Đề tài Một số vấn đề về quy trình hoàn thuế giá trị gia tăng ở cục thuế Vĩnh Phúc

Luật thuế giá trị gia tăng được Quốc Hội thông qua và có hiệu lực thực hiện từ 1/1/1999. Ngoài mục đích đưa chính sách thuế của nước ta từng bước hoà nhập với chính sách thuế của khu vực và trên thế giới, việc áp dụng thuế giá trị gia tăng còn vươn tới cải cách hệ thống thuế khoá thích hợp cho việc chuyển nền kinh tế từ kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Thuế giá trị gia tăng là một sắc thuế đã được hơn 100 nước trên thế giới sử dụng và thu được những thành công to lớn nhưng điều đó không có nghĩa chúng ta áp dụng sắc thuế này là sẽ thu được thành công một cách dễ dàng. Trên thực tế, qua hơn 5 năm thực hiện ở nước ta, thuế GTGT đã chứng tỏ tính ưu việt của mình so với các sắc thuế khác. Tuy nhiên những Nghị Định, Thông Tư hướng dẫn thực hiện về những nội dung liên quan đến sắc thuế này là rất lớn và không ngừng được sửa đổi, bổ sung, ban hành đã cho thấy tính phức tạp trong khi thực hiện Luật thuế này. Một trong những nội dung gây nhiều khó khăn, phức tạp trong khi thực hiện Luật thuế được xã hội rất quan tâm chú ý là công tác hoàn thuế giá trị gia tăng. Thực hiện công tác hoàn thuế, các Cục thuế luôn phải chịu áp lực đó là thời gian hoàn trả cho doanh nghiệp phải rút ngắn tới mức thấp nhất và độ chính xác của những số tiền quyết định hoàn trả đó phải ở mức

doc68 trang | Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1768 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề về quy trình hoàn thuế giá trị gia tăng ở cục thuế Vĩnh Phúc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN HÀ NỘI KHOA TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP Đề tài : MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ QUY TRÌNH HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ở CỤC THUẾ VĨNH PHÚC. Giáo viên hướng dẫn : GS-TS Cao Cự Bội Cán bộ hướng dẫn : Th.s Lê Duy Thành Sinh viên thực tập : Phạm Gia Long Lớp : Tài Chính Công A K41 Đơn vị thực tập : Cục thuế Vĩnh Phúc VĨNH PHÚC 05/2004 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ QUY TRÌNH HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ở CỤC THUẾ VĨNH PHÚC HIỆN NAY. MỞ ĐẦU CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG VÀ QUY TRÌNH HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG 1.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG 1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của thuế giá trị gia tăng 1.1.2 Các phương pháp tính và đặc điểm của thuế giá trị gia tăng 1.1.3 Tính tất yếu của của việc áp dụng thuế giá trị gia tăng tại Việt Nam 1.2 QUY TRÌNH HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ở VIỆT NAM 1.2.1 Bản chất, vai trò và ý nghĩa của việc hoàn thuế giá trị gia tăng 1.2.2 Đối tượng và các trường hợp được hoàn thuế giá trị gia tăng 1.2.3 Quy trình hoàn thuế giá trị gia tăng 1.3 CÁC VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG VIỆC THỰC HIỆN QUY TRÌNH HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG HIỆN NAY TẠI CỤC THUẾ VĨNH PHÚC 2.1 KẾT QUẢ THỰC HIỆN LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG TẠI CỤC THUẾ VĨNH PHÚC TRONG