Đề tài Ngân hàng và các nghiệp vụ ngân hàng

Sau hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước mà thực chất đó là cuộc cải cách sâu sắc bắt đầu bằng cải cách kinh tế đã làm thay đổi theo hướng tích cực mọi mặt của đời sống xã hội. Sự chuyển đổi kinh tế từ bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà Nước theo định hướng XHCN đã hình thành nhiều thành phần kinh tế với các hình thức sở hữu khác nhau. Bên cạnh những thành tựu rất đáng tự hào đã đạt được vẫn còn tồn tại những biểu hiện tiêu cực do mặt trái của cơ chế thị trường mang lại mà nổi cộm lên là vấn đề tình hình tội phạm diễn ra ngày càng phức tạp, nhiều loại tội phạm gia tăng, tính chất, mức độ ngày càng nguy hiểm hơn.Và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là một trong những tội phạm xảy ra khá phổ biến trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường hiện nay. Tội phạm xảy ra đã gây nhiều biến động trong xã hội, làm thiệt hại đến tài sản Nhà Nước, tổ chức cũng như tài sản của công dân, cản trở sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên việc xét xử loại tội phạm này trong thực tiễn còn rất nhiều sai sót, vấn đề sai lầm trong việc xác định tội danh và hình phạt, vấn đề "hình sự hóa" các quan hệ dân sự, quan hệ kinh tế và "phi hình sự hóa" trong đấu tranh chống tội phạm kinh tế trong mấy năm gần đây tuy đã giảm đi rõ rệt nhưng vẫn chưa thực sự chấm dứt và vẫn còn thu hút sự quan tâm của nhiều cấp, nhiều ngành và dư luận xã hội thông qua những buổi tọa đàm. Những vấn đề trên còn tồn tại một phần là do chưa nhận thức đúng đắn quy định của luật pháp về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản để phân biệt giữa tội phạm này với tội phạm khác dẫn đến việc các cơ quan áp dụng pháp luật còn tỏ ra lúng túng trong việc xác định tội danh, hình phạt làm ảnh hưởng đến chất lượng xét xử, chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng và chống tội phạm. Vướng mắc này đặt ra cho các nhà nghiên cứu luật hình sự nhiệm vụ là phải làm rõ về mặt lý luận cũng như bản chất và ranh giới của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản làm cơ sở cho nhận thức thống nhất về vấn đề này trong thực tiễn. Với ý nghĩa phục vụ cho công tác nghiên cứu, với động lực tìm hiểu pháp luật để góp một phần lý luận cho việc nhận thức đúng đắn, thống nhất về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản giúp ích cho công tác đấu tranh phòng và chống tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong tình hình mới, tôi chọn "Tội lạm dụng tín nhiệm nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều 140 Bộ luật hình sự 1999" làm đề tài luận văn tốt nghiệp Đại học Luật của mình. Nội dung của luận văn là nghiên cứu một cách hệ thống tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam và một số vấn đề thực tiễn áp dụng, qua đó đề xuất một số ý kiến nhằm hoàn thiện luật. Để hoàn thành luận văn, chúng tôi đã sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, dựa trên các văn kiện Đại hội Đảng, các văn bản của Nhà nước. Đồng thời luận văn cũng sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chuyên ngành như: hệ thống hóa, so sánh, thống kê số liệu, phân tích thuần túy quy phạm pháp luật. Ngoài lời nói đầu và phần kết luận, luận văn được trình bày với cơ cấu như sau: Chương 1: Lịch sử lập pháp hình sự của Nhà nước ta đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Chương 2: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHSVN năm 1999. Chương 3: Một số vấn đề về thực tiễn xét xử tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

