Đề tài Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh giun xoăn dạ múi khế ở trâu, bò và thử nghiệm quy trình phòng trị tại huyện Phú Bình - Tỉnh Thái Nguyên

Trong mấy năm gần đây, chăn nuôi trâu, bò ở nước ta đã và đang phát triển mạnh, đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội, giúp khai thác tối ưu các tiềm năng thiên nhiên (đồng cỏ, bãi chăn thả), tiềm năng con người (lao động phụ, dư thừa), các phế phụ phẩm của nông nghiệp và công nghiệp chế biến, đồng thời cung cấp một lượng lớn thực phẩm (thịt, sữa,.) cho nhân dân và phân chuồng cho sản xuất cây trồng. Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách và biện pháp thúc đẩy chăn nuôi trâu, bò phát triển cả về số lượng và chất lượng nhằm nâng cao đời sống cho người chăn nuôi. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn một số khó khăn, hạn chế việc phát triển chăn nuôi trâu, bò, đặc biệt là dịch bệnh. Trong các bệnh ký sinh trùng gây hại cho trâu, bò, bệnh giun xoăn dạ múi khế khá phổ biến và gây nhiều thiệt hại đến sức sản xuất của trâu, bò. Giun xoăn ở dạ múi khế hút máu ký chủ, làm cho ký chủ bị thiếu máu nặng, đồng thời giun làm tổn thương niêm mạc dạ múi khế, gây hội chứng tiêu chảy. Gia súc bị bệnh còi cọc, chậm lớn, giảm sức đề kháng với các bệnh khác và dễ chết nếu mắc bệnh nặng. Phú Bình là một huyện của tỉnh Thái Nguyên có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho chăn nuôi trâu, bò phát triển. Theo điều tra sơ bộ của Chi cục thú y tỉnh Thái Nguyên, trâu, bò ở tỉnh Thái Nguyên nói chung và huyện Phú Bình nói riêng bị nhiễm giun xoăn dạ múi khế với tỷ lệ cao. Ở tỉnh Thái Nguyên nói chung và huyện Phú Bình nói riêng, chưa có công trình nào nghiên cứu về bệnh giun xoăn dạ múi khế, những hiểu biết của người chăn nuôi về bệnh giun xoăn dạ múi khế còn rất hạn chế. Xuất phát từ yêu cầu của thực tế trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh giun xoăn dạ múi khế ở trâu, bò và thử nghiệm quy trình phòng trị tại huyện Phú Bình - tỉnh Thái Nguyên".

doc86 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 2014 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh giun xoăn dạ múi khế ở trâu, bò và thử nghiệm quy trình phòng trị tại huyện Phú Bình - Tỉnh Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần 1 Mở Đầu 1.1. Đặt vấn đề Trong mấy năm gần đây, chăn nuôi trâu, bò ở nước ta đã và đang phát triển mạnh, đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội, giúp khai thác tối ưu các tiềm năng thiên nhiên (đồng cỏ, bãi chăn thả), tiềm năng con người (lao động phụ, dư thừa), các phế phụ phẩm của nông nghiệp và công nghiệp chế biến, đồng thời cung cấp một lượng lớn thực phẩm (thịt, sữa,...) cho nhân dân và phân chuồng cho sản xuất cây trồng. Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách và biện pháp thúc đẩy chăn nuôi trâu, bò phát triển cả về số lượng và chất lượng nhằm nâng cao đời sống cho người chăn nuôi. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn một số khó khăn, hạn chế việc phát triển chăn nuôi trâu, bò, đặc biệt là dịch bệnh. Trong các bệnh ký sinh trùng gây hại cho trâu, bò, bệnh giun xoăn dạ múi khế khá phổ biến và gây nhiều thiệt hại đến sức sản xuất của trâu, bò. Giun xoăn ở dạ múi khế hút máu ký chủ, làm cho ký chủ bị thiếu máu nặng, đồng thời giun làm tổn thương niêm mạc dạ múi khế, gây hội chứng tiêu chảy. Gia súc bị bệnh còi cọc, chậm lớn, giảm sức đề kháng với các bệnh khác và dễ chết nếu mắc bệnh nặng. Phú Bình là một huyện của tỉnh Thái Nguyên có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho chăn nuôi trâu, bò phát triển. Theo điều tra sơ bộ của Chi cục thú y tỉnh Thái Nguyên, trâu, bò ở tỉnh Thái Nguyên nói chung và huyện Phú Bình nói riêng bị nhiễm giun xoăn dạ múi khế với tỷ lệ cao. Ở tỉnh Thái Nguyên nói chung và huyện Phú Bình nói riêng, chưa có công trình nào nghiên cứu về bệnh giun xoăn dạ múi khế, những hiểu biết của người chăn nuôi về bệnh giun xoăn dạ múi khế còn rất hạn chế. Xuất phát từ yêu cầu của thực tế trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh giun xoăn dạ múi khế ở trâu, bò và thử nghiệm quy trình phòng trị tại huyện Phú Bình - tỉnh Thái Nguyên". 1.2. Mục tiêu của đề tài - Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh giun xoăn dạ múi khế trâu, bò ở huyện Phú Bình - tỉnh Thái Nguyên. - Xác định khả năng phát triển của trứng và khả năng tồn tại của Êu trùng giun xoăn dạ múi khế có sức gây bệnh ở ngoại cảnh. - Nghiên cứu biện pháp phòng trị bệnh giun xoăn dạ múi khế cho trâu, bò. 1.3. Mục đích của đề tài - Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở khoa học để khuyến cáo và góp phần xây dựng quy trình phòng trị bệnh giun xoăn dạ múi khế cho trâu, bò có hiệu quả cao. 1.4. ý nghĩa của đề tài - Ý nghĩa khoa học: Kết quả của đề tài là những thông tin khoa học về một số đặc điểm dịch tễ của bệnh giun xoăn dạ múi khế ở trâu, bò. Góp phần xây dựng biện pháp phòng trị bệnh do giun xoăn dạ múi khế gây ra ở trâu, bò. - Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả của đề tài là lời khuyến cáo giúp người chăn nuôi áp dụng được các biện pháp phòng trị bệnh giun xoăn dạ múi khế một cách có hiệu quả, giảm tỷ lệ nhiễm, giảm thiệt hại kinh tế cho người chăn nuôi. Phần 2 Tổng quan tài liệu 2.1. Cơ sở khoa học của đề tài 2.1.1. Giun xoăn dạ múi khế ký sinh ở gia sóc nhai lại 2.1.1.1. Vị trí của giun xoăn dạ múi khế trong hệ thống phân loại động vật Giun xoăn ký sinh chủ yếu ở dạ múi khế trâu, bò, bê, nghé gồm nhiều giống loài. Skrjabin K.I và Petrov A.M (1963) [27] cho biết, họ Trichostrongylidae (Leiper, 1912) có 3 họ phụ: họ Trichostrongylinae (Leiper, 1908); họ phụ Haemonchinae (Skrjabin et Schulz, 1952); họ phụ Cooperinae (Skrjabin et Schikhobalova, 1952). Nhiều loài giun của 5 giống trong 3 họ phụ này ký sinh ở dạ múi khế và ruột non loài nhai lại (trâu, bò, dê, cừu, hươu). Trong điều kiện tự nhiên, tất cả các loài động vật nhai lại đều bị cảm nhiễm Trichostrongylidae. Cụ thể theo Skrjabin K.I và cs (1963) [27]; Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [17]; Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2008) [11], giun xoăn dạ múi khế có vị trí trong hệ thống phân loại động vật học nh­ sau: Ngành Nemathelminthes Schneider, 1873 Líp Nematoda Rudolphi, 1808 Phân líp Rhabditia Pearse, 1942 Bé Strongylida Railliet et Henry, 1913 Phân bé Strongylata Railliet et Henry, 1913 Siêu họ Trichostrongyloidea Cram, 1927 Họ Trichostrongylidae Leiper, 1912 Phân họ Trichostrongylinae Leiper, 1905 Giống Trichostrongylus Looss, 1905 Loài T. colubriformis (Giles, 1892) Loài T. axei (Cobbold, 1879) Loài T. probolurus (Railliet, 1896) Giống Ostertagia Ransom, 1907 Loài O. ostertagi (Stiles, 1892) Loài O. circumcincta (Stadelmann, 1894) Giống Marshallagia Orloff, 1933 Loài M. marshalli (Ransom, 1907) Phân họ Haemonchinae Skrjabin et Schulz, 1952 Giống Haemonchus Cobbold, 1898 Loài H. contortus (Rudolphi, 1803) Loài H. similis (Travassos, 1914) Phân họ Cooperinae Skrjabin et Schikhobalova, 1952 Giống Cooperia Ransom, 1907 Loài C. curticei (Giles, 1892) Loài C. punctata (Linstow, 1906) Phân họ Nematodirinae Skrjabin et Orloff, 1934 Giống Nematodirus Ransom, 1907 Loài N. oiratianus (Rajevskaia, 1929) Loài N. skrjabini (Mizkewisch, 1929) Giống Mecistocirrus Railliet et Henry, 1912 Loài M. digitatus (Linstow, 1906) 2.1.1.2. Thành phần loài giun xoăn dạ múi khế ký sinh ở trâu, bò Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [8] cho biết, có 7 giống loài phổ biến gồm trên 100 loài, gia sóc nhai lại nhiễm hỗn hợp các giống này, trong đó có 2 giống gây tác hại lớn là Haemonchus và Mecistocirrus. 7 giống gồm: Tên giống Ký chủ Vị trí ký sinh Haemonchus Mecistocirrus Trichostrongylus Osrtertagia Marshallagia Cooperia Nematodirus Cừu, dê, trâu, bò Trâu, bò, dê, cừu, lợn Trâu, bò, dê, cừu Trâu, bò, dê, cừu Dê, cừu, bò Dê, cừu, bò Dê, cừu, bò Dạ múi khế, ruột non Dạ múi khế, dạ dày lợn Dạ múi khế, ruột non Dạ múi khế Dạ múi khế, dạ lá sách Dạ múi khế, ruột non Ruột non Các loài giun này thường gây bệnh hỗn hợp. Trong đó có 3 loài Haemonchus contortus, Haemonchus similis và Mecistocirrus digitatus gây tác hại lớn cho ký chủ. Theo Trịnh Văn Thịnh và Đỗ Dương Thái (1978) [21], thành phần loài giun xoăn dạ múi khế ở dạ dày trâu, bò Việt Nam nh­ sau: Trichostrongylus axei (Cobbold, 1879) Cooperia laterouniformis (Chen, 1937) Haemonchus contortus (Rudolphi, 1803) Mecistocisrrus digitatus (Linstow, 1906) Dẫn liệu của Skrjabin K.I và Petrov