MỘT SỐ NĂM GẦN ĐÂY 2.1.1 Giới thiệu khái quát về Cục thuế Vĩnh phúc 2.1.2 Kết quả thực hiện luật thuế giá trị gia tăng tại Cục thuế Vĩnh Phúc trong một số năm gần đây 2.1.3 Những điều kiện cơ bản để thực hiện luật thuế giá trị gia tăng 2.2 THỰC TRẠNG CỦA QUY TRÌNH HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG TẠI CỤC THUẾ VĨNH PHÚC 2.2.1 Những vướng mắc, tồn tại 2.2.2 Những nguyên nhân CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN QUY TRÌNH HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG 3.1 NHỮNG YÊU CẦU ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG 3.2 CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN QUY TRÌNH HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG 3.2.1 Giải pháp từ phía nhà nước 3.2.2 Giải pháp từ phía cơ quan thuế 3.2.3 Giải pháp từ phía đơn vị sản xuất-kinh doanh KẾT LUẬN LỜI MỞ ĐẦU L uật thuế giá trị gia tăng được Quốc Hội thông qua và có hiệu lực thực hiện từ 1/1/1999. Ngoài mục đích đưa chính sách thuế của nước ta từng bước hoà nhập với chính sách thuế của khu vực và trên thế giới, việc áp dụng thuế giá trị gia tăng còn vươn tới cải cách hệ thống thuế khoá thích hợp cho việc chuyển nền kinh tế từ kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Thuế giá trị gia tăng là một sắc thuế đã được hơn 100 nước trên thế giới sử dụng và thu được những thành công to lớn nhưng điều đó không có nghĩa chúng ta áp dụng sắc thuế này là sẽ thu được thành công một cách dễ dàng. Trên thực tế, qua hơn 5 năm thực hiện ở nước ta, thuế GTGT đã chứng tỏ tính ưu việt của mình so với các sắc thuế khác. Tuy nhiên những Nghị Định, Thông Tư hướng dẫn thực hiện về những nội dung liên quan đến sắc thuế này là rất lớn và không ngừng được sửa đổi, bổ sung, ban hành đã cho thấy tính phức tạp trong khi thực hiện Luật thuế này. Một trong những nội dung gây nhiều khó khăn, phức tạp trong khi thực hiện Luật thuế được xã hội rất quan tâm chú ý là công tác hoàn thuế giá trị gia tăng. Thực hiện công tác hoàn thuế, các Cục thuế luôn phải chịu áp lực đó là thời gian hoàn trả cho doanh nghiệp phải rút ngắn tới mức thấp nhất và độ chính xác của những số tiền quyết định hoàn trả đó phải ở mức cao nhất, điều này có liên quan đến lợi ích của cả hai bên: lợi ích quốc gia và lợi ích của doanh nghiệp. Đây là sắc thuế mới lần đầu áp dụng ở Việt Nam, công tác hoàn thuế lại là công tác phức tạp, có liên quan đến nhiều khâu, nhiều quá trình. Thêm vào đó, điều kiện quản lý còn nhiều hạn chế nên những khó khăn, vướng mắc trong khi thực hiện là điều không thể tránh khỏi. Xuất phát từ những khó khăn, vướng mắc trong công tác hoàn thuế và sự quan tâm vào lĩnh vực hoàn thuế giá trị gia tăng, đề tài: “Một số vấn đề về quy trình hoàn thuế giá trị gia tăng ở nước ta hiện nay” đã được chọn làm chuyên đề tốt nghiệp. Nội dung chuyên đề được trình bày theo bố cục gồm có 3 chương sau: CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG VÀ QUY TRÌNH HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG HIỆN NAY TẠI CỤC THUẾ VĨNH PHÚC CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN QUY TRÌNH HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG VÀ QUY TRÌNH HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG 1.