Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao, hoàn thiện chiến lược marketing của bảo tàng Dân tộc học Việt Nam

Đất nước ta từ xưa đến nay đã trải qua liên tiếp các cuộc chiến tranh mà hậu quả chúng để lại là vô cùng nghiêm trọng. Mặc dù vậy trong những năm gần đây nhờ chính sách của Đảng và Nhà nước, sự cố gắng của toàn thể nhân dân. Đất nước ta đã dần thay da đổi thịt, chuyển từ chế độ bao cấp sang nền kinh tế thị trường, đời sống nhân dân không ngừng được nâng cao, cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, xu hướng toàn cầu hóa xong mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng tác động mạnh mẽ tới mọi tầng lớp trong xã hội nhất là thế hệ trẻ, điều này khiến cho nhiều nét văn hóa truyền thống của dân tộc bị mai một, quên lãng. Một câu hỏi được đặt ra là: Chúng ta cần làm gì để giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc đồng thời khơi dậy truyền thống dân tộc trong mỗi người dân? Đây là nhiệm vụ chung của toàn xã hội và cũng là nhiệm vụ rất quan trọng của ngành bảo tồn bảo tàng. Trải qua 20 năm đổi mới, ngành bảo tàng đã đạt được những bước tiến đáng kể và dần khẳng định được vai trò vị trí của mình. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn khá nhiều tồn tại cần được khắc phuc như chất lượng hoạt động của một số bảo tàng còn ở mức yếu kém, tổ chức quản lý nhiều khi còn chồng chéo

doc25 trang | Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1451 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao, hoàn thiện chiến lược marketing của bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. Đất nước ta từ xưa đến nay đã trải qua liên tiếp các cuộc chiến tranh mà hậu quả chúng để lại là vô cùng nghiêm trọng. Mặc dù vậy trong những năm gần đây nhờ chính sách của Đảng và Nhà nước, sự cố gắng của toàn thể nhân dân. Đất nước ta đã dần thay da đổi thịt, chuyển từ chế độ bao cấp sang nền kinh tế thị trường, đời sống nhân dân không ngừng được nâng cao, cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, xu hướng toàn cầu hóa… xong mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng tác động mạnh mẽ tới mọi tầng lớp trong xã hội nhất là thế hệ trẻ, điều này khiến cho nhiều nét văn hóa truyền thống của dân tộc bị mai một, quên lãng. Một câu hỏi được đặt ra là: Chúng ta cần làm gì để giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc đồng thời khơi dậy truyền thống dân tộc trong mỗi người dân? Đây là nhiệm vụ chung của toàn xã hội và cũng là nhiệm vụ rất quan trọng của ngành bảo tồn bảo tàng. Trải qua 20 năm đổi mới, ngành bảo tàng đã đạt được những bước tiến đáng kể và dần khẳng định được vai trò vị trí của mình. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn khá nhiều tồn tại cần được khắc phuc như chất lượng hoạt động của một số bảo tàng còn ở mức yếu kém, tổ chức quản lý nhiều khi còn chồng chéo… Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam được đánh giá là một trong những bảo tàng hoạt động hiệu quả nhất Việt Nam. Có được thành quả đó là nhờ vào sự nỗ lực tìm tòi, nghiên cứu, sáng tạo của tập thể cán bộ nhân viên bảo tàng; sản phẩm dịch vụ bảo tàng đáp ứng được