A.M (1963) [27] cho biết, thành phần loài giun xoăn ký sinh trong dạ dày trâu, bò, dê, cừu và các loài nhai lại hoang dại khác gồm: Trichostrongylus axei (Cobbold, 1879) Trichostrongylus colubriformis (Giles, 1892) Ostertagia ostertagi (Stiles, 1892) Ostertagia circuncincta (Stadelmanm, 1894) Marshalla marshalli (Ransom, 1907) Haemonchuscontortus (Rudolphi, 1803) Cooperia curticei (Giles, 1892) Cooperia punctata (Linstow, 1906) Các nghiên cứu đều thống nhất rằng, các loài giun xoăn dạ múi khế của gia sóc nhai lại rất phong phú, chúng đều thuộc họ Trichostrongylidae Leiper, 1912. Giun tròn hình sợi chỉ to hoặc nhỏ. Miệng ở tận cùng đầu, xoang miệng không có, ở một số giun có bao miệng nhỏ nhưng xoang miệng không thể hiện rõ và có thể có răng ở trên thành hoặc ở dưới đáy xoang. Ở con đực túi sinh dục phát triển tốt, đại đa số thùy bên lớn, thùy lưng thể hiện yếu hoặc không có. Có hai gai giao hợp, có hoặc không có bánh lái. Âm hộ của con cái nằm sau thân. Giun cái đẻ trứng theo phân ra ngoài. 2.1.1.3. Đặc điểm hình thái, kích thước các loài giun xoăn chủ yếu ở dạ múi khế VÒ hình thái chung, giun xoăn dạ múi khế có thân hình sợi chỉ không phân đốt, cơ thể đối xứng hai bên. Bên ngoài được che phủ một lớp Kitin hay còn gọi là lớp biểu bì có các vân, vân ngang hoặc vân chéo (Trịnh Văn Thịnh, Đỗ Dương Thái, 1978) [21]. Trịnh Văn Thịnh và cs (1982) [22] mô tả cấu tạo của giun xoăn dạ múi khế gồm các bộ phận sau: - Hệ tiêu hóa gồm: miệng, môi, túi miệng, thực quản, ruột, hậu môn. - Hệ thần kinh: đơn giản, có vòng dây thần kinh thực quản và các gai cảm giác toàn thân. - Hệ bài tiết: gồm 2 ống bài tiết chạy từ phần sau của cơ thể lên đến phần đầu, rồi xuống và đổ ra lỗ huyệt. - Hệ sinh dục của giun đực và giun cái có cơ quan sinh dục đực hoặc cái. * Các loài thuộc giống Haemonchus. - H. cotortus: Theo Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [17], loài Haemonchus contortus (Rudolphi, 1803) ký sinh ở dạ múi khế và ruột non của bò, trâu, dê trên phạm vi toàn quốc và phổ biến trên toàn cầu. Tác giả đã mô tả hình thái H. contortus (theo Kamenskii, 1929): giun đực dài 18,7 - 22,3 mm, rộng nhất 0,352 - 0,416 mm. Trứng có vỏ mỏng, kích thước 0,080 - 0,085 mm x 0,040 - 0,045 mm. Đặc điểm hình thái cấu tạo của loài Haemonchus contortus mà Nguyễn Thị Lê mô tả ở trên phù hợp với sự mô tả của nhiều tác giả khác (Skrjabin K.I và Petrov A.M, 1963; Trịnh Văn Thịnh, 1978, 1982; Johannes Kaufmann, 1996; Urquharrt, 1996....). H. similis: Thân nhỏ, màu vàng sẫm. Gai cổ rất rõ. Lỗ bài tiết ở phía trước cách đầu 0,231 mm. Túi miệng rất nhỏ, có răng. Quanh miệng có môi bao bọc, phần sau thực quản phình to. Giun đực dài 8,000 - 11,000 mm, rộng 0,232 - 0, 265mm. Giun cái dài 12,500 - 21,000 mm, rộng 0,315 - 0,378 mm. Trứng hình bầu dục, có kích thước 0,073 - 0,079 x 0,031 - 