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG 1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển Thuế GTGT có nguồn gốc từ thuế doanh thu được nghiên cứu, áp dụng từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918) với mục đích động viên sự đóng góp rộng rãi của đông đảo quần chúng nhân dân cho nhu cầu chi tiêu của Nhà nước để nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh. Thuế doanh thu ra đời ở Pháp từ 1917. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, thuế doanh thu cũng xuất hiện nhược điểm đó là hiện tượng thuế đánh trùng lên thuế. Vì vậy, yêu cầu xuất hiện một loại thuế khác tiến bộ hơn để thay thế thuế doanh thu. Trong quá trình nghiên cứu tìm tòi đó, vào đầu những năm 50, một người Đức tên là: Carl FRiedrich von Simens đã nghĩ ra một chính sách thuế mới có thể thay thế cho thuế doanh thu. Đó là thuế GTGT tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ khi qua mỗi công đoạn từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Tên tiếng Anh: Value Added Tax. Tên viết tắt là VAT. Tên tiếng Pháp: Taxe sur la Valeur Ajoutee. Tên viết tắt là TVA. Pháp là nước đầu tiên áp dụng thuế GTGT (1/7/1954) vào hệ thống thuế khoá của mình bởi Chính phủ Pháp rất quan tâm tới lĩnh vực tài chính mà trọng tâm là đổi mới thuế gián thu trong khi đó nền kinh tế của Pháp là nước có nền công nghiệp phát triển cao. Việc áp dụng thuế GTGT ở Pháp đã thu được nhiều thành quả to lớn và cho đến nay Pháp vẫn là nước đạt đỉnh cao nhất về sự hoàn thiện loại thuế này. Tuy nhiên, khi mới ra đời, thuế GTGT chỉ được áp dụng ở một số ngành nghề cá biệt. Đến năm 1968 mới áp dụng cho mọi ngành nghề, trong mọi lĩnh vực. Năm 1953, ở Nhật Bản cũng nghiên cứu thuế GTGT và dự thảo ra một bộ luật về thuế này nhưng không được quốc hội thông qua. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, thuế GTGT đã ngày càng chứng tỏ được tác dụng của mình và ngày càng có nhiều nước áp dụng sắc thuế này trong hệ thống thuế khoá của mình. Từ năm 1954 đến năm 1988 chỉ có 47 nước áp dụng thì đến năm 1991 đã có hơn 100 nước áp dụng loại thuế này. Nhiều nước nhờ áp dụng sắc thuế này đã thu được những tiến bộ to lớn về khoa học kỹ thuật, cải thiện nền kinh tế đất nước như Anh với thuế suất 15%, Đan Mạch với thuế suất 25%, Thuỵ Điển với 3 mức thuế suất: 6%, 15%, 22%… Luật thuế GTGT đã được Quốc hội Việt Nam thông qua và có hiệu lực thi hành từ 1/1/1999 do yêu cầu thích ứng với việc chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa và tham gia vào tiến trình hội nhập với nền kinh tế của khu vực và thế giới. 1.1.2 Phương pháp tính và đặc điểm của thuế giá trị gia tăng * Các phương pháp tính thuế giá trị gia tăng Thuế GTGT chỉ đánh vào phần giá trị tăng lên của hàng hoá, dịch vụ ở mỗi công đoạn từ sản xuất, lưu thông cho đến khâu tiêu dùng. Vì vậy nó không gây ra sự trùng lặp trong tính thuế. Một sản phẩm tuy qua nhiều khâu sản xuất nhưng bộ phận giá trị tăng thêm của khâu nào thì nộp thuế ở khâu đó, sang khâu sau thuế không tính trên phần giá trị đó nữa. Để thực hiện việc đánh thuế chỉ dựa trên phần giá trị tăng thêm. Theo