Quốc Tế hiện nay phải thực hiện những nhiệm vụ sau: -Nâng cao hiệu quả kinh doanh, thúc đẩy công nghiệp hoá hiện đại hóa đất nước. -Đảm bảo thống nhất giữa kinh tế và chính trị trong hoạt động ngoại thương. -Góp phần giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội quan trọng của đất nước:Vốn, việc làm, công nghệ sử dụng tài nguyên thiên nhiên của đất nước có hiệu quả. 3)Vai trò của kinh doanh xuất nhập khẩu: a) Vai trò của xuất nhập khẩu: - Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ quá trình CNH - HĐH đất nước. - Công nghiệp hóa theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu khắc phục nghèo nàn lạc hậu và chậm phát triển của nước ta hiện nay. Để công nghiệp hoá trong thời gian ngắn, chúng ta phải có một nguồn vốn đủ lớn để nhập khẩu thiết bị máy móc kỹ thuật tiên tiến. - Nguồn vốn để nhập khẩu có thể huy động từ nhiều nguồn: đầu tư trong nước và nước ngoài, viện trợ vay nợ của các tổ chức tài chính, tín dụng, từ hoạt động du lịch, xuất khẩu lao động…Trong đó xuất khẩu là một trong nguồn thu ngoại tệ cho đất nước quan trọng nhất, xuất khẩu là nguồn tiền đề tiến hành nhập khẩu, xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ nhập khẩu. - Xuất khẩu đóng vai trò chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy sản xuất phát triển. Xuất khẩu lấy thị trường thế giới làm thị trường của mình, vì vậy quá trình sản xuất phải xuất từ nhu cầu của thị trường thế giới. Những ngành sản xuất tạo ra sản phẩm phục vụ tốt cho thị trường các nước thì sẽ phát triển mạnh mẽ. Những ngành nào không thích ứng sẽ bị đào thải. Như vậy xuất khẩu có tác dụng chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Sự ảnh hưởng này có thể liệt kê như sau: +Xuất khẩu là điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi. +Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất , nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Đồng thời xuất khẩu tạo tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. +Thông qua xuất khẩu, hàng hóa nước ta tham gia cạnh tranh trên thị trường thế giới cả về giá cả và chất lượng, cuộc cạnh tranh này buộc chúng ta phải tổ chức lại sản xuất trong nước, hình thành cơ cấu thích nghi với thị trường thế giới. +Xuất khẩu tạo cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần làm cho sản xuất phát triển ổn định. -Bên cạnh tác động làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xuất khẩu còn có tác động tích cực tới việc giải quyết việc làm, cải thiện đời sống nhân dân. Xuất khẩu kích thích phát triển, thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài. Sản xuất hàng hoá để xuất khẩu có thể thu hút hàng triệu lao động tham gia vào các khâu của quá trình sản xuất, từ đó góp phần giải quyết vấn đề việc làm ở nước ta. Xuất khẩu còn cho nguồn vốn để nhập khẩu hàng hoá phục vụ đời sống nhân dân, nâng cao chất lượng sống. Người tiêu dùng trong nước có thể mua hàng hoá hợp với ý mình với gía cả phù hợp, chất lượng cao. -Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng thúc đẩy các mối kinh doanh đối ngoại. - Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại làm cho nền kinh tế nước ta gắn chặt với phân công lao động quốc tế. Thông thường hoạt động xuất nhập khẩu ra đời sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác nên nó thúc đẩy các mối quan hệ này phát triển. Chẳng hạn xuất khẩu sản xuất hàng hoá xuất khẩu làm thúc đẩy các quan hệ tín dụng, đầu tư và vận tải quốc tế. Đến lượt nó chính các quan hệ kinh tế đối ngoại thúc đẩy, tạo điều kiện và tiền đề cho mở rộng các hoạt động xuất khẩu. b)Vai trò của nhập khẩu: Nhập