Đề tài Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty Vật tư kỹ thuật xi măng

Trong giai đoạn kinh tế hiện nay và thời gian tới, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh về vốn, nhân sự, công nghệ mới mong tồn tại và phát triển. Điều này đòi hỏi họ phải nghiên cứu, đánh giá và phân tích hoạt động sản xuất, kinh doanh nói chung và phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp nói riêng thông qua một hệ thống các chỉ tiêu phù hợp với quy chế quản lý tài chính hiện hành.

doc88 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1333 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty Vật tư kỹ thuật xi măng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Trang Lời mở đầu 3 Chương I: Lý luận chung về phân tích tài chính doanh nghiệp 5 I. Khái niệm tài chính doanh nghiệp 5 1. Khái niệm doanh nghiệp 5 2. Khái niệm tài chính 5 3. Khái niệm tài chính doanh nghiệp 7 II. Những vấn đề cơ bản về phân tích tài chính doanh nghiệp 12 1. Khái niệm 12 2. Tầm quan trọng của phân tích tài chính doanh nghiệp 12 3. Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp 16 4. Trình tự phân tích tài chính doanh nghiệp 18 5. Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp 19 6. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp 21 7. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng phân tích tài chính 36 Chương II: Thực trạng công tác phân tích tài chính tại Công ty Vật tư Kỹ thuật xi măng 38 I. Giới thiệu chung về Công ty Vật tư Kỹ thuật xi măng 38 1. Quá trình hình thành và phát triển, chức năng, nhiệm vụ của Công ty 38 2. Cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý của Công ty VTKTXM 40 3. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của Công ty 43 4. Kết quả hoạt động kinh doanh những năm qua 46 II. Thực trạng công tác kế toán và lập báo cáo tài chính tại Công ty 50 III. Thực trạng công tác phân tích tài chính tại Công ty VTKTXM 52 1. Tổ chức phân tích tài chính 52 2. Thông tin và công nghệ phân tích 52 3. Phương pháp phân tích 57 4. Nội dung phân tích 58 5. Dự báo và lập kế hoạch tài chính 66 6. Đánh giá chung về công tác phân tích tài chính tại công ty VTKTXM 67 Chương III: Giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty VTKTXM 69 I. Giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty 69 1. Xây dựng và tổ chức thực hiện tốt một quy trình phân tích tài chính tại công ty 69 2. Nâng cao chất lượng nhân sự cho công tác phân tích tài chính 72 3. Sử dụng đầy đủ, chính xác thông tin 74 4. Sử dụng đúng, và hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu, bảng biểu, sơ đồ phân tích kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp phân tích 76 II. Kiến nghị 79 1. Kiến nghị với công ty 79 2. Kiến nghị với cơ quan quản lý cấp trên 81 3. Kiến nghị với nhà nước 82 Kết luận 85 Tài liệu tham khảo 86 Lời mở đầu Trong giai đoạn kinh tế hiện nay và thời gian tới, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh về vốn, nhân sự, công nghệ mới mong tồn tại và phát triển. Điều này đòi hỏi họ phải nghiên cứu, đánh giá và phân tích hoạt động sản xuất, kinh doanh nói chung và phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp nói riêng thông qua một hệ thống các chỉ tiêu phù hợp với quy chế quản lý tài chính hiện hành. Phân tích tài chính được thực hiện sẽ cung cấp thông tin một cách toàn diện, kịp thời về tình hình tài chính của doanh nghiệp: tình hình huy động vốn và sử dụng vốn, khả năng thanh toán, khả năng sinh lời…cho các nhà