lý thuyết, trên thế giới có bốn phương pháp tính thuế GTGT như sau: - Phương pháp 1: Phương pháp cộng trực tiếp: Thuế GTGT phải nộp = Lợi nhuận + Tiền công x Thuế suất Cách tính thuế này rất phù hợp với cách lý giải về giá trị hàng hoá của Mác. Theo Mác, giá trị hàng hoá chính là c + v + m, khi so sánh m với c + v thì m mang hình thái biến tướng thành lợi nhuận và lợi nhuận m cộng với tiền công v chính là phần giá trị tăng thêm của hàng hoá dịch vụ qua công đoạn đó. - Phương pháp 2: Phương pháp cộng gián tiếp Thuế GTGT phải nộp = Lợi nhuận X Thuế suất + Tiền công x Thuế suất Người ta sử dụng phương pháp này khi quy định thuế suất của tiền công và lợi nhuận khác nhau. Nếu thuế suất của tiền công và lợi nhuận bằng nhau thì đó chính là phương pháp cộng trực tiếp. Phương pháp 1 và phương pháp 2, mặc dù thuế đã tính được trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ nhưng đối với người nộp thuế, người ta có thể coi thuế này đánh vào lợi nhuận của họ và tiền công mà họ trả cho người lao động. Thuế đánh vào tiền công chính là đánh vào việc sử dụng lao động, thuế đánh vào lợi nhuận sẽ thì tạo ra cảm giác phải nộp 2 lần thuế thu nhập doanh nghiệp. Điều này gây nên tâm lý khó chịu cho người nộp thuế và gây khó khăn cho việc thu nộp thuế. Đối với Nhà nước thì chỉ khi hoàn thành một giai đoạn nào đó, thường là một năm, mới tính chính xác được lợi nhuận và khi đó mới quyết toán được thuế GTGT phải nộp dẫn tới việc thu thuế của Nhà nước không kịp thời. - phương pháp 3: Phương pháp trừ trực tiếp Thuế GTGT phải nộp = Doanh số bán ra - Doanh số mua vào x Thuế suất Phương pháp này tính thuế GTGT một cách đơn giản hơn 2 phương pháp trên, cơ quan thuế chỉ cần quản lý doanh số mua vào và bán ra là đủ (doanh số mua vào và bán ra tính theo giá chưa có thuế GTGT để tránh tình trạng thuế trùng lên thuế) - Phương pháp 4: Phương pháp trừ gián tiếp Thuế GTGT phải nộp = Doanh số bán ra x Thuế suất đầu ra - Doanh số mua vào x Thuế suất đầu vào Phương pháp này thuận lợi cho việc tính thuế khi thuế suất thuế GTGT đầu ra và đầu vào khác nhau. Đây là phương pháp tính thuế được áp dụng ở hầu hết các nước trên thế giới bởi rất ít nước áp dụng một mức thuế suất. Trong 4 phương pháp tính thuế GTGT nói trên thì 3 phương pháp đầu tiên trong thực tế rất ít áp dụng, đa số nước trên thế giới sử dụng phương pháp trừ gián tiếp – phương pháp hoá đơn - do những ưu điểm của nó so với các phương pháp khác như: che giấu được tiền thuế, tiền thuế do cơ sở sản xuất, kinh doanh phải nộp, thuế được ẩn trong giá bán và người mua phải chịu vì thế không gây nên những phản ứng của cả người nộp thuế và người chịu thuế. Mặt khác thuế GTGT được tính trên doanh thu đầu ra và được trừ phần thuế đã trả ở đầu vào nên chỉ cần tính thuế GTGT đầu ra dựa trên doanh số bán ra căn cứ vào hoá đơn bán hàng và thuế GTGT đầu vào ghi trên hoá đơn mua hàng. Công thức tính thuế GTGT theo phương pháp gián tiếp có thể viết lại như sau: Thuế GTGT phải nộp = Thuế GTGT đầu ra - Thuế GTGT đầu vào Thuế GTGT đầu ra = Giá bán hàng hoá, dịch vụ x Thuế suất thuế GTGT Thuế GTGT đầu vào căn cứ từ hoá đơn chứng từ ghi số thuế đã nộp từ các khâu trước đó. * Đặc