nhu cầu tìm hiểu văn hóa Việt Nam; cùng với mô thức quản lý hiện đại khoa học và chiến lươc maketing hỗn hợp… Với mong muốn làm cho bao tàng hoạt động ngày càng hiệu quả hơn, người viết đã mạnh dạn chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm nâng cao, hoàn thiện chiến lược marketing của bảo tàng Dân tộc học Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. Dựa trên cơ sở lý luận kết hợp với phân tích thực trạng việc vận dụng chiến lược marketing trong bảo tàng, từ đó đưa ra nhận xét đánh giá và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao, hoàn thiện chiến lược marketing của bảo tàng Dân tộc học Việt Nam hiện tại và trong tương lai. 3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu. Đề tài phân tích những nội dung cơ bản, đưa ra nhận xét có tính chất định hướng về chiến lược marketing của bảo tàng Dân tộc học Việt Nam. 4. Phương pháp nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu tài liệu. Phương pháp phân tích tổng hợp. Phương pháp quan sát, khảo sát thực tế. Phương pháp phỏng vấn. 5. Bố cục của đề tài. Đề tài ngoài phần mở đầu và phần kết luận, gồm 3 chương. Chương I: Marketing và vai trò của marketing trong hoạt động bảo tàng. 1.1 Khái niệm marketing, marketing bảo tàng. 1.2 Vai trò của marketing đối với hoạt động bảo tàng. 1.3 Bản chất của sản phẩm dịch vụ bảo tàng. Chương II: Chiến lược marketing hỗn hợp của bảo tàng Dân tôc học Viêt Nam. 2.1 Vài nét về bảo tàng dân tộc học Việt Nam. 2.2 Phân đoạn thị trường. 2.3 Chiến lược marketing hỗn hợp. Chương III: Một số nhận xét và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác marketing của bảo tàng Dân tộc học Việt Nam. 3.1 Nhận xét. 3.2 Giải pháp. CHƯƠNG I: MARKETING VÀ VAI TRÒ CỦA MARKETING TRONG HOẠT ĐỘNG BẢO TÀNG 1.1 Khái niệm marketing, marketing bảo tàng. Trong khoa học hành vi thì marketing có lẽ là một trong những ngành non trẻ nhất, lý thuyết marketing xuất hiện đầu tiên ở Mỹ vào những năm đầu thế kỷ XX, nguyên nhân sâu xa làm xuất hiện marketing là cạnh tranh. Trong thực tiễn hành vi marketing xuất hiện rõ từ khi có nền đại công nghiệp cơ khí phát triển thúc đẩy nhanh sức sản xuất và tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa hơn. Khi đó buộc các nhà sản xuất phải có những biện pháp tốt hơn để tiêu thụ hàng hóa. quá trình đó làm marketing ngày càng phát triển và là cơ sở để hình thành một khoa học hoàn chỉnh về marketing. Cho tới nay đã có khá nhiều những công trình nghiên cứu về maketing và nó trở thành môn học trong nhiều trường đại học. Chúng ta có thể khái quát quá trình phát triển của marketing thành hai thời kì: Từ đầu thế kỷ XX đến thập niên 1960 (thời kì marketing được coi là ngành ứng dụng của khoa học kinh tế); từ 1960 đến đầu thế kỉ XXI (thời kì marketing được coi là ngành ứng dụng của khoa học hành vi). Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về marketing, điều này tùy thuộc vào góc độ tiếp cận. Theo Drucker: Marketing là ngành thiết lập, duy trì và củng cố các mối quan hệ với khách hàng và những đối tác có liên quan để làm thỏa mãn mục tiêu của những thành viên này. Theo Hiệp hội marketing Hoa Kỳ: Marketing là quá trình hoạch định và quản lý việc định giá, chiêu thị và phân phối các ý tưởng hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích tạo ra các giao dịch để thỏa mãn những mục tiêu của cá nhân, của tổ chức và của xã hội. Có ý kiến khác lại cho rằng: Marketing là một quá trình xúc tiến với thị trường nhằm thỏa mãn những nhu cầu và mong muốn của mọi người; Hay marketing là một dạng hoạt động của con người nhằm thỏa mãn những nhu cầu và mong muốn thông qua trao đổi. Theo Học viện marketing Malaysia: Marketing là nghệ thuật kết hợp, vận dụng các nỗ lực thiết yếu nhằm khám phá, sáng tạo, thỏa mãn và gợi lên những nhu cầu của khách hàng để tạo ra những lợi nhuận. Tuy có rất nhiều những định nghĩa khác nhau về marketing nhưng trong lĩnh vực bảo tàng thì định nghĩa của Học viện Malaysia được xem là phù hợp hơn cả. Từ đó chúng ta có thể hiểu: Marketing trong lĩnh vực bảo tàng là nghệ thuật kết hợp, vận dụng các nỗ lực thiết yếu nhằm khám phá, sáng tạo và gợi lên những nhu cầu của khách tham quan, qua đó có thể đạt được những mục đích của bảo tàng. Hoặc: Marketing bảo tàng là các hoạt động nhằm nắm bắt nhu cầu của thị trường và khách tham quan bảo tàng để xác lập biện pháp thỏa mãn một cách tốt nhất những nhu cầu mong muốn của họ đồng thời đạt được những mục đích của bảo tàng. 1.2 Vai trò của marketing đối với hoạt động bảo tàng. Vấn đề khách tham quan có ý nghĩa rất quan trong trong công tác bảo tàng, đồng thời đây cũng là bộ phận quan trọng nhất của hoạt động marketing – tiếp thi bảo tàng mà mục tiêu là xây dựng mối quan hệ giữa bảo tàng với khách tham quan. Khách tham quan gồm có khối khách trong nước và khối khách nước ngoài, mỗi khối lại chia thành nhiều bộ phận khác nhau. Khách trong nước phần lớn là công nhân, cán bộ viên chức nhà nước, học sinh, sinh viên, bộ đội, nông dân...Họ có nhu cầu tìm hiểu lịch sử, văn hóa phong tục tập quán của các dân tộc. Còn khách nước ngoài cũng rất đa dạng có thể là từ các tổ chức chính phủ, tổ chức phi chính phủ, các cơ sở kinh tế, khách du lịch… Họ có nhu cầu tham quan du lịch, tìm hiểu lịch sử, bản sắc văn hóa Việt Nam. Vì vậy bảo tàng cần có chiến lược marketing để thu hút khách tham quan trong và ngoài nước. Chính sách tiếp thị của bảo tàng càng tích cực và phù hợp thì càng đạt hiệu quả cao. Điều này không chỉ thể hiên qua số lượng khách tham quan mà còn thể hiện ở những khía cạnh khác như uy tín, danh tiếng của bảo tàng hay hiệu quả hoạt động của bảo tàng… Như để tổ chức một chương trình trưng bày, triển lãm thì ngoài việc làm tốt các khâu chuẩn bị từ thời gian, địa điểm trương trình diễn ra, dàn dựng chương trình, phân công công việc... thì việc giới thiệu quảng bá chương trình đó tới công chúng là không thể thiếu, thông qua băng rôn, khẩu hiệu, các phương tiện truyền thanh, truyền hình, internet, giấy mời… Bên cạnh đó, thông qua tiếp thị sẽ giúp bảo tàng hạn chế được hiện tượng tham quan theo mùa của khách. Cũng cần thấy rằng hiện nay nhu cầu của khách tham quan bảo tàng ngày một tăng nhanh, nên nếu làm tốt công tác marketing sẽ giúp bảo tàng khai thác được “nguồn dự trữ” này một cách hiệu quả, đồng thời góp phần nâng