Đề tài Một số biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng nông sản chủ yếu tại công ty xuất nhập khẩu Intimex

Trong công cuộc đổi mới ngày nay, Đảng và Nhà nước đã đề ra chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Nhiệm vụ mới khiến cho hoạt động xuất nhập khẩu – là hoạt động đóng vai trò quan trọng vào việc thúc đẩy kinh tế phát triển cũng như góp phần nâng cao đời sống nhân dân – trở nên nặng nề hơn bao giờ hết.

doc129 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1263 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng nông sản chủ yếu tại công ty xuất nhập khẩu Intimex, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài: Trong công cuộc đổi mới ngày nay, Đảng và Nhà nước đã đề ra chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Nhiệm vụ mới khiến cho hoạt động xuất nhập khẩu – là hoạt động đóng vai trò quan trọng vào việc thúc đẩy kinh tế phát triển cũng như góp phần nâng cao đời sống nhân dân – trở nên nặng nề hơn bao giờ hết. Thông qua hoạt động xuất khẩu chúng ta có thể tận dụng các tiềm năng và lợi thế sẵn có để sản xuất hàng hoá phục vụ cho trao đổi, buôn bán với nước ngoài, tăng thu ngoại tệ, từ đó có thể mua sắm các loại máy móc thiết bị cần thiết từ nước ngoài để phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá; cũng như nhập khẩu các hàng hoá khác phục vụ sinh hoạt cho dân cư. Nhưng trong xu hướng tự do hoá thương mại toàn cầu hiện nay, tình trạng cạnh tranh giữa các công ty xuất nhập khẩu trong nước với các công ty nước ngoài cũng như với chính những công ty nội địa của nước đó đang ngày càng trở nên quyết liệt và gay gắt hơn cả. Vì vậy mỗi công ty muốn tồn tại và phát triển được đòi hỏi phải có những phương án kinh doanh, chiến lược xuất khẩu khả thi sao cho phù hợp với điều kiện và khả năng thực tế của công ty mình. Việt Nam là một nước nông nghiệp nhiệt đới, sản xuất nhỏ là chủ yếu nhưng có tiềm năng lớn về xuất khẩu đặc biệt là xuất khẩu các mặt hàng nông sản vì vậy đây là mặt hàng chủ lực trong xuất khẩu của Việt Nam nhiều năm qua. Song hoạt động xuất khẩu của Việt Nam chưa khai thác được triệt để tiềm năng đó, kim ngạch xuất khẩu nông sản còn thấp, cán bộ thực hiện xuất khẩu còn thiếu kinh nghiệm, cơ sở vật chất phục vụ xuất khẩu còn yếu kém, nguồn vốn đầu tư cho hoạt động này chưa đủ lớn. Do đó để hoạt động này mang lại hiệu quả, thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng nguồn ngoại tệ, bên cạnh việc thực hiện các hoạt động thúc đẩy ở tầm vĩ mô để tạo môi trường thuận lợi cho xuất khẩu nông sản phát triển thì vấn đề nghiên cứu đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất khẩu ở các công ty trong đó có công ty Intimex là cực kỳ cần thiết. Nó giúp cho các công ty có những giải pháp thích hợp nhằm thúc đẩy hơn nữa để tăng kim ngạch xuất khẩu. Với nhận thức trên cùng với những kiến thức đã tích luỹ trong quá trình học tập ở trường Đại học Kinh tế quốc dân, em đã chọn đề tài “ Một số biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng nông sản chủ yếu tại công ty xuất nhập khẩu Intimex ”. 2.Mục đích nghiên cứu của đề tài: Là nghiên cứu, đánh giá về thực trạng hoạt động xuất khẩu và thúc đẩy xuất khẩu nhóm hàng nông sản tại Công ty Intimex, trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu các hàng nông sản xuất khẩu của Công ty xuất nhập khẩu Intimex. 3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Hoạt động xuất khẩu hàng nông sản (cà phê, cao su, hạt tiêu, lạc nhân) của Công ty xuất nhập khẩu Intimex giai đoạn 2000 – 2002. 