0,042 mm (Nguyễn Thị Kim Lan và cs, 1999 [8]). Vỏ trứng mỏng, có phôi bào (Trịnh Văn Thịnh và cs, 1982) [22]. * Loài Mecistocirrus digitatus Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [8] đã mô tả: giun màu hồng nhạt, biểu bì có vân. Túi miệng nhỏ, có 1 răng lớn, thực quản dài 1,600 - 1,800 mm, rất nhỏ, phần sau hơi rộng. Giun đực dài 25,000 - 31,000 mm, giun cái dài 35,000 - 39, 000 mm Trứng dài 0,099 - 0,105 mm, rộng 0,046 - 0,049 mm, có hai lớp vỏ mỏng bao bọc. * Các loài thuộc giống Trichostrongylus. Giống Trichostrongylus gồm nhiều loài, trong đó có một số loài quan trọng ký sinh ở dạ múi khế và ruột non của gia sóc nhai lại. - T. axei (Cobbold, 1879): được phát hiện ở nhiều nơi trên thế giới. Ở Việt Nam, các nhà khoa học đã tìm thấy loài giun này ở các tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn... Nhiều tác giả đã mô tả (theo Ransom, 1911): giun đực dài 3,4 - 4,5 mm, rộng nhất 0,05 - 0,07 mm. Giun cái dài 4,6 - 5,5 mm, rộng 0,055 - 0,075 mm. Kích thước trứng 90 - 92 x 35 - 42 mm (Drozdz và Malcrewski, 1967; Phan Thế Việt, 1977; Trịnh Văn Thịnh, 1978 Nguyễn Thị Lê, 1996; Nguyễn Thị Kim Lan và cs, 2008). - T. colubriformis: Ngoài loài giun T. axei còn có một loài, mà theo Skrjabin K.I và Petrov A.M (1963) [27], điển hình cho giống Trichostrongylus, đó là loài T. colubriformis. Theo nhiều tác giả thì loài giun này phổ biến ở bò, dê, cừu trên phạm vi toàn cầu. Ở nước ta, phát hiện giun ở dạ múi khế và ruột non bò, dê ở các tỉnh phía Bắc. Giun đực dài 4,0 - 6,0 mm, rộng 0,078 - 0,095 mm. Giun cái dài 5,0 - 6,0 mm; rộng nhất ở vùng lỗ sinh dục (0,080 - 0,100 mm). Trứng có kích thước 73 - 76 x 40 - 43 mm (Nguyễn Thị Lê và cs, 1996) [17]. - T. probolurus: Giun đực dài 4,300 - 6,500 mm. Giun cái dài 4,833 - 6,270 mm, rộng 0,066 - 0,1112 mm. Trứng có kích thước 0,072 - 0,095 x 0,042 - 0,0582 mm. *Các loài thuộc giống Cooperia. - C. laterouniformis: Trịnh Văn Thịnh và cs (1978) [21] cho biết: Loài này thân hình sợi chỉ, biểu bì mỏng có vân ngang, vân dọc dài khắp thân; chóp đầu thường có hình một túi phình; thực quản hơi rộng ở phần trên và phần cuối; vòng thần kinh ở khoảng 2/3 thực quản. Giun đực dài 4,944 mm, rộng 0,071 mm. Giun cái dài 5,700 mm, rộng nhất 0,069 mm; chỗ phình đầu dài 0,023 mm và rộng 0,011 mm; thực quản dài 0,297 mm, rộng nhất 0,069 mm. Trứng có kích thước 0,073 - 0,030 mm. - C. pectinata: Giun đực dài 7,000 mm, rộng 0,130 - 0,160 mm. Giun cái dài 7,500 - 9,000 mm, rộng 0,110 - 0,135 mm (Nguyễn Thị Kim Lan và cs, 1999) [8]. - C. punctata: Theo Skrjabin K.I và Petrov A.M (1963) [27], giun cái dài 5,700 - 10,000 mm. Giun đực dài 5,000 - 9,000 mm. Giun cái dài 5,700 - 10,00 mm. * Các loài thuộc giống Nematodirus. Skrjabin K.I và Petrov A.M (1963) [27] cho biết: - N. oiratianus: Con đực dài 11,000 - 16,500 mm. Con cái