khẩu là hai hoạt động cơ bản của nghiệp vụ ngoại thương có thể nó là hoạt động mua bán hàng hoá dịch vụ từ nước ngoài phục vụ nhu cầu trong nước.Nhập khẩu thể hiện sự gắn bó lẫn nhau giữa nền kinh tế quốc dân với nền kinh tế thế giới. Nhập khẩu có một vai trò quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quỗc gia. Nhập khẩu làm tăng khả năng tiêu dùng của một quốc gia, cho phép tiêu dùng một khối lượng hàng hóa lớn hơn khả năng tiêu dùng trong nước, nâng cao đời sống của nhân dân, tạo điều kiện thúc đẩy quá trình xây dựng cơ sở vật chất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nhập khẩu bổ sung kịp thời những mất cân đối của nền kinh tế bảo đảm phát triển ổn định kinh tế của đất nước. Nhập khẩu góp phần cải thiện mức sống của nhân dân trước hết là nhu cầu về tiêu dùng, vừa đảm bảo đầu vào cho quá trình sản xuất, tạo việc làm ổn định. Nhập khẩu là chiếc cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng trong nước với thị trường thế giới đem lại cho đất nước những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước. Nếu thực hiện tốt công tác này sẽ đáp ứng tốt nhu cầu phát triển cuả sản xuất trong nước làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng sức cạnh tranh cho hàng hoá và đẩy mạnh xuất khẩu. Ngược lại nếu không làm tốt sẽ mất cân đối rối loạn thị trường đồng thời làm mất một số lượng ngoại tệ lớn mà không đem lại hiệu quả. Nhập khẩu xoá bỏ tình trạng độc quyền, phá vỡ nền kinh tế tự cung tự cấp, thúc đẩy sự đa dạng của các loại thị trường. Từ thị trường nguyên vật liệu sản xuất đến thị trường vốn, thị trường lao động trong nước tạo ra một thị trường thống nhất gắn bó với thị trường thế giới, tạo điều kiện thúc đẩy công nghiệp hoá -hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên để phát huy đầy đủ vai trò của nhập khẩu còn phụ thuộc vào đường lối và quan điểm về hoạt động nhập khẩu của mỗi quốc gia. 4)Các hình thức xuất nhập khẩu thông dụng: Hoạt động kinh doang xuất nhập khẩu hiện nay được tiến hành bởi các doanh nghiệp có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp. Có thể kể ra đây một vài hình thức xuất nhập khẩu thông dụng: a) Xuất nhập khẩu uỷ thác: Xuất nhập khẩu uỷ thác là hoạt động xuất nhập khẩu được hình thành giữa một doanh nghiệp trong nước có vốn ngoại tệ riêng, có nhu cầu xuất nhập khẩu một loại hàng hoá nhưng không có quyền tham gia vào xuất nhập khẩu trực tiếp đã uỷ thác cho một doanh nghiệp có chức năng xuất nhập khẩu trực tiếp giao dịch ngoại thương tiến hành xuất nhập những hàng hóa theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác phải tiến hành với nước ngoài để làm thủ tục xuất nhập khẩu hàng hoá theo yêu cầu của bên uỷ thác và được nhận một khoản thù lao gọi là phí uỷ thác. Đặc điểm: trong hoạt động xuất nhập khẩu này doanh nghiệp xuất nhập khẩu( uỷ thác) không phải bỏ vốn, không xin hạn ngạch( nếu có) không phải nghiên cứu thị trường tiêu thụ. Do không phải tiêu thụ hàng nhập mà chỉ đứng ra thay mặt bên uỷ thác tìm và giao dịch với nước ngoài, ký kết hợp đồng và làm thủ tục hải quan, thủ tục xuất nhập khẩu hàng hoá cũng như thay mặt bên uỷ thác tiến hành đòi bồi thường bên nước ngoài khi có tổn thất. Khi tiến hành xuất nhập khẩu uỷ thác thì doanh nghiệp xuất nhập khẩu chỉ tính kim ngạch xuất nhập khẩu chứ không tính vào doanh số; Không chịu thuế doanh thu(VAT). Khi xuất nhập khẩu uỷ thác thì doanh nghiệp phải lập 2 hợp đồng, bao gồm: +Một hợp đồng ngoại thương mua bán hàng hoá với nước ngoài. +Một hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu với bên uỷ thác. b)Xuất nhập khẩu tự doanh( trực