doc64 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1298 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ngân hàng và các nghiệp vụ ngân hàng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Sau hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước mà thực chất đó là cuộc cải cách sâu sắc bắt đầu bằng cải cách kinh tế đã làm thay đổi theo hướng tích cực mọi mặt của đời sống xã hội. Sự chuyển đổi kinh tế từ bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà Nước theo định hướng XHCN đã hình thành nhiều thành phần kinh tế với các hình thức sở hữu khác nhau. Bên cạnh những thành tựu rất đáng tự hào đã đạt được vẫn còn tồn tại những biểu hiện tiêu cực do mặt trái của cơ chế thị trường mang lại mà nổi cộm lên là vấn đề tình hình tội phạm diễn ra ngày càng phức tạp, nhiều loại tội phạm gia tăng, tính chất, mức độ ngày càng nguy hiểm hơn.Và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là một trong những tội phạm xảy ra khá phổ biến trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường hiện nay. Tội phạm xảy ra đã gây nhiều biến động trong xã hội, làm thiệt hại đến tài sản Nhà Nước, tổ chức cũng như tài sản của công dân, cản trở sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên việc xét xử loại tội phạm này trong thực tiễn còn rất nhiều sai sót, vấn đề sai lầm trong việc xác định tội danh và hình phạt, vấn đề "hình sự hóa" các quan hệ dân sự, quan hệ kinh tế và "phi hình sự hóa" trong đấu tranh chống tội phạm kinh tế trong mấy năm gần đây tuy đã giảm đi rõ rệt nhưng vẫn chưa thực sự chấm dứt và vẫn còn thu hút sự quan tâm của nhiều cấp, nhiều ngành và dư luận xã hội thông qua những buổi tọa đàm. Những vấn đề trên còn tồn tại một phần là do chưa nhận thức đúng đắn quy định của luật pháp về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản để phân biệt giữa tội phạm này với tội phạm khác dẫn đến việc các cơ quan áp dụng pháp luật còn tỏ ra lúng túng trong việc xác định tội danh, hình phạt làm ảnh hưởng đến chất lượng xét xử, chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng và chống tội phạm. Vướng mắc này đặt ra cho các nhà nghiên cứu luật hình sự nhiệm vụ là phải làm rõ về mặt lý luận cũng như bản chất và ranh giới của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản làm cơ sở cho nhận thức thống nhất về vấn đề này trong thực tiễn. Với ý nghĩa phục vụ cho công tác nghiên cứu, với động lực tìm hiểu pháp luật để góp một phần lý luận cho việc nhận thức đúng đắn, thống nhất về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản giúp ích cho công tác đấu tranh phòng và chống tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong tình hình mới, tôi chọn "Tội lạm dụng tín nhiệm nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều 140 Bộ luật hình sự 1999" làm đề tài luận văn tốt nghiệp Đại học Luật của mình. Nội dung của luận văn là nghiên cứu một cách hệ thống tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam và một số vấn đề thực tiễn áp dụng, qua đó đề xuất một số ý kiến nhằm hoàn thiện luật. Để hoàn thành luận văn, chúng tôi đã sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, dựa trên các văn kiện Đại hội Đảng, các văn bản của Nhà nước. Đồng thời luận văn cũng sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chuyên ngành như: hệ thống hóa, so sánh, thống kê số liệu, phân tích thuần túy quy phạm pháp luật. Ngoài lời nói đầu và phần kết luận, luận văn được trình bày với cơ cấu như sau: Chương 1: Lịch sử lập pháp hình sự của Nhà nước ta đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Chương 2: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHSVN năm 1999. Chương 3: Một số vấn đề về thực tiễn xét xử tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. CHƯƠNG 1 LỊCH SỬ LẬP PHÁP HÌNH SỰ CỦA NHÀ NƯỚC TA ĐỐI VỚI TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN 1.1 Khái niệm chung về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, với xu hướng toàn cầu hóa và khu vực hóa khiến các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại diễn ra một cách thường xuyên, nhiều chiều. Việc nhận diện đúng ranh giới giữa giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại với hành vi phạm tội hình sự, từ đó có biện pháp điều chỉnh bằng pháp luật một các hữu hiệu. Điều này có một ý nghĩa to lớn, nhằm làm lành mạnh hóa các quan hệ xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại, loại bỏ tình trạng được gọi là “hình sự