4.Kết cấu của luận văn: Ngoài Lời cam đoan, Lời cám ơn, Mục lục, Lời mở đầu, danh mục Tài liệu tham khảo, Kết luận, Nội dung bài viết gồm 3 chương: - Chương một: Những vấn đề lý luận cơ bản về thúc đẩy xuất khẩu của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. - Chương hai: Thực trạng hoạt động thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản tại công ty Intimex. - Chương ba: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng nông sản chủ yếu tại Công ty xuất nhập khẩu Intimex. Với trình độ và kiến thức hạn chế, bài viết này sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp, nhận xét của các Thầy, Cô giáo để bài viết này được hoàn thiện hơn. Để phân tích được thực trạng hoạt động xuất khẩu và thúc đẩy xuất khẩu tại một doanh nghiệp trước hết phải tìm hiểu thế nào là xuất khẩu và thúc đẩy xuất khẩu, các nhân tố ảnh hưởng đến những hoạt động đó. Chương một sẽ giúp người đọc hiểu rõ vấn đề này. Chương i Những vấn đề lý luận cơ bản về thúc đẩy xuất khẩu của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường I. Xuất khẩu và các hình thức của xuất khẩu: 1. Khái niệm và đặc điểm của xuất khẩu: 1.1/ Khái niệm về xuất khẩu: Xuất khẩu hàng hoá là hình thức mua bán, trao đổi hàng hoá, dịch vụ của một cá nhân, tập thể, doanh nghiệp ở một quốc gia hoặc của một quốc gia cho các cá nhân, tập thể, doanh nghiệp của một quốc gia khác hoặc cho các quốc gia khác nhằm thu được lợi nhuận, trong đó phương tiện thanh toán phải là ngoại tệ đối với một hoặc cả hai bên. Xuất khẩu là một mặt biểu hiện của mối quan hệ xã hội, nó phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất và tiêu dùng ở các quốc gia khác nhau. Hoạt động xuất khẩu về bản chất chính là hợp đồng mua bán quốc tế - là sự thoả thuận giữa các bên mua và bán ở các nước khác nhau, trong đó quy định bên bán chuyển giao các chứng từ có liên quan đến hàng hoá và quyền sở hữu hàng hoá, bên mua phải thanh toán tiền hàng và nhận hàng. Hoạt động này diễn ra trên phạm vi rất rộng cả về điều kiện không gian và thời gian. Nó có thể chỉ diễn ra trong một, hai ngày hoặc kéo dài hàng năm, có thể được tiến hành trên phạm vi lãnh thổ một quốc gia hoặc nhiều quốc gia khác nhau. 1.2/Đặc điểm của xuất khẩu: Xuất khẩu là hoạt động mua bán hàng hoá vượt ra ngoài lãnh thổ một quốc gia, đồng tiền thanh toán là ngoại tệ đối với một hoặc cả hai bên. Như vậy, hoạt động này có yếu tố nước ngoài tham gia vào do đó nó chịu sự điều chỉnh của nhiều hệ thống luật như luật quốc tế, luật quốc gia. Xuất khẩu diễn ra trong môi trường kinh doanh mới và xa lạ, các doanh nghiệp hoạt động trong môi trường này thường gặp phải nhiều rủi ro hơn là kinh doanh nội địa, vì vậy các doanh nghiệp phải thích ứng để hoạt động có hiệu quả ở nước ngoài. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp gia tăng lợi nhuận bằng cách mở rộng phạm vi thị trường, tăng doanh số bán hàng. Điều này khó có thể đạt được nếu doanh nghiệp chỉ thực hiện kinh doanh trong nước. Sử dụng các phương pháp trao đổi thông tin và ý định với khách hàng bằng các phương tiện thông tin hiện đại, điện báo thương nghiệp, telex, điện thoại quốc tế, hoặc sử dụng đường dây của các phòng đại diện chi nhánh… Phương tiện và các phương pháp trao đổi hàng hoá trong kinh doanh xuất khẩu : Buôn bán với nước ngoài có nghĩa là gửi hàng hoá ra nước ngoài và ngược lại bằng các phương tiện vận tải như: vận tải đường biển, đường sắt, máy bay, hoặc đường bộ. Trong