quản lý doanh nghiệp, giúp cho các nhà quản lý doanh nghiệp đánh giá, kiểm soát đều đặn hiệu quả hoạt động kinh doanh quá khứ đồng thời dự báo các chỉ tiêu, rủi ro tài chính trong tương lai và ra các quyết định quản lý. Đối với các nhà đầu tư, nhà cho vay và các đối tượng quan tâm khác, phân tích tài chính cũng quan trọng trong việc họ thực hiện các quyết định của mình. Một thực tế hiện nay ở Việt Nam đó là trong khi phân tích tài chính, một trong những hoạt động chủ yếu của quản lý tài chính doanh nghiệp đang ngày càng trở nên quan trọng và cần thiết thì nhiều doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa đổi mới tư duy, chưa coi trọng công tác phân tích tài chính doanh nghiệp, do đó hiệu quả công tác này chưa cao. Thực tế đó cần được khắc phục. Công ty Vật tư kỹ thuật xi măng cũng không phải là ngoại lệ. Phân tích tài chính ở Công ty mới chỉ mang tính chất báo cáo tổng kết, đánh giá sau 6 tháng đầu năm, cả năm và 5 năm nên đã phần nào ảnh hưởng đến chất lượng các quyết định tài chính và hiệu quả sản xuất, kinh doanh của Công ty. Qua thời gian học tập ở trường Đại học Kinh tế Quốc dân và thực tập tại công ty Vật tư kỹ thuật xi măng tôi nhận thấy phân tích tài chính có ý nghĩa không chỉ về lý luận mà cả trong thực tiễn quản lý tài chính doanh nghiệp. Với Công ty, nó có ý nghĩa trong việc quyết định huy động vốn, bán hàng (đặc biệt là chính sách mua bán chịu), đầu tư… Vì thế, dù đề tài hoàn thiện công tác phân tích tài chính không mới mẻ nhưng tôi đã chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty Vật tư kỹ thuật xi măng” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình với mong muốn công tác này được công ty tiến hành thường xuyên liên tục và ngày một hiệu quả hơn để góp phần nâng cao hiệu quả các công tác khác của công ty. Kết cấu của luận văn gồm 3 chương: Chương I: Lý luận chung về phân tích tài chính doanh nghiệp. Đây là phần tìm hiểu chung về doanh nghiệp, phân tích, phân tích tài chính và tầm quan trọng của phân tích tài chính. Chương II: Thực trạng công tác phân tích tài chính tại Công ty vật tư kỹ thuật xi măng. Nội dung của chương nhằm giới thiệu về công ty, xem xét thực trạng công tác kế toán và lập báo cáo tài chính có ảnh hưởng đến công tác phân tích tài chính, nghiên cứu thực trạng công tác phân tích tài chính tại công ty, đánh giá những kết quả đạt được và những hạn chế, tìm ra nguyên nhân của những hạn chế để có cơ sở khắc phục. Chương III: Giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty vật tư kỹ thuật xi măng. Đây là phần kết của luận văn, trong đó nêu lên các giải pháp và các kiến nghị nhằm nâng cao công tác phân tích tài chính tại công ty. Tuy nhiên, trong khuôn khổ một luận văn tốt nghiệp bậc cử nhân, phần giải pháp ở đây chỉ được đề cập ở mức độ khái quát, định tính. Chương I: Lý luận chung về phân tích tài chính doanh nghiệp I. Khái niệm Tài chính doanh nghiệp. 1. Khái niệm doanh nghiệp. Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. (khoản 1 Điều 3 Luật doanh nghiệp được Quốc hội thông qua ngày 12/6/1999, có hiệu lực từ 1/1/2000). Trong nền kinh tế thị trường, các loại hình doanh nghiệp rất đa dạng: Doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty TNHH (trong đó có công ty TNHH 1 thành viên), công ty hợp danh, hợp tác xã, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (gồm doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh),… Người ta cũng có thể phân chia: doanh nghiệp mẹ và doanh nghiệp con, tập đoàn kinh doanh hoặc công