hóa” các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại hay “dân sự hóa” các hành vi phạm tội, cũng như sự nhầm lẫn giữa một số tội phạm có cấu thành gần gũi. Muốn vậy chúng ta cần phải tìm hiểu, nghiên cứu kỹ khái niệm về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Trước hết chúng ta cần phải tìm hiểu rõ khái niệm về tội phạm. Tội phạm là một khái niệm phổ biến được rất nhiều ngành khoa học đề cập đến, trong đó khoa học luật hình sự đặc biệt chú trọng nghiên cứu. Điều 8 Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc Hội khóa 10 thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1999 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 07 năm 2000 (sau đây gọi tắt là BLHS): “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm các lĩnh vực khác của đời sống xã hội”(10) Khái niệm tội phạm được đề cập tại Điều 8 BLHS đã thể hiện tập trung nhất quan điểm của Nhà Nước ta về tội phạm: đó là hành vi (của một hoặc một nhóm người) nguy hiểm cho xã hội, đã vi phạm các quy định của BLHS, vi phạm các chuẩn mực đạo đức, phá vỡ trật tự bình thường của hoạt động trong xã hội, gây hậu quả xấu cho lợi ích xã hội và cần phải bị trừng trị. Khái niệm tội phạm trên đây đã khái quát được đầy đủ 4 yếu tố của tội phạm: khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xét về cấu trúc cũng có đủ 4 yếu tố nêu trên tạo thành. Trên cơ sở quy định của Điều 140 BLHS có thể định nghĩa tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản một cách chung nhất như sau: hành vi phạm tội của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt một phần hoặc toàn bộ tài sản đã được giao trên cơ sở hợp đồng đã được ký kết giữa chủ tài sản và người có hành vi chiếm đoạt Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là một trong các tội đặc xâm phạm sở hữu. Ở tội này người phạm tội đã không dùng bất cứ thủ đoạn nào để lấy tài sản đang từ trong tay của chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm. Chỉ sau khi nhận được tài sản ngay thẳng từ chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm thông qua hợp đồng dân sự, kinh tế người phạm tội mới có hành vi chiếm đoạt. Hành vi chiếm đoạt ở đây là hành vi không thực hiện đúng nghĩa vụ cam kết, bao gồm các hành vi: vay, mượn, nhận tài sản bằng các hình thức hợp đồng rồi chiếm đoạt tài sản đó hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không trả được nợ. Điều 140 BLHS 1999 đã quy định các dấu hiệu pháp lý trong cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cụ thể hơn, chính xác hơn, tránh được các cách hiểu khác nhau hoặc sự tùy tiện trong việc áp dụng pháp luật. Sự quy định này là kết quả của quá trình khảo sát và tổng kết thực tiễn xét xử của những nhà làm luật, đánh dấu một bước phát triển mới của công tác xây dựng pháp luật của Nhà Nước ta: "Việc nhà làm luật quy định được các dấu hiệu định tội trong điều luật là xuất phát từ thực tiễn xét xử loại tội phạm này trong hơn 10 năm thi hành bộ luật hình sự năm 1985, đặc biệt vào những năm cuối của thập kỷ 90(1997-1999) tình trạng các cơ quan pháp luật ở nhiều địa phương đã “Hình sự hóa” các quan hệ dân sự, kinh tế làm cho nhiều người bị kết án oan về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản mà lẽ ra họ chỉ là bị đơn trong các vụ án dân sự. Trước một thực trạng như vậy, đòi hỏi các nhà lập pháp phải đưa vào trong cấu thành những dấu hiệu đặc trưng của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”(19) Mỗi một loại tội phạm đều có lịch sử hình thành và phát triển, giai đoạn sau là sự kế thừa và phát triển của giai đoạn trước và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng trải qua các giai đoạn hình thành và phát triển như vậy. 1.2. Một số nét về lịch sử lập pháp hình sự của Nhà Nước ta đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Trong bất cứ một chế độ xã hội có giai cấp nào, Nhà Nước cũng đều xác lập, bảo vệ, củng cố và thúc đẩy sự phát triển của những quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị bằng sự hỗ trợ của các quy phạm pháp luật, trong