quá trình vận chuyển đường dài hàng hoá cần được bảo quản tốt để đáp ứng yêu cầu với điều kiện khí hậu khác nhau hoặc khi phải chuyển đổi phương tiện vận tải. Do đó hàng hoá phải được đóng gói trong bao bì bảo đảm để tránh hư hao, mất mát về chất lượng, số lượng và trọng lượng. - Phương pháp thanh toán và di chuyển tiền trong kinh doanh xuất nhập khẩu: sử dụng phương pháp chuyển tiền qua ngân hàng đại diện của hai bên vừa đảm bảo gửi nhanh, an toàn và rẻ. - Đặc biệt hoạt động xuất khẩu còn có đặc điểm nữa đó là: hoạt động này diễn ra giữa các doanh nghiệp ở các quốc gia khác nhau nên ngôn ngữ, tôn giáo, tập quán, chính trị, luật pháp khác nhau vì vậy khi đàm phán và ký kết hợp đồng mua bán với các doanh nghiệp thuộc quốc gia khác phải chú ý một số điểm sau: Thống nhất ngôn ngữ làm hợp đồng: chọn ngôn ngữ nào mà cả hai bên đều hiểu và nhất trí. Mọi giao dịch buôn bán phải có văn bản và hai bên ký tên đầy đủ. Các điều kiện và điều khoản trong hợp đồng xuất khẩu mang tính quốc tế và có sự khác biệt rõ nét với hợp đồng nội địa. 2. Các hình thức của xuất khẩu: Hoạt động xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, do đó người ta căn cứ vào đặc điểm sở hữu hàng hoá trước khi xuất khẩu, nguồn hàng nhập khẩu hiện nay của các doanh nghiệp.. để chia xuất khẩu thành một số hình thức như sau: Xuất khẩu trực tiếp : Là việc các doanh nghiệp tự bỏ vốn ra thu mua sản phẩm từ các đơn vị sản xuất trong nước (hoặc tự sản xuất) rồi trực tiếp tiến hành các giao dịch với khách hàng nước ngoài hoặc thông qua các đại diện bán hàng và (hoặc) các nhà phân phối của mình ở những thị trường mục tiêu đó. Ưu điểm: - Doanh nghiệp trực tiếp tiếp xúc với khách hàng của mình do đó nắm bắt kịp tình hình thị trường như nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng thay đổi như thế nào để có sự điều chỉnh phù hợp. - Đảm bảo nguồn hàng của doanh nghiệp dù tự sản xuất hay thu mua luôn có chất lượng phù hợp với nhu cầu của khách hàng Nhược điểm: - Đây là hình thức có độ rủi ro rất lớn do hàng hoá có thể không bán được khi khách hàng bất ngờ thay đổi yêu cầu, thị trường biến động dẫn tới ứ đọng vốn thậm chí bị tăng thêm chi phí mà không được đền bù do hàng kém phẩm chất khi bị lưu kho lâu. Xuất khẩu gián tiếp : Là hình thức một doanh nghiệp tiến hành bán sản phẩm của mình thông qua dịch vụ của các tổ chức độc lập đặt ngay tại nước xuất khẩu. Hình thức này thường được các doanh nghiệp mới tham gia vào thị trường quốc tế thực hiện. Ưu điểm: - Doanh nghiệp không phải đầu tư nhiều cũng như không phải thực hiện các nghiệp vụ xuất khẩu như nghiên cứu thị trường xuất khẩu, lựa chọn đối tác, lựa chọn thị trường, đàm phán, ký kết hợp đồng… và các hoạt động triển khai, xúc tiến, khuyếch trương ở thị trường nước ngoài. - Doanh nghiệp hạn chế được các rủi ro có thể xảy ra khi doanh nghiệp thực hiện nghiệp vụ xuất khẩu trực tiếp vì trách nhiệm đó được chuyển giao cho các tổ chức trung gian hoặc các doanh nghiệp thực hiện xuất khẩu uỷ thác. Nhược điểm: - Phương thức này có độ an toàn cao đồng thời cũng làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp do phải chia sẻ một phần lợi nhuận với các tổ chức tiêu thụ. - Doanh nghiệp thực hiện hình thức này không được tiếp xúc trực tiếp với khách hàng nên việc nắm bắt thông tin là rất hạn chế, do đó không có những thay đổi kịp thời khi thị trường biến động. - Dễ bị mất khách hàng nếu bên trung gian có được những nguồn hàng rẻ hơn, tốt hơn…giúp họ thu được lợi nhuận cao hơn. Xuất