điểm của thuế giá trị gia tăng - Thứ nhất, thuế GTGT là một trong 4 loại thuế gián thu cùng với Thuế tiêu thụ đặc biệt, Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu. Người nộp thuế không đồng thời là người chịu thuế: người nộp thuế là các cơ sở sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ, người chịu thuế là người tiêu dùng cuối cùng. Tổng số thuế GTGT Phải nộp cho 1 SP = Thuế suất x Giá mua của người tiêu dùng cuối cùng - Thứ hai, thuế GTGT có phạm vi thu thuế rất rộng, đối tượng nộp thuế là toàn bộ các cơ sở sản xuất, kinh doanh kể cả gia công, chế biến và hoạt động dịch vụ có thu tiền, thuế GTGT được thu đối với các sản phẩm, dịch vụ tiêu thụ trong nước, kể cả hàng hoá nhập khẩu. Tuy nhiên tuỳ vào Luật thuế GTGT mỗi nước, một số hàng hoá dịch vụ được miễn thuế GTGT. Ví dụ như ở nước ta, những hàng hoá mua phục vụ cho mục đích quốc phòng, sản phẩm nông nghiệp chưa qua chế biến, dịch vụ y tế, giáo dục… không phải chịu thuế GTGT. - Thứ ba, dù sản phẩm có trải qua bao nhiêu giai đoạn thì tổng số thuế phải nộp cũng không thay đổi. Đó là số thuế người tiêu dùng cuối cùng phải trả: - Thứ tư, thuế GTGT là loại thuế có tính trung lập cao thể hiện ở chỗ nó không phải là thu nhập hay chi phí của doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ là người thu hộ thuế cho Nhà nước thông qua cơ chế giá, thuế ẩn trong giá hàng hoá và người tiêu dùng phải trả khoản thuế này. Ở nước ta hiện nay, trong quan niệm của nhiều doanh nghiệp vẫn cho đó là một khoản thu nhập, chi phí của của hoạt động sản xuất kinh doanh, hiểu như vậy là không đúng. Thực chất nó chỉ là khoản thu, khoản chi hộ. - Thứ năm, thuế GTGT không đánh vào đầu tư vì thuế nằm ngoài giá trị tài sản cố định và giá thành sản phẩm hàng hoá, dịch vụ. Người mua phải trả thêm tiền thuế GTGT và tiền thuế này sẽ được tách riêng để khấu trừ khi tính thuế GTGT phải nộp ở giai đoạn sau. - Thứ sáu, thuế GTGT được tính dựa trên giá trị sản phẩm hàng hoá và dịch vụ chứ không căn cứ vào hình thái hiện vật cũng như công dụng của chúng. 1.1.3 Tính tất yếu của của việc áp dụng thuế giá trị gia tăng tại Việt Nam Một là: Thuế giá trị gia tăng khắc phục sự trùng lặp của thuế Doanh thu Thuế GTGT đánh vào giá trị tăng thêm của sản phẩm ở từng khâu sản xuất, lưu thông. Thuế Doanh thu lại đánh trên toàn bộ doanh thu của sản phẩm qua mỗi lần chuyển dịch từ khâu sản xuất đến lưu thông. Có sự khác biệt này bởi thuế GTGT có khấu trừ thuế ở giai đoạn trước còn thuế doanh thu thì không. Do có sự khác nhau đó nên tổng số thu của từng sản phẩm dù có trải qua bao nhiêu công đoạn, tập trung sản xuất hay phân tán thì tổng số thuế thu được vẫn không đổi. Ngược lại, số thuế Doanh thu đối với từng sản phẩm phụ thuộc vào sự tổ chức và phân chia các chu trình kinh tế. Sản phẩm hàng hoá càng trải qua nhiều công đoạn sản xuất, kinh doanh lưu thông thì tổng số thuế thu được đối với từng sản phẩm từ khâu đầu tiên tới khâu cuối cùng càng cao. Do đó thuế Doanh thu mà mỗi nhà sản xuất kinh doanh phải nộp không phản ánh được phần giá trị mới sáng tạo mà họ đóng góp cho xã hội, không khuyến khích chuyên môn hoá sản xuất, hạn chế sự phát triển phong phú