đó có những quy phạm pháp luật hình sự. Một trong những nhóm quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ phải kể đến nhóm quan hệ sở hữu. Sở hữu, theo quan điểm của CN MLN là tổng thể các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình sản xuất, phân phối của cải vật chất giữa con người với nhau trong xã hội. Thực chất của sở hữu là sự chiếm hữu về của cải vật chất trong xã hội, sự chiếm hữu đó có thể tồn tại dưới những hình thức và thay đổi theo sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sở hữu chính là mối quan hệ giữa con người với con người đối với đối tượng của quyền sở hữu đó chính là tài sản.Việc xâm phạm đến quan hệ sở hữu hay nói cách khác là xâm phạm đến sở hữu của Nhà Nước, của tổ chức hoặc công dân, ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn cơ sở vật chất của xã hội, ảnh hưởng tới chính sách phát triển kinh tế, xã hội của Nhà Nước ta, gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Trong luật hình sự Việt Nam tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định từ rất sớm, và ngày một được hoàn thiện. Chúng ta có thể khái quát các gian đoạn phát triển của nó như sau: 1.2.1 Giai đoạn 1945-1954 Cách mạng tháng 8 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Do vừa trải qua cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp hao tốn cả sức người, sức của, vì vậy đây chính là thời kỳ mà Nhà nước ta đang trong hoàn cảnh đầy khó khăn thử thách, thù trong, giặc ngoài, các vấn đề xã hội như nạn đói, nạn dốt, giặc ngoại xâm trở thành những vấn đề nóng bỏng, nhu cầu xây dựng lại nền tảng cơ sở vật chất, kinh tế cho xã hội trở nên cấp thiết. Một trong những biện pháp là phải có những quy định để bảo vệ tài sản của Nhà Nước làm cơ sở nền tảng để xây dựng và củng cố chính quyền. Sau khi Hiến pháp 1946 được thông qua, ghi nhận "quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được đảm bảo"(4) .Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để bảo vệ sở hữu, đặc biệt sở hữu xã hội chủ nghĩa như Sắc lệnh số 26/SL( 25/02/1946) trừng trị các tội phá hủy công sản, Sắc lệnh số 233/SL (17/11/1946) trừng trị các tội phù lạm, biển thủ công quỹ…đây là những văn bản đầu tiên đặt nền móng cho việc hoàn thiện các quy định về tội xâm phạm sở hữu sau này. Tuy nhiên những sắc lệnh này vẫn còn nhiều những hạn chế. Trước hết nó mới là những quy định sơ lược, chưa khái quát hết được những hành vi xâm hại đến quan hệ sở hữu mà mới chỉ tập trung vào một số hành vi: trộm cắp, phá hoại hoặc gắn với các đối tượng của các hành vi xâm phạm là tài sản xã hội chủ nghĩa. Cho đến Thông tư 442/TTg (19/11/1955) của thủ tướng chính phủ về trừng trị một số tội phạm đã nhận định: “ Vì về mặt bảo vệ tài sản quốc gia, tính mệnh và tài sản của nhân dân, luật cũ có nhiều khoản không thích hợp nên chính phủ lại ban bố một số sắc lệnh trừng trị tội tham ô, tội tống tiền, tội bắt cóc, ám sát, tội đánh bạc như là Sắc lệnh 27/SL ngày 28/02/1946…". Tuy nhiên các quy định về tội lạm dụng tín nhiệm trong giai đoạn này chưa được quy định cụ thể, chủ yếu xét xử theo nguyên tắc và án lệ, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định với tên gọi “ Bội tín”. “… 1. Lừa gạt, bội tín: phạt tù từ ba tháng đến năm năm."(15) Có thể nói đây chính là những quy định đầu tiên của nhà nước ta về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản( Bội tín). Trong quy định này các nhà làm luật xác định mức trách nhiệm của tội lừa gạt, bội tín là như nhau. Quy định này còn mang tính hình thức, việc xác định hành vi cụ thể của từng tội phạm có chính xác không phụ thuộc nhiều vào các cơ quan xét xử. Tuy vậy việc ban hành văn bản này là cần thiết và kịp thời trong hoàn cảnh đất nước ta lúc bấy giờ. 1.2.2 Giai đoạn từ 1954-1975 Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, bên cạnh những thuận lợi đạt được, Nhà Nước ta lại đứng trước hàng loạt các vấn đề cần phải giải quyết để khôi phục lại nền hòa bình. Ngày 15/06/1956 Chủ tịch nước ký lệnh công bố Sắc lệnh số 267/SL nhằm trừng trị những âm mưu, hành động phá hoại hoặc làm thiệt hại đến tài sản của Nhà Nước, của hợp tác xã và của nhân dân, làm cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch xây dựng kinh tế, văn hóa. Điều 7 Sắc lệnh 267 quy định: “Kẻ nào vì tham lam, tư lợi mà phạm tội trộm cắp, lãng phí, làm hỏng, hủy hoại, cướp bóc tài sản của nhà nước, của nhân dân thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.”