khẩu tại chỗ : Là hình thức bán hàng cho người nước ngoài đang đi du lịch, cho ngoại giao đoàn… đồng tiền thanh toán là ngoại tệ, hàng hoá có thể vẫn ở trong nước. Hiện nay, xu hướng di cư tạm thời ngày càng phổ biến đặc biệt là số khách du lịch nước ngoài ngày càng tăng lên nhanh chóng. Các doanh nghiệp có thể lợi dụng điều này để tiến hành cung cấp các hàng hóa và dịch vụ để thu ngoại tệ. Phương thức xuất khẩu này giúp doanh nghiệp có thể tiết kiệm được chi phí, giảm thiểu rủi ro, do doanh nghiệp được kinh doanh trong môi trường quen thuộc. Hình thức này được các quốc gia có ưu thế về du lịch khai thác triệt để và thu được kết quả to lớn. Tái xuất khẩu : Là hoạt động xuất đi hàng hoá đã nhập về để tại kho ngoại quan (hoặc ở cảng) mà không qua chế biến cho khách hàng nước khác. Cũng có thể hàng không nhận về trong nước mà nhận ở nước ngoài rồi giao ngay cho người ở nước khác. Cũng có thể gửi hàng đó ở khu thương mại tự do nước ngoài (Free trade zone) được miễn thuế trước khi giao hàng đó cho người nước khác. Mua bán đối lưu: Là phương thức giao dịch mà trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu. Có sự cân xứng giữa mua và bán. Mua gắn liền với bán, bán gắn liền với mua. Người bán đồng thời là người mua hàng khác theo giá trị tương đương. Hình thức này còn được gọi là phương thức đổi hàng hay xuất khập khẩu liên kết. Nó được thực hiện theo nguyên tắc: - Cân bằng về tổng giá trị hàng hoá xuất nhập khẩu. - Cân bằng về chủng loại hàng: Hàng quý hiếm, loại quý hiếm này tương ứng với hàng quý hiếm, loại hàng quý hiếm khác. - Cân đối về giá cả: giá nhập khẩu đắt thì giá mua cũng đắt tương ứng. Ưu điểm: - Phương thức này ít dùng đến ngoại tệ vì vậy phù hợp với các nước thiếu ngoại tệ và vẫn phù hợp với các cá nhân xuất khẩu mở rộng thị trường và tăng doanh số bán. - Phương thức này tốn ít chi phí và ít rủi ro do đó các công ty thường áp dụng khi thâm nhập thị trường kém hơn. Nhược điểm: - Phương thức này gắn liền xuất khẩu và nhập khẩu nên nhà xuất khẩu đôi khi lại trở thành người khai thác thị trường cho bạn hàng. - Phương thức này thường gây nhiều khó khăn cho các nhà xuất khẩu không chuyên sâu về mặt hàng mà họ mua lại của nhà sản xuất. Xuất khẩu uỷ thác: là hình thức mà một doanh nghiệp thực hiện hoạt động xuất khẩu thay cho một doanh nghiệp khác do doanh nghiệp đó không được phép thực hiện hoạt động xuất khẩu hoặc không có hạn ngạch. Về mặt pháp lý, bên nhận uỷ thác là đại lý hoa hồng của bên uỷ thác nên phí uỷ thác thực chất là tiền hoa hồng. Xuất khẩu theo nghị định thư: đây là hình thức mà doanh nghiệp xuất khẩu theo chỉ tiêu mà Nhà nước giao cho để tiến hành xuất khẩu một hoặc một số loại hàng hoá nhất định cho Chính phủ nước ngoài trên cơ sở Nghị định thư đã được ký kết giữa hai Chính phủ. Hình thức này cho phép doanh nghiệp tiết kiệm được các khoản chi phí trong việc nghiên cứu thị trường, tìm kiếm bạn hàng. Mặt khác, thực hiện hình thức này thường không có rủi ro trong thanh toán. Gia công xuất khẩu : Là loại hình trong quan hệ thương mại và sản xuất, chế biến sản phẩm theo mẫu mã, tiêu chuẩn thoả thuận giữa hai bên. Bên sản xuất (bên B) nhận trước nguyên liệu, thiết bị kỹ thuật để sản xuất ra thành phẩm, giao cho bên đặt làm (bên A) và nhận tiền công theo hợp đồng (hoặc trả bằng nguyên liệu hoặc dịch vụ khác). Đây là một hình thức mậu dịch lao động, xuất khẩu lao động qua hàng hoá. ở nước ta, gia công xuất khẩu phổ biến là hàng may mặc. II. Nội dung hoạt động xuất khẩu của một doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường : 1. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu : Mỗi thị trường hàng hoá cụ thể có quy luật vận động riêng vì vậy nghiên cứu thị trường giúp doanh nghiệp nắm vững những quy luật đó để vận dụng vào giải quyết các vấn đề về thị trường như: thái độ tiếp thu của người tiêu dùng, yêu cầu của thị trường đối với hàng hoá, các ngành tiêu thụ mới, khả năng tiêu thụ tiềm năng, năng lực cạnh tranh của hàng hoá, các hình thức và biện pháp thâm nhập vào thị trường đó…Từ đó xác định được cách thức và triển vọng bán hàng của một sản phẩm cụ thể hoặc một nhóm sản phẩm tại một thị trường hoặc một vài thị trường nào đó. Quá trình nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin và số liệu về thị trường; so sánh, phân tích những số liệu đó và rút ra kết luận. Những kết luận này sẽ giúp cho nhà quản lý lập ra các kế hoạch marketing thích hợp góp phần quan trọng trong việc thực hiện phương châm hành động “ Chỉ bán cái thị trường cần chứ không bán cái có sẵn”, nói cách khác đó là doanh nghiệp phải xác định đúng đắn nhu cầu của khách hàng. Xuất phát từ hai loại thông tin về thị trường kinh doanh hàng hoá mà chúng ta cần nắm được là thông tin sơ cấp (Primary information) và thông tin thứ cấp (Secondary information), người ta thường sử dụng kết hợp hai phương pháp nghiên cứu thị trường cơ bản đó là: - Nghiên cứu tại hiện trường: Là cách thu thập thông tin về thị trường trực tiếp từ khách hàng thông qua một số biện pháp như : quan sát, phỏng vấn qua điện thoại, phỏng vấn qua thư, phỏng vấn trực tiếp. Phương pháp này tốn kém nhiều cả về chi phí và thời gian. - Nghiên cứu tại bàn: Được sử dụng phổ biến nhất vì nó ít tốn kém, dễ thu thập và xử lý. Việc thu thập thông tin thị trường được thực hiện thông qua các tài liệu xuất bản ở trong nước (Báo, tạp chí, thống kê của ngành và của tổng cục thống kê…), các tài liệu xuất bản ở nước ngoài (Báo, tạp chí, các thông tin từ các nguồn như: trung tâm thương mại quốc tế (ITC), tổ chức thương mại thế giới (WTO), tổ chức thương mại và phát triển của Liên Hợp Quốc (UNCTAD), thống kê của Liên Hợp Quốc về kinh tế – xã hội (UNSO), các thống kê của các cơ quan Nhà nước nước ngoài ), các tài liệu không xuất bản của các cơ quan, tổ chức… * Khi nghiên cứu thị trường phải phân tích kỹ: Tình hình cung cầu hàng hoá trên thị trường: Doanh nghiệp phải xác định mối quan hệ giữa cung – cầu hàng hoá mà doanh nghiệp muốn kinh doanh, dựa vào các nhóm yếu tố sau: - Nhóm các nhân tố làm cho dung lượng thị trường biến đổi có tính chu kỳ. - Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến dung lượng thị trường. - Nhóm nhân tố ảnh hưởng tạm thời đến dung lượng thị trường. Điều quan trọng khi phân tích sự ảnh hưởng của các nhân tố đối với sự thay đổi dung lượng thị trường là phải xác định nhân tố nào có ý nghĩa quyết định xu hướng phát triển của thị trường ở thời điểm hiện tại và trong tương lai. Giá cả của hàng hoá và dự đoán khuynh hướng biến động của giá cả trên thị trường thế giới: Giá cả thị trường là biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trường, nó do quan hệ cung cầu hàng hoá chi phối, do người mua, người bán thoả thuận và quyết định. Nghiên cứu giá cả được coi là một vấn đề chiến lược, ưu tiên hàng đầu bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến sức tiêu thụ và lợi nhuận của doanh nghiệp. Dự đoán đúng khuynh hướng biến động của giá bảo đảm cho các nhà xuất khẩu đạt được thắng lợi