các ngành, nghề, các loại hình kinh doanh trong nền kinh tế. Để thấy rõ điều này ta hãy xem xét ví dụ sau với thuế suất thuế GTGT 10%. Biểu số 1: Ví dụ tính thuế giá trị gia tăng Đơn vị tính: 1000đồng Ngành kinh doanh Giá đầu vào GTGT Giá đầu ra (giá bán) Thuế tính ở đầu ra Thuế đã nộp ở đầu vào Thuế còn phải nộp ở đầu ra Nhà bán gỗ 1000 100 0 100 Nhà sản xuất đồ gỗ 1000 500 1500 150 100 50 Nhà bán lẻ đồ gỗ 1500 500 2000 200 150 50 Nguồn: Số liệu giả định. Tính thuế GTGT: Tổng số thuế của 3 doanh nghiệp là 100 + 50 + 50 = 200, đúng bằng số thuế người tiêu dùng phải trả: 2000 x 10% = 200 Tính thuế doanh thu: Cũng với những dữ liệu như trên ta tính thuế doanh thu với mức thuế suất 5%: + Thuế doanh thu của người bán gỗ: 1000 x 5% = 50 + Thuế doanh thu của người sản xuất đồ gỗ: (1000 + 500) x 5% = 75 + Thuế doanh thu của người bán lẻ đồ gỗ: (1500 + 500) x 5% = 100 Sự trùng lặp của thuế doanh thu thể hiện ở chỗ người bán gỗ đã chịu thuế doanh thu 50 trên số gỗ bán cho người sản xuất trị giá 1000. Số gỗ này được người sản xuất gỗ mua và sản xuất tăng thêm giá trị là 500, họ bán số hàng này và chịu thuế doanh thu là 1500 x 5% = 75. Như vậy 1000 chi phí đã tính thuế doanh thu cho người bán gỗ bây giờ cộng với phần giá trị tăng thêm để tính thuế doanh thu cho người sản xuất, tình trạng đánh thuế trùng đã xuất hiện. Cứ như vậy những công đoạn sau thì thuế đánh trùng lặp lại càng tăng. Theo ví dụ thì thuế suất thuế doanh thu chỉ là 5% nhưng người tiêu dùng phải trả số tiền là: 50 + 75 + 100 = 225, nhiều hơn so với thuế GTGT với thuế suất 10%. Hai là: tăng cường công tác hạch toán kế toán tại các doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh Khi doanh nghiệp chịu sự điều chỉnh của thuế GTGT Thuế GTGT thì công tác hạch toán kế toán sẽ được đẩy mạnh. Có điều này bởi vì các doanh nghiệp muốn được hoàn thuế sẽ phải chứng minh đầy đủ, rõ ràng các số liệu về hàng hoá, giá cả, ngày giờ của các loại hàng hoá, dịch vụ mua vào, bán ra để làm căn cứ hoàn thuế. Họ phải nghiêm chỉnh thực hiện một cách trung thực bởi cơ quan thuế có thể kiểm tra trước hoặc sau hoàn thuế theo quy định của pháp luật về thuế. Mặt khác, khi công tác hạch toán kế toán được tiến hành đầy đủ sẽ giúp cho doanh nghiệp nắm được thực tế tình hình sản xuất kinh doanh từ đó vạch ra những chiến lược kinh doanh hợp lý nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Ba là: khuyến khích đầu tư, xuất khẩu hàng hoá dịch vụ, bảo hộ sản xuất trong nước Thông qua cơ chế hoàn thuế cho các mặt hàng xuất khẩu và hàng hoá phục vụ cho đầu tư tài sản cố định của doanh nghiệp sẽ thúc đẩy đầu tư, thúc đẩy xuất khẩu. Theo đó, những mặt hàng xuất khẩu chịu mức thuế xuất 0%, có nghĩa là những doanh nghiệp sản xuất loại hàng hoá xuất khẩu sẽ được khấu trừ toàn bộ số thuế GTGT đầu vào hợp lý, hợp lệ để sản xuất nên hàng hoá này. Đối với các tài sản cố định được mua sắm để đầu tư cho sản xuất, kinh doanh cũng được khấu trừ hoàn thuế. Đây có thể được xem như một phương thức hỗ trợ của Nhà nước thông qua chính sách thuế, qua đó làm giảm giá thành của hàng hoá, dịch vụ, nâng cao khả năng cạnh tranh, bảo hộ hàng sản xuất trong nước. Bốn là: Thuế giá trị gia tăng được thực hiện như một công cụ định hướng tiêu dùng, thay đổi cơ cấu đầu tư. Như chúng ta biết, người chịu thuế GTGT là người tiêu dùng cuối cùng. Khi Nhà nước muốn hạn chế hay khuyến khích tiêu dùng một mặt hàng nào đó thì thông qua thuế suất thuế GTGT họ có thể thực hiện được điều này. Thuế GTGT có tính trung lập cao tức là không tác động trực tiếp đến các nhà sản xuất, cung cấp hàng hoá, dịch vụ nhưng nếu người tiêu dùng thay đổi loại hàng hoá, dịch vụ mà họ dùng thì cũng tác động đến nhà sản xuất kinh doanh làm họ thay đổi các danh mục đầu tư, thay đổi cơ cấu trong nền kinh tế. Trên lý thuyết là như vậy nhưng việc thực hiện điều này không dễ dàng bởi việc quyết định đưa ra một mức thuế suất của từng loại mặt hàng có ảnh hưởng lớn đến nhiều yếu tố. Một mức thuế suất được đưa ra yêu cầu đặt ra là phải phù hợp cán cân ngân sách theo quy định của Pháp lệnh ngân sách nhưng cũng đồng thời phải khuyến khích phát triển sản xuất một cách có định hướng. Thuế suất phải được điều chỉnh phù hợp theo từng thời kỳ và có sự thông qua của Quốc Hội chứ không thể tuỳ tiện nâng hay hạ mức thuế suất. Tuy nhiên, để có những giải pháp tình thế thì các nhà hoạch định chính sách có thể điều chỉnh ở mức dưới luật nhưng theo hướng có lợi cho người sản xuất (chỉ hạ mức thuế xuống thấp chứ không nâng lên). Sự thay đổi thuế suất cũng không tác động lớn đối với những mặt hàng thiết yếu. Đối với loại mặt hàng này việc thay đổi thuế suất hầu như không có tác dụng trong định hướng tiêu dùng và thay đổi cơ cấu đầu tư. Năm là: áp dụng thuế giá trị gia tăng góp phần hoà nhập với chính sách thuế của khu vực và thế giới Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi chúng ta không chỉ tham gia vào khu vực ASEAN mà còn phải tham gia vào các tổ chức kinh tế thương mại khác như WTO, APEC và các tổ chức mang tính đa phương khác trong tương lai, trong đó lấy mục tiêu tham gia vào WTO làm định hướng xây dựng các cam kết về thuế quan để thực hiện tự do hoá thương mại hoàn toàn vào năm 2020. Những bước đi để phù hợp với sự hội nhập đó chúng ta đã tham gia các chương trình như Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT) nhằm tiến tới khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), thực hiện những cam kết trong khuôn khổ ASEAN + Trung Quốc – Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc, ký Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa kỳ. Tuy nhiên, việc làm quan trọng nhất trong tiến trình hội nhập này là cải cách hệ thống thuế của mình cho phù hợp với xu thế chung của các nước trong khu vực và trên thế giới, trong đó điều quan trọng vào bậc nhất là đưa thuế GTGT (áp dụng đối với cả hàng nhập khẩu) vào hệ thống thuế khoá của mình bởi sắc thuế này hiện là sắc thuế được sử dụng rộng rãi trên thế giới và đã trở thành một sắc thuế mang tính quốc tế. Ngoài ra còn mở rộng diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt đối với một số mặt hàng nhập khẩu đã làm cho chính sách thuế đánh vào hàng nhập khẩu của Việt Nam phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo điều kiện cho Việt Nam thực hiện những cam kết song phương và đa phương. Những cải c