ty mẹ và công ty con, tổng công ty và công ty thành viên hạch toán độc lập, công ty thành viên hạch toán phụ thuộc. Hoặc có thể chia theo cách khác: doanh nghiệp nhà nước và các loại hình doanh nghiệp tư nhân (từ “tư nhân” ở đây khác với “tư nhân” nói trên, “tư nhân’ ở đây nghĩa là “không phải nhà nước”, còn “doanh nghiệp tư nhân” nói trên là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ, tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp ). Tuỳ theo từng nước mà khái niệm từng loại doanh nghiệp có sự khác nhau. 2. Khái niệm về Tài chính. 2.1. Nguồn gốc tài chính Tài chính là một phạm trù kinh tế mang tính lịch sử. Sự ra đời và tồn tại của tài chính gắn liền với tiền tệ và vai trò của nhà nước. Sản xuất và sự trao đổi hàng hoá đã dẫn đến sự ra đời của tiền tệ. Hình thức tiền tệ cũng thay đổi qua các thời kì: vỏ sò, hạt coca, xương, da, lông thú, kim loại, bạc, vàng, tiền giấy…Tài chính manh nha xuất hiện từ các quan hệ cho vay nặng lãi. Nhà nước ra đời thúc đẩy mạnh mẽ việc sử dụng tiền tệ trong lưu thông hàng hoá vì nhà nước cần chi tiêu duy trì bộ máy và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình. Nhà nước nắm quyền phát hành tiền, quy định hiệu lực của tiền tệ trong lưu thông ở phạm vi quốc gia, tập trung một bộ phận của cải của xã hội cho mình, tham gia phân phối của cải với tư cách chủ thể của quyền lực chính trị. Tiền tệ trở thành đối tượng chủ yếu trong quan hệ phân phối và giao dịch dân sự. Đồng thời với việc sử dụng rộng rãi tiền tệ trong quan hệ phân phối của cải cũng như trong các giao dịch dân sự thì các quỹ tiền tệ cũng được hình thành. Các quỹ tiền tệ là nội dung vật chất của tài chính. Vậy là tài chính gắn liền với tiền tệ nhưng không đồng nhất với tiền tệ, nội dung vật chất của tài chính là các quỹ tiền tệ mà không phải tiền tệ với tư cách đơn lẻ, tiền tệ với tư cách là các bộ phận hợp thành các quỹ tiền tệ gắn với các quan hệ phận phối của cải mới được coi là nội dung vật chất của tài chính (tài chính không đồng nhất là các quỹ tiền tệ). Khác với tiền tệ có các chức năng: thước đo giá trị, phương tiện lưu thông, phương tiện cất trữ, phương tiện thanh toán, tiền tệ quốc tế, tài chính gồm có chức năng phân phối và chức năng giám đốc. 2.2. Chức năng tài chính 2.2.1 Chức năng phân phối Đây là phương diện, mặt hoạt động chủ yếu của tài chính trong phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị. Chức năng phân phối thể hiện bản chất của tài chính trong đời sống KT-XH. Nhờ có chức năng này của tài chính mà của cải của xã hội được phân phối dưới hình thức giá trị. Khi tài chính thực hiện chức năng phân phối, của cải xã hội dưới hình thức giá trị là đối tượng phân phối. Dưới tác động của các quan hệ phân phối, các đại lượng tiền tệ vận động trong quá trình tạo lập hay sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm thoả mãn các nhu cầu khác nhau của các chủ thể trong xã hội. Sự vận động của tiền tệ hoàn toàn không phải là sự vận động cơ học mà là sự vận động mang tính xã hội. Sự vận động của tiền tệ tạo ra bởi các quan hệ phân phối giữa các chủ thể thông qua việc chuyển giao các đại lượng tiền tệ thể hiện về mặt vật chất của các nguồn tài chính (tài lực). Có thể nói, sự tồn tại của chức năng phân phối của tài chính là hoàn toàn khách quan, chức năng này tồn tại như là khả năng tiềm ẩn của tài chính còn việc sử dụng nó mang tính chất chủ quan của các chủ thể tham gia quan hệ phân phối của cải dưới hình thức giá trị. 2.2.2. Chức năng giám đốc Đây là mặt hoạt