trong kinh doanh. Đây cũng là phương pháp tốt nhất để tránh rủi ro và thua lỗ. Nghiên cứu chính sách ngoại thương của các quốc gia: Bao gồm chính sách thị trường, chính sách mặt hàng và chính sách hỗ trợ. Các chính sách này có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế. Những thông tin mà doanh nghiệp kinh doanh quốc tế cần nắm được là: chính sách ngoại thương của quốc gia đó có ổn định không? Mức độ tham gia vào hoạt động ngoại thương của Chính phủ quốc gia đó như thế nào? Sự can thiệp của Chính Phủ vào doanh nghiệp kinh doanh quốc tế ra sao?… 2. Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu: Trên cơ sở kết quả nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp tiến hành lựa chọn mặt hàng đem xuất khẩu. Để xác định mặt hàng doanh nghiệp dự định kinh doanh, doanh nghiệp cần phải tìm hiểu kỹ: - Quy định của Chính Phủ, chính sách, luật pháp ở các thị trường mục tiêu về các mặt hàng này như: Mặt hàng nào được phép kinh doanh, được phép nhập khẩu vào thị trường này, hạn ngạch của từng mặt hàng, chính sách thuế đối với các mặt hàng đó là ưu đãi hay khắt khe, chẳng hạn, các nước Hồi giáo cấm kinh doanh các mặt hàng có sử dụng thịt bò; các nước đang phát triển có chính sách thuế ưu đãi đối với các hàng hoá nhập khẩu là máy móc, thiết bị, công nghệ phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. - Những yêu cầu của thị trường về hàng hoá đó như : Giá trị, công dụng, đặc tính, quy cách, phẩm chất, bao bì, mẫu mã, cách lựa chọn phân loại.. - Nắm vững tình hình sản xuất mặt hàng đó như : tính thời vụ, khả năng về nguyên vật liệu, công nhân, tay nghề, công nghệ sản xuất, nguyên lý chế tạo…để tiện cho việc mua bán. - Xác định chu kỳ sống của mặt hàng đó trên thị trường mà doanh nghiệp dự định xâm nhập, xem mặt hàng đó đang ở vào giai đoạn nào của chu kỳ sống. Chu kỳ này là tiến trình phát triển của việc tiêu thụ hàng hoá bao gồm bốn giai đoạn: thâm nhập, phát triển, bão hoà và suy thoái. Việc xuất những mặt hàng đang ở hai giai đoạn đầu (thâm nhập, phát triển) là thuận lợi nhất. Tuy vậy, có khi mặt hàng đã ở giai đoạn thoái trào nhưng nhờ các hoạt động xúc tiến tiêu thụ (như quảng cáo, cải tiến hệ thống tổ chức tiêu thụ, khuyến mại, giảm giá…) người ta vẫn có thể đẩy mạnh được sản xuất. - Ngoài ra, để lựa chọn mặt hàng kinh doanh, doanh nghiệp phải xem xét tới một yếu tố nữa đó là tỷ giá hối đoái thời điểm đó: nếu tỷ giá đồng nội tệ thấp tức là giá trị của đồng nội tệ lớn thì thuận lợi cho việc xuất khẩu do thu được một lượng ngoại tệ lớn hơn. 3. Lựa chọn thị trường xuất khẩu: Doanh nghiệp phải tiến hành xác định thị trường mà mình định kinh doanh để từ đó đưa ra cách thức thâm nhập thị trường sao cho có hiệu quả nhất. Để chọn được thị trường thích hợp doanh nghiệp phải dựa vào một số tiêu thức như : mục đích kinh doanh cụ thể của công ty, mức độ cạnh tranh, các chỉ tiêu kinh tế (tổng sản phẩm quốc dân, thu nhập bình quân đầu người, tỷ giá hối đoái, mức độ lạm phát, ..), vị trí địa lý, quan hệ chính trị, thương mại của quốc gia đó với thế giới, mức độ ổn định chính trị – xã hội để tiến hành so sánh từ đó chọn ra một hoặc một nhóm thị trường làm thị trường mục tiêu mà doanh nghiệp sẽ hướng vào. 4. Lựa chọn bạn hàng: Có thể hiểu bạn hàng ở đây là là đối tác làm ăn, người cung cấp nguyên vật liệu cho sản xuất, cung ứng đầu vào cho xuất khẩu, tài trợ vốn-tín dụng, liên doanh liên kết… Khi đã lựa chọn được thị trường, mặt hàng kinh doanh, sẽ có rất nhiều đối tác
Tài liệu liên quan