cao dân trí xã hội. Ta hãy thử hình dung giữa không khí oi bức của thủ đô Hà Nội khi hạ về mà lại được tận hưởng cái mát mẻ, thoáng đãng cùng rất nhiều các giá trị văn hóa của cộng đồng các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam tại bảo tàng Dân tộc học thì còn gì bằng nữa? 1.3 Bản chất của sản phẩm dịch vụ bảo tàng. Các cuộc trưng bày phục vụ khách tham quan bảo tàng là một sản phẩm dịch vụ đặc biệt mang tính sự nghiệp văn hóa, có mục đích cao nhất là mục đích giáo dục. Lợi nhuận của bảo tàng được đo bằng số lượng khách tham quan tới hưởng thụ dịch vụ. Các cuộc trưng bày phục vụ khách của bảo tàng trước hết là sản phẩm văn hóa nhưng nó cũng thuộc vào lĩnh vực dịch vụ, là một sản phẩm dịch vụ đặc biệt bởi vậy nó cũng có bản chất một sản phẩm dịch vụ. “Dịch vụ là quá trình hoạt động bao gồm các nhân tố không hiện hữu, giải quyết các mối quan hệ giữa người cung cấp với khách hàng hoặc tài sản của khách hàng mà không có sự thay đổi quyền sở hữu. Sản phẩm dịch vụ có thể trong phạm vi hoặc vượt quá phạm vi của sản phẩm vật chất”. Chúng ta thấy rằng dịch vụ phải gắn với hoạt động tạo ra nó. Khi tham quan một cuộc trưng bày của bảo tàng, khách tham quan có thể nhận biết được nội dung và đạt được mục đích tìm hiểu, nghiên cứu, cảm nhận được cái hay cái đẹp, những điều lý thú bổ ích nhưng không ai có thể cầm chắc được nó. Sản phẩm dịch vụ bảo tàng nằm trong trạng thái vật chất , khách tham quan có thể nhìn, sờ thấy hiện vật trưng bày, nghe được lời thuyết minh của hướng dẫn viên. Khi sản phẩm dịch vụ bảo tàng vượt quá gới hạn vật chất lan vào các trạng thái tinh thần thì khách tham quan sẽ thấy xúc động trước cái hay, cái đẹp của cuộc trưng bày. Dịch vụ là một quá trình hoạt động diễn ra theo một trình tự bao gồm nhiều khâu, nhiều bước khác nhau. Mỗi khâu mỗi bước có thể là những dịch vụ nhánh hoặc dịch vụ độc lập với dịch vụ chính, khi khách vào tham quan bảo tàng, khách sẽ được tìm hiểu, quan sát, lắng nghe thuyết minh. Vậy chất lượng của cuộc trưng bày, thái độ của hướng dẫn viên sẽ là dịch vụ chính của bảo tàng. Trong bảo tàng khách tham quan có thể vào nhà ăn để uống cà phê, nước giải khát, có thể mua hàng lưu niệm ở Shop của bảo tàng, đó là những dịch vụ phụ. Mỗi loại dịch vụ đều mang lại cho người tiêu dùng một giá trị nào đó, giá trị dịch vụ bảo tàng gắn với lợi ích của khách tham quan nhận được từ dịch vụ bảo tàng. Nếu khách tham quan tiêu dùng toàn bộ các dịch vụ của bảo tàng , họ sẽ nhận được những giá trị khác nhau của hệ thống dịch vụ đó, những giá trị của hệ thống dịch vụ đó gọi là chuỗi giá trị. Trong chuỗi giá trị đó, có giá trị của dịch vụ chính mang lại lợi ích cơ bản có giá trị về tư tưởng, văn hóa cho khách tham quan. Lợi ích của khách tham quan có thể đáp ứng bằng mục đích nghiên cứu, mục đích quan sát, tìm hiểu, mục đích vui chơi khám phá, giáo dục. Tương tự, giá trị dịch vụ phụ do những hoạt động phụ trợ tạo nên và mang lại lợi ích phụ thêm. Bên cạnh chuỗi giá trị chung còn chuỗi giá trị riêng của nhà cung cấp, thiết kế, trang bị bảo tàng, cách bố chí xếp đặt hiện vật, cảnh quan môi trường, các cuộc trưng bày không thường xuyên… đều mang lại giá trị khác nhau cho bảo tàng, ngoài ra còn có trình độ kỹ năng của đội ngũ cán bộ nhân viên bảo tàng. Tất cả chuỗi giá trị trên không chỉ tạo ra giá trị khác biệt cho bảo tàng mà còn tạo ra vị thế cạnh tranh cho các bảo tàng với nhau. CHƯƠNG II: CHIẾN LƯỢC MARKETING HỖN HỢP CỦA BẢO TÀNG DÂN TỘC HỌC VIỆT NAM 2.1 Vài nét về Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam. Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam tọa lạc trên một khu đất rộng cạnh đường Nguyễn Văn Huyên, phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, Hà Nội. Nằm trong một không gian rộng rãi, thoáng đãng với 3 mặt là cánh đồng, một mặt tiếp giáp với hồ Nghĩa Tân qua một con đường rộng. Với vị trí đặc biệt đó đã tạo ra vị thế không nhỏ cho bảo tàng dân tộc học, giải quyết được mối quan hệ giữa yếu tố tự nhiên và yếu tố nhân tạo (kiến trúc, các hạng mục công trình). Các yếu tố này bổ xung hỗ trợ cho nhau nâng cao giá trị văn hóa, thẩm mỹ cho bảo tàng. Bảo tàng dân tộc học thuộc loại hình bảo tàng khoa học xã hội, đây là nơi lưu giữ, trưng bày nhiều hiện vật quý về văn hóa của 54 dân tộc trên lãnh thổ Viêt Nam. Ngay từ năm 1981, Nhà nước ta đã chủ trương xây dựng một bảo tàng dân tộc học tại thủ đô Hà Nội. Công trình bảo tàng chính thức được phê duyệt luận chứng kinh tế kỹ thuật ngày 14/2/1987 và được Nhà nước cấp đất xây dựng. Ngày 24/10/1995 Thủ tướng chính phủ ra quyết định số 689/TTg về việc thành lập bảo tàng Dân tộc học Việt Nam. Ngày 12/11/1997 trong không khí tưng bừng của Hội nghị các nước nói tiếng Pháp, bảo tàng Dân tộc học đã vinh dự được ngài Tổng thống nước Cộng hòa Pháp Jacques Rence Chirac và bà Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình cắt băng khánh thành. Bảo tàng lấy tên giao dịch quốc tế là “Museum of Ethonology”. Bảo tàng Dân tộc học do kiến trúc sư Hà Đức Linh (người dân tộc Tày – công ty tư vấn thiết kế xây dựng nhà ở và công trình công cộng thuộc Bộ xây dựng) thiết kế. Thiết kế nội thất do kiến trúc sư người Pháp là Veronique Dofful thiết kế. Toàn bộ công trình bảo tàng gồm 2 khu vực chính: Khu trưng bày trong nhà và hệ thống kho bảo quản; khu trưng bày ngoài trời và khu nhà ăn; ngoài ra còn cơ sở nghên cứu của các phòng nghiệp vụ. Nhìn từ cổng vào ta thấy hai bên là phòng bán vé và phòng bảo vệ, shop hàng lưu niệm, tiếp theo là một khoảng sân rộng mà mỗi bên đều là vườn hoa cây cảnh. Lối và nhà trưng bày đi qua một cây cầu bắc qua hồ nhân tạo, hồ hình bán nguyệt ôm lấy phía trước nhà trưng bày. Nổi bật là kiến trúc nhà trưng bày được thiết kế theo mô hình trống đồng, xây dựng trong một quần thể kiến trúc hình tròn dưới một mái duy nhất, kiến trúc nhà bảo tàng vừa mang nét cổ truyền dân tộc vừa mang tính hiện đại. Khu trưng bày ngoài trời là khoảng không gian vô cùng rộng lớn với kiến trúc nhà của một số dân tộc tiêu biểu: Việt, Chăm, Hà nhì, Tày, Êđê... Còn về cơ cấu tổ chức thì bảo tàng gồm có Ban giám đốc: một giám đốc, hai phó giám đốc; Hội đồng khoa học; cùng với 15 phòng ban chức năng... 2.2 Phân đoạn thị trường. Công chúng là một yếu tố quan trọng trong việc đưa ra các chiến lược marketing của bảo tàng. Phân