động chủ yếu của tài chính trong quá trình kiểm tra quá trình vận động của các nguồn tài chính để tạo lập hay sử dụng các quỹ tiền tệ. Cũng như chức năng phân phối, chức năng giám đốc của tài chính cũng mang tính khách quan, nhờ vào khả năng này mà các chủ thể tham gia quá trình phân phối của cải dưới hình thức giá trị thực hiện sự kiểm tra sự vận động của các nguồn tài chính. Quá trình thực hiện chức năng phân phối, sự kiểm tra có thể diễn ra dưới dạng: xem xét tính cần thiết, quy mô của việc phân phối các nguồn tài chính, hiệu quả của việc phân phối qua các quỹ tiền tệ. Giám đốc tài chính mang tính chất tổng hợp toàn diện, tự thân và diễn ra thường xuyên vì giám đốc tài chính là quá trình kiểm tra, kiểm soát các hoạt động tài chính nhằm phát hiện những ưu điểm để phát huy, tồn tại để khắc phục. Hoạt động tài chính diễn ra trên mọi lĩnh vực của quá trình tái sản xuất xã hội trên tầm vĩ mô và vi mô. Trong các hoạt động đó tài chính không chỉ phản ánh kết quả sản xuất mà còn thúc đẩy phát triển. Động lực để thúc đẩy nhanh nền sản xuất xã hội không chỉ phụ thuộc vào sự phân phối cân bằng, hợp lý và cân đối giữa các bộ phận mà còn trực tiếp phụ thuộc vào sự kiểm tra, kiểm soát nghiêm ngặt mọi hoạt động tài chính. Tóm lại, dựa vào bản chất của tài chính cho phép định nghĩa tài chính như sau: Tài chính là các quan hệ phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị phát sinh trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm thoả mãn các nhu cầu của các chủ thể thực hiện hoạt động phân phối. 2.3. Hệ thống tài chính trong nền kinh tế thị trường (sơ đồ): Ngân sách nhànước Tài chính doanh nghiệp Các chính sách tài chính T/c tài chính trung gian Tài chính hộ gia đình Tài chính đối ngoại 3. Khái niệm tài chính doanh nghiệp. 3.1. Khái niệm: Tài chính doanh nghiệp được thể hiện bằng các quan hệ tài chính phát sinh trong hoạt động của doanh nghiệp nhằm tạo lập, sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp, là một bộ phận cấu thành trong các hoạt động kinh tế của doanh nghiệp. Nó có mối liên hệ hữu cơ và tác động qua lại với các hoạt động kinh tế khác. Mối quan hệ tác động qua lại này phản ánh và thể hiện sự tác động gắn bó thường xuyên giữa phân phối sản xuất với tiêu thụ sản phẩm. Phân phối vừa phản ánh kết quả của sản xuất và trao đổi, lại vừa là điều kiện cho sản xuất và trao đổi có thể tiến hành bình thường và liên tục. Tài chính doanh nghiệp là tài chính của các tổ chức sản xuất kinh doanh có và không có tư cách pháp nhân và là một khâu tài chính cơ sở trong hệ thống tài chính. Vì tại đây diễn ra quá trình tạo lập và chu chuyển vốn gắn liền với qua trình sản xuất, đầu tư, tiêu thụ và phân phối. Tài chính doanh nghiệp - thoạt nhìn chúng ta lại hiểu là tiền tệ, như một doanh nghiệp sẽ phải trích một khoản tiền lương để trả cho cán bộ công nhân viên. Khi tiền lương tham gia phân phối giữa các loại lao động có trình độ nghề nghiệp khác nhau và điều kiện làm việc khác nhau. Tài chính tham gia phân phối sản phẩm quốc dân cho người lao động thông qua quá trình hình thành và sử dụng quỹ tiền lương và các quỹ phúc lợi công cộng khác. Do vậy giữa tài chính doanh nghiệp và tiền của doanh nghiệp là hai phạm trù kinh tế khác nhau. Tiền chỉ là phương tiện cho hoạt động tài chính nói chung và hoạt động tài chính doanh nghiệp nói riêng. Thông qua phương tiện này, các doanh nghiệp có thể thực hiện nhiều hoạt động khác nhau trong mọi lĩnh vực, nếu như chúng ta chỉ nhìn bề ngoài thì chỉ thấy các hoạt động đó hoạt