dài 14, 500 - 17,6 00 mm. Trứng rất lớn, dài 0,255 - 0,272 mm, rộng 0,119 - 0,153 mm. - Loài N. skrjabin: Con đực dài 15,500 - 17, 250 mm và rộng 0,124 - 0,183 mm. Con cái dài 28,500 - 29,500 mm, rộng 0,450 - 0,650 mm. Trứng lớn, dài 0,229 - 0,265 mm, rộng 0,084 - 0,114 mm. * Phần lớn trứng giun thuộc họ Trichostrongylidae có hình dạng và kích thước gần giống nhau nên nếu chỉ căn cứ vào hình thái trứng thì không thể xác định được loài giun. Theo nhiều tác giả, có thể nuôi trứng Trichostrongylidae nở và phát triÓn thành Êu trùng có sức gây bệnh. Sau đó phân loại theo khoá định loài của Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [17] dựa vào hình thái, kích thước và cấu tạo của ấu trùng có sức gây bệnh. Hình 2.1. Các dạng Êu trùng cảm nhiễm bộ Strongylida 1. Haemonchus contortus; 2. Cooperia; 3. Trichostrongylus; 4. Ostertagia; 5. Chabertia; 6. Oesophagostomum columbianum; 7. Oesophagostomum venulosum; 8. Bunostomum; 9. Nematodirus Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [17] 2.1.1.4. Chu kỳ sinh học của một số loài giun xoăn chủ yếu ở dạ múi khế - Chu kỳ sinh học (vòng đời) của các loài giun xoăn dạ múi khế tương đối giống nhau. Giun cái đẻ trứng với số lượng lớn trong một ngày. Trứng phát triển ở môi trường bên ngoài thành Êu trùng có sức gây bệnh rồi lại nhiễm vào ký chủ. Hình 2.2. Vòng đời phát triển của giun xoăn dạ múi khế * Chu kỳ sinh học của Haemonchus sp. Skrjabin K.I và Petrov A.M (1963) [27] cho biết: giun cái đẻ trứng, trứng được bài xuất cùng phân ra môi trường bên ngoài. Nhiệt độ của môi trường bên ngoài thích hợp cho trứng phát triển tiếp tục là 20 - 300C. Trong phân, vào ngày thứ hai đã thấy có Êu trùng giai đoạn I nở ra khỏi trứng. Những Êu trùng này ăn phân và sống trong phân một thời gian, nhưng không cảm nhiễm được cho súc vật. Ở giai đoạn này, Êu trùng kém bền vững hơn ở các giai đoạn sau: chúng chết khi phơi khô và ở nhiệt độ trên 300C. Sù thay đổi về nóng và lạnh cũng làm cho Êu trùng bị chết. Ở nhiệt độ 15 - 200C, ấu trùng giai đoạn I chỉ sau 1 đêm đã ở giai đoạn tiềm sinh, kéo dài 12 - 15 giê. Trong thời gian này, Êu trùng lột xác, sau đó sống trở lại và chuyển vào giai đoạn II. Ở giai đoạn II, Êu trùng mất đi khả năng ăn uống và cũng không thể ký sinh được. Qua một ngày sau, đôi khi chưa đến 1 ngày, Êu trùng lại trở lại giai đoạn tiềm sinh lần thứ hai. Trong thời gian này, Êu trùng lớn lên, nhưng tầng cutin bao quanh vẫn giữ nguyên và tạo thành nắp. Sau khi hình thành nắp thì Êu trùng chuyển vào giai đoạn III. Lúc này, Êu trùng đã có khả năng cảm nhiễm cho động vật. Từ khi đẻ trứng đến giai đoạn Êu trùng cảm nhiễm cần thời gian không dưới 4 - 5 ngày. Ở giai đoạn III, Êu trùng có sức đề kháng đặc biệt. Chúng chết trong môi trường Èm khi nhiệt độ 500C và trong môi trường khô khi 600C. Những Êu trùng này