(14) Sắc lệnh số 267 đã có sự phân biệt tài sản của nhà nước và tài sản của công dân, giúp việc xử lý tội phạm được chính xác và hiệu quả hơn. Ngày 24/06/1957 Bộ tư pháp cũng đã ra Thông tư 72-VVH-HS hướng dẫn thi hành sắc lệnh 267. Sắc lệnh này cũng không quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản mà cho phép áp dụng những nguyên tắc tương tự khi xét xử những hành vi “ phạm tội phá hoại khác”.Theo đó nếu hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản diễn ra, Tòa án căn cứ theo đường lối xử lý các tội phạm khác để xét xử. Như vậy cũng như Thông tư 442/TTg Nhà Nước ta vẫn cho phép áp dụng nguyên tắc “ tương tự trong xét xử”. Điều đó chứng tỏ pháp luật vẫn chưa được hoàn chỉnh, hành vi phạm tội vẫn chưa được xác định cụ thể, nó đặt ra một thách thức rất lớn đối với công tác xây dựng và thực thi pháp luật. Năm 1959, sau khi nước ta hoàn thành xong công cuộc cải tạo XHCN ở Miền Bắc thì công việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho CNXH là nhiệm vụ trọng tâm.Việc bảo vệ sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể là vấn đề cấp bách được đặc biệt coi trọng. Điều 40 Hiến pháp 1959 đã ghi nhận: “Tài sản công cộng của nước Việt nam dân chủ cộng hòa; là thiêng liêng không thể xâm phạm. Công dân có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản công cộng”(4). Đất nước ngày càng phát triển biểu hiện qua những biến đổi to lớn về mọi mặt kinh tế xã hội. Trong khi đó những văn bản trước đây về bảo vệ sở hữu và việc áp dụng luật lệ của chính quyền cũ đã tỏ ra không còn phù hợp. Vì vậy ngày 21/10/1970 Ủy ban thường vụ Quốc Hội đã thông qua pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN và pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản của công dân nhằm bảo vệ tài sản XHCN và tài sản riêng của công dân, góp phần tăng cường tiềm lực kinh tế, quốc phòng, bảo vệ, nâng cao đời sống của nhân dân. Hai pháp lệnh này là sự tiếp nối và hoàn thiện các văn bản về các tội xâm phạm sở hữu trước đây. Lần đầu tiên tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy đinh thành một tội danh riêng với các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm này, hình phạt nghiêm khắc. Điều 11 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN quy định: “1.Kẻ nào nhận tài sản XHCN để giữ, vận chuyển, gia công, sửa chữa hoặc để làm một việc gì khác mà lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt, bớt xén hoặc đánh tráo tài sản đó, thì…" Điều 11 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân quy định: “1. Kẻ nào nhận tài sản của người khác để giữ, vận chuyển, gia công, sửa chữa hoặc để làm một việc gì khác mà lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, bớt xén hoặc đánh tráo tài sản đó thì…”(14) Theo như quy định trên ta thấy đối tượng của hai tội là khác nhau nhưng hành vi khách quan là giống nhau. Ở quy định này, hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt là hành vi “bớt xén” hoặc “đánh tráo” chiếm đoạt một phần hoặc toàn bộ tài sản được giao ngay thẳng trên cơ sở hợp đồng gửi giữ, gia công, vận chuyển…, đối tượng của hành vi chiếm đoạt là tài sản XHCN hoặc tài sản công dân, hình phạt được áp dụng đối với đối tượng phạm tội tương đối nghiêm khắc: Hình phạt tù tối thiểu là 3 tháng, tối đa là 20 năm. Tuy cách trình bày còn đơn giản nhưng nhìn chung về mặt kỹ thuật lập pháp đã có sự tiến bộ, tạo cơ sở pháp lý để trừng trị hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Qua hai điều luật ta thấy tài sản XHCN do đặc biệt được coi trọng, nên chính sách xử lý tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản XHCN nghiêm khắc hơn so với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản riêng của công dân. Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án nhân dân tối cao năm 1971, 1972; Thông tư số 213/NCPL ngày 05/05/1973 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiếm sát nhân dân tối cao, Bộ công an…Cùng với thông tư này còn có Chỉ thị số 14/TATC ngày 12/07/1974 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 228 của Bộ Chính trị Trung ương Đảng cũng đề cập đến vấn đề liên quan đến việc xử lý tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Sự ra đời của hai pháp lệnh năm 1970 với những quy định về hành vi và thủ đoạn phạm tội mặc dù còn rất đơn giản nhưng cũng đã đánh dấu một bước phát triển trong lịch sử lập pháp của Nhà Nước ta, tạo cơ sở cho những quy định tiếp theo về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản sau này. 1.2.3 Giai đoạn 1975-1985 Năm 1975 Miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất và có nhiều sự đổi mới: bộ máy chính quyền mới, văn bản pháp luật mới. Ngày 15/03/1976 Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam ban hành Sắc luật số 03/SL-1976 quy định các tội phạm và hình phạt được áp dụng ở Miền Nam Việt nam, trong đó có quy định về các tội xâm phạm sở hữu, trong đó tội lạm dụng tín nhiệm được quy định tại điểm b Điều 4 cũng với tên gọi “ Bội tín”. “…b.Phạm các tội khác như: trộm cắp, tham ô, lừa đảo, bội tín, cướp giật, cưỡng đoạt, chiếm giữ trái phép thì bị phạt tù từ sáu tháng đến bẩy năm…”(15) Những quy định trong Sắc luật này về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng như các tội phạm khác rất sơ lược, chỉ nêu tên tội phạm mà không xác định các dấu hiệu pháp lý cụ thể. Nội dung của Sắc luật này và hai Pháp lệnh năm 1970 về cơ bản là thống nhất, tuy nhiên sắc luật này trình bày với quy mô nhỏ gọn hơn và được dồn vào cùng một điều với một số tội như: lừa đảo, bội tín, cướp giật, cưỡng đoạt…Việc quy định như vậy dẫn đến việc xử lý tội phạm không công bằng. Có những tội xâm phạm đến một khách thể như tội lừa đảo, bội tín (xâm phạm đến quan hệ sở hữu) nhưng có tội xâm phạm đến nhiều khách thể như tội cướp giật, cưỡng đoạt (cùng một lúc xâm phạm đến quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân). Cách quy định như vậy đòi hỏi phải có thêm văn bản hướng dẫn thi hành để xử lý từng loại tội phạm cho chính xác. Tháng 04/1976 Bộ tư pháp đã ra Thông tư số 03/BTP/TT hướng dẫn thi hành Sắc luật trên. Giai đoạn 1985 đến nay Bộ luật hình sự năm 1985 được Quốc Hội thông qua ngày 27/06/1985 và có hiệu lực từ ngày 01/01/1986. Đây là bộ luật được ban hành trên cơ sở pháp điển hóa các văn bản pháp luật hình sự của Nhà Nước ta được ban hành từ những năm đầu của chính quyền cách mạng đến giữa những năm 80 của thế kỷ XX, cũng như thể chế hóa chính sách hình sự của nhà nước ta trong thời kỳ cả nước thống nhất đi lên CNXH. Lần đầu tiên nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có một bộ luật, đánh dấu một bước tiến bộ vượt bậc trong lịch sử lập pháp hình sự của Nhà Nước ta. BLHS 1985 đã giành hai chương quy định về tội xâm phạm sở hữu,chương IX “các tội xâm phạm sở hữu XHCN”, chương VI “ các tội xâm phạm sở hữu của công dân”. Trong đó tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 135 (tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản XHCN), Điều 158 (tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân). Điều 135 quy định: “1. Người nào lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc bị phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm”…và Điều 158 quy định: “1. Người nào lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của người khác thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc bị phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm(5). Việc dành riêng hai điều luật quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong BLHS 1985 đã khẳng định mức độ nghiêm trọng của hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong thực tiễn cũng như sự