động tách riêng nhau, nhưng thật ra lại gắn bó với nhau trong sự vận động và chu chuyển vốn, chúng được tính toán và so sánh với nhau bằng tiền. Toàn bộ các quan hệ kinh tế được biểu hiện bằng tiền phát sinh trong doanh nghiệp thể hiện nội dung của tài chính doanh nghiệp. Nó bao gồm các quan hệ tài chính sau: + Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp. Xuất phát từ mục đích sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cũng như những mối quan hệ về phân phối và phân phối lại dưới hình thức giá trị của cải vật chất sử dụng và sáng tạo ra ở các doanh nghiệp. Quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp: đó là những quan hệ về phân phối, điều hoà cơ cấu thành phần vốn kinh doanh, chuyển hoá các nguồn tài chính hướng tới việc hình thành các quỹ và ngược lại, phân phối thu nhập giữa các thành viên trong nội bộ doanh nghiệp; các quan hệ về thanh toán hợp đồng lao động giữa chủ doanh nghiệp và công nhân viên chức. Các mối quan hệ này đều thông qua việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ ở doanh nghiệp như: vốn cố định, vốn lưu động, quỹ tiền lương, quỹ khấu hao, quỹ dự trữ tài chính... nhằm phục vụ cho các mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. + Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với ngân sách nhà nước. Thể hiện trong việc các doanh nghiệp nộp thuế cho chính phủ và sự tài trợ của chính phủ trong một số trường hợp cần thiết để thực hiện vai trò can thiệp vào kinh tế của mình. ở nước ta do còn thành phần kinh tế quốc doanh nên sự tài trợ của nhà nước được thể hiện rõ bằng việc bảo đảm một phần vốn pháp định cho các doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động các doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả và nhất là các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế đất nước sẽ được nhà nước chú trọng đầu tư vốn nhằm giúp doanh nghiệp phát triển tốt hơn. Cũng trong quá trình hoạt động kinh doanh này, các doanh nghiệp nhà nước phải nộp các khoản thuế, phí, lệ phí như các doanh nghiệp khác và còn phải nộp thuế sử dụng vốn cho ngân sách nhà nước. Khoản thu này chiếm tỉ trọng lớn trong thu ngân sách giúp nhà nước có nguồn để phục vụ cho quốc kế dân sinh nói chung và tạo hành lang pháp lý để bảo vệ nền kinh tế cũng như xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho phát triển kinh tế và hỗ trợ hoạt động của doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ hoặc không hoạt động ở những then chốt, nhà nước sẽ cho cổ phần hoá. Nghĩa là toàn bộ số vốn của doanh nghiệp theo dạng này sẽ bao gồm : Cổ phần của nhà nước, cổ phần của doanh nghiệp và cổ phần của ngân hàng. Nếu doanh nghiệp bán cổ phần của mình cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp thì lúc đó sẽ có các cổ phần của cán bộ công nhân viên. ở một chừng mực nào đó, khi thị trường chứng khoán Việt Nam vận hành thì cổ phần đó sẽ được mua đi bán lại trên thị trường và nảy sinh ra cổ phần xã hội. Trong điều kiện đó mối quan hệ giữa ngân sách nhà nước với doanh nghiệp cũng có sự thay đổi đáng kể. Nhà nước còn tham gia vào nền kinh tế với tư cách là một cổ đông. - Quan hệ giữa doanh nghiệp với các tổ chức tài chính trung gian. Hiện nay các tổ chức tài chính trung gian ở nước ta mới chỉ hiện rõ nét bằng hoạt động của các ngân hàng thương mại và của công ty bảo hiểm. Nhưng để có một nền kinh tế thị trường phát triển tất yếu phải có sự thiết lập các hình thức phong phú, đa dạng trong lĩnh vực môi giới về vốn. Nhằm biến