đặc biệt chịu được sự khô hạn. Khi khô hạn, chúng có thể ở trong trạng thái tiềm sinh trên 1 năm rưỡi. Đối với các chất tiêu độc, Êu trùng cũng rất bền vững: dung dịch creolin 2 - 3%, lizol và các chất khác không giết được Êu trùng. Êu trùng chết trong dung dịch axit cacbonic 5% không tinh khiết. Cũng nh­ ở giai đoạn I và II, Êu trùng cảm nhiễm chết dưới tác động của nước tiểu. Bởi vậy, trong các chuồng nuôi súc vật không thể tìm thấy Êu trùng sống. Phát triển đến giai đoạn cảm nhiễm ở trong phân, sau đó Êu trùng tự rời bỏ phân đi nơi khác. Vào mùa đông, Êu trùng ở trên đồng cỏ thường bị chết. Mùa hè, Êu trùng cũng có thể bị chết dưới tác động của ánh nắng mặt trời và nhiệt độ cao. Khi Êu trùng chui ra khỏi phân, nếu môi trường xung quanh phân Èm thì Êu trùng có khả năng bò lên phía trên theo vật Èm đó. Nếu phân ở trong cỏ thì Êu trùng sẽ chuyển động theo những ngọn cỏ ở xung quanh. Quá trình chuyển động thẳng đứng theo ngọn cỏ xảy ra càng nhanh hơn nữa ở những nơi đồng cỏ thấp, trong các mùa vụ Èm ướt, trong thời gian mưa nhiều, trong sương mù và khi có nhiều sương xuống. Để Êu trùng có thể bò theo ngọn cỏ không cần phải có lượng Èm nhiều, mà chỉ cần một lớp Èm rất Ýt bọc trên cỏ cũng đã đủ cho Êu trùng chuyển động. Khi độ Èm cao, Êu trùng không có khả năng bám vào cỏ, mà rơi xuống cùng với nước và được nước mang đến những nơi thấp hơn. Bởi vậy, tất cả những nơi đồng cỏ thấp, đầm lầy và các vũng đọng nước mưa là những nơi chính làm cho trâu, bò nhiễm Haemonchus. Trong những điều kiện bất lợi (khô hoặc quá ướt) thì Êu trùng cảm nhiễm cuộn tròn lại. Nếu Êu trùng bị khô (kể cả trong thời gian dài) được làm Èm ướt thì chỉ sau 20 - 30 phót, Êu trùng sẽ sống trở lại, duỗi thẳng và tiếp tục di chuyển theo ngọn cỏ. Êu trùng giai đoạn III, mặc dù không ăn uống gì, trong điều kiện môi trường Èm vẫn có khả năng sống tới 3 - 4 tháng. Những Êu trùng cảm nhiễm được súc vật nhai lại nuốt cùng thức ăn và nước uống vào dạ dày. Ở đây, chúng "vứt bỏ" vỏ và chuyển sang giai đoạn IV. Thực hiện xong 1 lần lột xác nữa, Êu trùng có khả năng ký sinh và hút máu ký chủ. Sau 2 - 3 tuần, Haemonchus trở thành thành thục, con cái bắt đầu đẻ trứng. Thời gian sống của Haemonchus trong cơ thể gia sóc nhai lại chưa rõ, nhưng người ta cho rằng, thời gian này không quá 1 năm. Càng về sau, giun càng già và mất đi khả năng tiếp tục ký sinh. Urquhart G. M. (1996) [36], làm rõ thêm vòng đời của Haemonchus contortus: ấu trùng cảm nhiễm vào ống tiêu hoá súc vật nhai lại, thực hiện hai lần lột xác trong ống dẫn tuyến. Chỉ trước khi lột xác lần cuối chúng mới phát triển đến giai đoạn lấy máu ký chủ từ những mao quản ở niêm mạc. Khi trưởng thành, chúng di chuyển tự do trên bề mặt niêm mạc. Thời gian hoàn thành vòng đời ở dê, cừu là 2 - 3 tuần và ở đại gia súc là 4 tuần. * Chu kỳ sinh học của Trichostrongylus sp. Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2008) [11] cho biết: Nhiều tác giả, khi nghiên cứu về chu kỳ sinh học của giun tròn đều thống nhất: các loài thuộc giống Trichostrongylus có vòng đời trực tiếp, không cần ký chủ trung gian (nghĩa là không có sự thay đổi ký chủ) (Direct nematode life cycle). Trứng giun theo phân ra ngoài, gặp điều kiện thích hợp (nhiệt độ và Èm độ), sau 20 - 24 giờ nở ra Êu trùng kỳ I. Êu trùng này hình gậy, thực quản hình ống và có ruột cấu tạo đơn giản, hoạt động mạnh. Chúng dùng các loại vi sinh vật ở xung quanh làm chất dinh dưỡng, sau 10 - 30 giờ lột xác thành Êu trùng kỳ II to hơn Êu trùng kỳ I, cấu tạo tương đối giống nhau. Êu trùng này hoạt động rất mạnh và cũng lấy vi sinh vật xung quanh nuôi sống bản thân. Sau 12 - 60 giờ thành Êu trùng kỳ III có sức gây nhiễm. Trước khi thành Êu trùng kỳ III, Êu trùng kỳ II không lột xác, màng bọc ngoài trở thành màng ngoài của Êu trùng kỳ III. Lúc này Êu trùng kỳ III không thể lấy thức ăn ở bên ngoài mà chỉ sống dựa vào thức ăn do Êu trùng kỳ II tích luỹ lại ở trong ruột. Êu trùng ở bên ngoài đến giai đoạn này là kết thúc, chúng có sức đề kháng mạnh, có thể sống lâu. Tuy nhiên, nếu khô hoặc có ánh nắng Êu trùng dễ chết. Khi gia sóc nhai lại ăn cỏ, uống nước có Êu trùng gây nhiễm, vào đường tiêu hoá, Êu trùng mất màng ngoài, tiếp tục phát triển, lột xác thành Êu trùng kỳ IV, lại tiếp tục phát triển, lột xác thành Êu trùng kỳ V và phát triển thành giun trưởng thành (Skrjabin K.I và Petrov A.M, 1963) [27], Phạm Văn Khuê và Phan Lục, 1996) [7]. * Vòng đời của Mecistocirrus digitatus Phạm Sỹ Lăng và Phan Địch Lân (1997) [12] cho biết: Loài này có vòng đời cơ bản giống vòng đời của Haemonchus. Êu trùng gây nhiễm qua thức ăn nước uống vào đường tiêu hóa vật chủ. Sau 3 ngày một số Êu trùng xâm nhập vào tuyến niêm mạc dạ múi khế hoàn thành vòng đời là 59 - 82 ngày. Tuổi thọ của giun 9 - 12 tháng. 2.1.2. Bệnh giun xoăn dạ múi khế ở gia sóc nhai lại 2.1.2.1. Thiệt hại kinh tế do bệnh giun xoăn dạ múi khế gây ra Nguyễn Phước Tương (2002) [24] cho biết: Chăn nuôi trâu, bò ở nước ta đang được chú trọng phát triển. Tuy vậy, số bê, nghé chết cao, chủ yếu là do bệnh truyền nhiễm và bệnh ký sinh trùng. Trong đó có bệnh giun xoăn dạ múi khế. Giun ký sinh trong đường tiêu hóa, hút máu của trâu, bò, gây tổn thương cơ học, tiết độc tố làm cho con vật gầy yếu, mở đường cho vi khuẩn, virút xâm nhập và gây bệnh cho trâu, bò. Việc điều trị chỉ được tiến hành khi gia súc đã mắc bệnh nặng, khả năng cày kéo kém nên gây thiệt hại đáng kể về kinh tế cho người chăn nuôi. Bệnh giun xoăn dạ múi khế gây ra bởi O. ostertagi là bệnh có thể lây sang người. Người mắc bệnh này khi ăn rau sống được bón phân trâu, bò mắc bệnh. Trứng, Êu trùng có sức gây bệnh khi vào ống tiêu hóa của người sẽ phát