tiếp): Hoạt động xuất nhập khẩu tự doanh chính là hoạt động xuất nhập khẩu độc lập của một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu trên cơ sở nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước, tính toán đầy đủ chi phí để đảm bảo kinh doanh xuất nhập khẩu có lãi đúng phương hướng, chính sách, luật pháp của quốc gia cũng như quốc tế. Đặc điểm: doanh nghiệp phải tiến hành hoạt động xuất nhập khẩu: tự chịu trách nhiệm về mọi mặt kinh doanh của mình liên quan đến quá trình xuất nhập khẩu. Đây là hoạt động mà doanh nghiệp phải xem xét kỹ càng; từ bước nghiên cứu thị trường đến việc ký kết hợp đồng- bởi vì doanh nghiệp phải tự bỏ vốn mình ra, chịu mọi chi phi giao dịch thị trường,giao nhận ở kho tới chi phí vận chuyển và giao nhận hàng hoá, chịu thuế VAT. Khi xuất nhập khẩu tự doanh thì doanh nghiệp phải tính kim ngạch xuất nhập khẩu và khi tiêu thụ hàng thì sẽ tính vào doanh số, do đó phải chịu thuế. Thông thường doanh nghiệp chỉ cần lập một hợp đồng mua bán hàng hoá với nước ngoài còn hợp đồng mua bán trong nước sẽ lập sau. c)Xuất nhập khẩu liên doanh: Xuất nhập khẩu liên doanh là hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên doanh liên kết một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp. Trong đó ít nhất một doanh nghiệp có chức năng xuất nhập khẩu trực tiếp, nhằm phối hợp khả năng để cùng nhau giao dịch và đề ra các biện pháp có liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động này phát triển theo hướng có lợi nhất cho tất cả các bên cùng chịu lỗ và hưởng lãi. Đặc điểm: So với xuất nhập khẩu tư doanh thì các doanh ngiệp xuất nhập khẩu chỉ phải đóng góp một phần nhất định, quyền hạn trách nhiệm của các bên tăng theo số vốn đóng góp, vì vậy độ rủi ro ít hơn. Việc phân chia chi phí, thuế doanh thu theo tỷ lệ các bên đóng góp lãi và lỗ do hai bên phân chia theo sự thoả thuận dựa trên số vốn góp và phần trách nhiệm mà mỗi bên đóng góp. Trong xuất nhập khẩu liên doanh, doanh nghiệp đứng ra xuất nhập khẩu hàng hoá sẽ được tính doanh số số hàng theo tỷ lệ vốn góp và phần chiụ thuế trên doanh thu đó. Doanh nghiệp xuất nhập khẩu liên doanh khi đứng ra xuất nhập khẩu hàng hoá phải lập hai hợp đồng: +Một hợp đồng ngoại thương buôn bán với người nước ngoài. +Một hợp đồng liên doanh với doanh nghiệp khác(không nhất thiết phải là một doanh nghiệp trong nước). d)Xuất nhập khẩu theo phương thức chuyển khẩu: Kinh doanh theo phương thức chuyển khẩu là mua bán hàng hoá của nước xuất khẩu để bán cho một nước khác(nước nhập khẩu) mà không làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam. Việc chuyển khẩu được thực hiện dưới các hình thức sau: +Hàng chuyển khẩu được chuyển từ cảng nước xuất khẩu đến cảng nước nhập khẩu không qua cảng Việt Nam. +Hàng chuyển khẩu được chở đến Việt Nam nhưng không làm thủ tục nhập khẩu mà đi thẳng đến nước nhập khẩu. +Hàng chuyển khẩu được chở đến Việt Nam, tạm đưa vào kho hải quan dưới sự giám sát của hải quan Việt Nam trong thời gian không quá 60 ngaỳ rồi mới chuyển đến cảng nước nhập khẩu, không làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam. Cơ sở pháp lý cho phương thức kinh doanh chuyển khẩu là hai hợp đồng riêng biệt: Hợp đồng bán hàng do đơn vị của Việt Nam ký kết với bên nước nhập khẩu và hợp đồng mua bán do bên Việt Nam ký kết với nước xuất khẩu. Các hình thức thanh toán gồm có: +Thanh toán theo phương thức tín dụng giáp lưng( back to back) hình thức này đang được khuyến khích. +Dùng tiền mặt để thanh toán. Hợp đồng bán hàng phải tuân thủ các quy định về ngoại hối. +Trường hợp nhập khẩu thanh toán bằn
Tài liệu liên quan