những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi ở các hộ gia đình, các doanh nghiệp và các tổ chức khác thành những nguồn vốn dành để đầu tư cho kinh tế. - Quan hệ giữa doanh nghiệp với nhau và với hộ gia đình. Mối quan hệ này phát sinh trong quá trình cung ứng, thanh toán các sản phẩm và dịch vụ đầu vào và đầu ra, trong việc góp vốn liên doanh, vốn cổ phần và chia lợi nhuận do vốn liên doanh cổ phần mang lại. Cùng với sự phát triển của các yếu tố cấu thành trong nền kinh tế thị trường, các mối quan hệ về kinh tế giữa các doanh nghiệp có xu thế ngày càng tăng lên. Các hoạt động đó đan xen vào nhau và tự điều chỉnh theo các quan hệ cung cầu về vốn tiền tệ và khả năng thu hút lợi nhuận. - Quan hệ giữa các doanh nghiệp với các tổ chức kinh tế nước ngoài phát sinh trong quá trình vay, cho vay, trả nợ và đầu tư với giữa doanh nghiệp với các tổ chức kinh tế trên thế giới. Nền kinh tế thị trường gắn liền với chính sách mở cửa, các hoạt động giữa các doanh nghiệp trong nước và các tổ chức kinh tế nước ngoài ngày càng có xu thế hoà nhập lẫn nhau, hợp tác với nhau để phát huy hết khả năng và thế mạnh của mình trong việc khai thác các nguồn vốn đưa vào sản xuất kinh doanh để có chi phí ít nhất với hiệu quả kinh tế cao nhất. Tóm lại ta có thể rút ra kết luận về tài chính doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp là hệ thống các quan hệ kinh tế biểu hiện dưới hình thái giá trị phát sinh trong quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp để phục vụ cho mục đích sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và các nhu cầu chung của xã hội. Hay, tài chính doanh nghiệp là những mối quan hệ tiền tệ gắn trực tiếp với việc tổ chức, huy động, phân phối, sử dụng và quản lý vốn trong quá trình kinh doanh. Hoặc tài chính doanh nghiệp là hệ thống các luồng chuyển dịch giá trị, các luồng vận động và chuyển hoá các nguồn tài chính trong quá trình phân phối để tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đạt tới những mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp trong khuôn khổ cho phép của pháp luật. 3.2. Chức năng của tài chính doanh nghiệp. 3.2.1. Chức năng huy động và bố trí nguồn vốn. Một doanh nghiệp có thể hoạt động sản xuất kinh doanh được thì cần phải có vốn và quyền sử dụng nguồn vốn bằng tiền của mình một cách chủ động. Tuy nhiên cũng cần phảI làm rõ một vấn đề là: Các nguồn vốn được lấy ở đâu ? Làm thế nào để có thể huy động được vốn ? Trước đây trong cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung ngân sách nhà nước cấp toàn bộ vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho việc thiết lập các xí nghiệp quốc doanh. Hiện nay khi chuyển sang nền kinh tế thị trường với sự hoạt động của các doanh nghiệp trong mọi thành phần kinh tế khác nhau, nhiều xí nghiệp quốc doanh đã tỏ ra sự yếu kém của mình. Thực trạng đó đặt ra cho các nhà quản lý kinh tế nói chung và các nhà quản lý tài chính nói riêng một vấn đề là: làm thế nào để đưa các xí nghiệp làm ăn thua lỗ đó thoát khỏi tình trạng hiện nay ? Chính sự bất ổn định này đã tạo ra một sự chưa được nhất quán trong việc định hình các nguồn vốn cho các doanh nghiệp ở nước ta. Tuy nhiên, dù thay đổi cụ thể như thế nào chăng nữa thì mọi doanh nghiệp với mọi hình thức sở hữu trong các lĩnh vực sản xuất, lưu thông, dịch vụ đều có thể huy động được vốn từ các nguồn sau: - Vốn do ngân sách nhà nước cấp hoặc cấp trên cấp đối với doanh nghiệp nhà nước được xác định trên cơ sở biên bản giao nhận vốn
Tài liệu liên quan