đoạn thị trường của bảo tàng chính là phân loại công chúng, xem xét phân tách từng nhóm khách tham quan hiện tại và tiềm năng, tìm hiểu nhu cầu của từng nhóm khách tham quan, đưa ra những quyết định nhằm thỏa mãn nhu cầu của họ. Điều này khiến cho bảo tàng đến gần hơn với công chúng, thu hút số khách tham quan tới bảo tàng ngày càng nhiều hơn. Hiện nay bảo tàng Dân tộc học Việt Nam có hai nhóm khách tham quan chính: a) Nhóm khách tham quan cá nhân: (Bao gồm du khách Việt Nam và nước ngoài). Nhóm khách tham quan là sinh viên, cán bộ nghiên cứu giảng dạy tại các trường đại học, các nhà khoa học: Đây là đối tượng khách tham quan có trình độ học vấn cao về lĩnh vực dân tộc học và các lĩnh vực khác, mục đích tới bảo tàng là để nghiên cứu tìm hiểu chuyên sâu về lĩnh vực mà họ quan tâm. Họ đến bảo tàng khá thường xuyên, xem xét kĩ lưỡng quá trình bảo tồn lưu giữ hiện vật, giá trị văn hóa tiêu biểu ở các hiện vật, các thủ pháp trưng bày, và tất cả các vấn đề thuộc chuyên môn của bảo tàng. Để chinh phục đối tượng khách tham quan này bảo tàng cần chú ý tới những ý kiến đóng góp của họ trong các lĩnh vực bảo tàng. Việc phát triển hệ thống thư viện, ấn phẩm phục vụ nghiên cứu, sưu tầm hiện vật… là các vấn đề mà bảo tàng quan tâm. Nhóm khách tham quan là những người dân bình thường với trình độ hiểu biết về dân tộc học có hạn, bao gồm: Công nhân, nông dân, học sinh... Họ đến với bảo tàng nhằm mục đích tìm hiểu về truyền thống dân tộc, và để vui chơi thư giãn. Với những đối tượng này nên đẩy mạnh công tác truyền thông quảng cáo qua tờ rơi, tờ gấp, các phương tiện thông tin đại chúng để lôi kéo họ tới bảo tàng. Trong qúa trình cung ứng các dịch vụ bảo tàng, thái độ nhiệt tình niềm nở của các hướng dẫn viên bảo tàng là rất quan trọng, lời thuyết minh ngắn gọn, chính xác rõ ràng. Đối với khách nước ngoài tới Việt Nam để tìm hiểu, khám phá những nét văn hóa truyền thống dân tộc, thưởng thức những loại hình văn hóa độc đáo của Việt Nam thì phong cách hướng dẫn viên càng có vai trò quan trọng. Những đối tượng này bảo tàng cần có chiền lược riêng về giá, giao tiếp khuyếch trương cũng như bổ xung các loại hình dịch vụ phụ, hình thức chiếu phim dân tộc học cũng góp phần trong công tác giáo dục đối tượng khách tham quan này. b) Nhóm khách tham quan là những tổ chức bao gồm: - Trường học: Đối tượng chính là các giáo viên, lãnh đạo nhà trường. - Các công ty du lịch: Đối tượng chính là hướng dẫn viên du lịch. - Các khách sạn nhà hàng: Đối tượng chính là lễ tân. - Cơ quan thông tấn báo chí: Đối tượng chính là phóng viên, cán bộ truyền hình. - Các tổ chức chính phủ vá phi chính phủ. - … Những đối tượng khách tham quan trên nếu xét ở góc độ cá nhân, họ thuộc một trong hai nhóm khách tham quan cá nhân. Có nghĩa là họ cũng quan tâm tới chất lượng trưng bày hiện vật của bảo tàng, nhưng hơn thế nữa họ còn xem xét tất cả những giá trị lợi ích nhằm đat được các mục đích khác nhau ngoài mục đích tham quan. Đối với nhà trường: giáo viên xem xét dựa trên lợi ích của học sinh, buổi tham quan có bổ ích, lý thú hay không? Có đạt được mục tiêu của nhà trường hay không ? Đối với các công ty du lịch: Hướng dẫn viên xem xét, cân nhắc để thực hiện tour du dịch của bản thân và công ty sao cho hiệu quả. Đối với các khách sạn nhà hàng: Lễ tân xem xét cân nhắc để gới thiệu với khách hàng. Đối với các cơ quan thông tấn báo chí: Họ cân nhắc xem cuộc trưng bày có ý nghĩa văn hóa như thế nào, có mang tính thời sự hay không? Để chuẩn bị cho một bài viết hay một buổi truyền hình. Như vậy đối với công tác truyền thông của bảo tàng, nhóm khách hàng là các tổ chức có vai trò đặc biệt quan trọng, họ không những là đối tượng khách tham quan của bảo tàng mà còn giữ vị trí trung gian truyền thông marketing. Thông qua họ khách tham quan trong và ngoài nước sẽ biết tới hình ảnh của bảo tàng dân tộc học Việt Nam và sẽ tìm tới bảo tàng nhiều hơn. Để đối tượng khách tham quan này thực sự trở thành những người bạn thân thiết của bảo tàng, trở thành những trung gian truyền thông marketing tích cực cho bảo tàng thì ngoài nhiệm vụ ngày càng nâng cao hơn nữa chất lượng phục vụ của bảo tàng, một trong những chiến lược marketing trong tương lai cần chú ý là: cần có chương trình chăm sóc khách hàng đặc biệt, cần có những chính sách, chế độ đãi ngộ cho các đối tượng này. Đây chính là lực lượng khách tham quan tiềm năng mà chúng ta cần tập trung phát triển. Một thành công trong chiến lược phát triển marketing của bảo tàng Dân tộc học Việt Nam là đã tạo được một hệ thống trung gian marketing rất tích cực. Đó là “Hội những người bạn của bảo tàng dân tộc học Việt Nam” thành lập vào ngày 18/5/2003. Qua một vài năm hoạt động Hội đã chứng tỏ được tính tích cực của mình. Những cá nhân, tổ chức tình nguyện tham gia vào hoạt động của bảo tàng, đóng góp một phần về vật chất lẫn tinh thần cho bảo tàng. Ngoài ra họ còn góp phần làm tăng đáng kể số lượng khách tham quan đến bảo tàng. 2.3 Chiến lược marketing hỗn hợp Một chiến lược marketing hỗn hợp của bảo tàng bao gồm 5 yếu tố: sản phẩm, giá, phân phối, khuyếch trương và con người. Năm yếu tố này có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại với nhau, tạo lên hiệu quả cho chiến lược marketing hỗn hợp. Một chương trình trưng bầy của bảo tàng muốn được khách tham quan biết và đến với chương trình cần có những quyết định về kênh phân phối “áp dụng các biện pháp để thông tin về chương trình dễ dàng đến với khách tham quan hơn”, quyết định về khuyếch trương (sử dụng các công cụ truyền thông marketing, quảng cáo để truyền bá những thông tin về ưu điểm của chương trình và thuyết phục khách tham quan đến bảo tàng) tuy nhiên khi đã thuyết phục được khách tham quan rồi thì vấn đề đặt ra là liệu khách tham quan đã cảm thấy hài lòng với nội dung chương trình chưa, làm thế nào để có thể thỏa mãn được nhu cầu của từng đối tượng khách tham quan, để du khách cảm thấy hài lòng và lại mong muốn tham dự các chương trình sau. Đây chính là các quyết định về sản phẩm. Các quyết định đúng về giá của sản phẩm sẽ đem lại một phần hiệu quả kinh tế cho bảo tang. 2.3.1 Các quyết định về sản phẩm. Sản phẩm dịch vụ chính -Trưng bầy thường xuyên: gồm phòng trưng bầy trong nhà và phòng trưng bầy ngoài trời. Phòng trưng bầy trong nhà trưng bầy những hiện vật là di sản