Đề tài Những phân tích , đánh giá thực trạng của chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam trước tác động của hội nhập kinh tế quốc tế

Sự phát triển của thị trường tự do và dân chủ khắp thế giới đang cho phép nhiều người khắp nơi chuyển hoài bão thành thành tựu. Công nghệ được làm chủ đúng cách và phân phối tự do sẽ có sức mạnh xóa bỏ không chỉ biên giới địa lý mà còn biên giới dân tộc. Khi một nước chảy vào dòng chảy toàn cầu hóa, giới tinh hoa của đất nước đó bắt đầu chuyển tải viễn cảnh hội nhập vào bên trong và cố tìm cho họ một chỗ đứng trong bối cảnh toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa đã phá đi nhiều bức tường ngăn cachsdan chúng và nối cả thế giới vào một mối, nó mang lại cho cá nhân khả năng chi phối cả các thị trường lẫn các quốc gia trong bất cứ thời điểm nào. Từng ngày từng giờ cả thế giới đang vận động hòa mình vào dũng thỏc kinh tế toàn cầu và Việt Nam không phải là ngoại lệ. Cùng với nhịp độ sôi động của nền kinh tế thế giới thì nền kinh tế Việt Nam để có thể phát triển và hội nhập thì phải tìm được hướng đi cho nền sản xuất. Trong những năm qua Việt Nam đã và đang chú trọng hướng vào nền sản xuất cho xuất khẩu, trong đó mặt hàng chủ lực là nông sản luôn chiếm tỷ trọng lớn và là đối tượng hàng đầu của chính sách nhà nước. Thế giới đang được làm phẳng, biên giới quốc gia chỉ có ý nghĩa về mặt địa lý, vậy để khẳng định được tên tuổi quốc gia trên thế giới và cạnh tranh với nước ngoài phải thông qua chất lượng của hàng hóa, nên khi nghiên cứu lĩnh vực xuất khẩu nông sản chúng ta phải quan tâm đến chất lượng của hàng nông sản. Tuy nhiên trong phạm vi của đề tài, chúng tôi không thể nghiên cứu đầy đủ tất cả các lĩnh vực chất lượng hàng nông sản mà chúng tôi chỉ hướng tới chất lượng gạo của Việt Nam. Thông qua sự giúp đỡ tận tình của giáo viên hướng dẫn, chúng tôi đã đưa ra những phân tích , đánh giá thực trạng của chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam trước tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đồng thời đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng gạo Việt Nam phù hợp với yêu cầu hội nhập. Vì nội dung của đề tài khá rộng, chúng tôi có thể chưa bao quát được tất cả các mặt của vấn đề nghiên cứu , nếu có những thiếu sót hy vọng mọi người đánh giá và đóng góp ý kiến để bài viết được hoàn chỉnh hơn.

doc68 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1346 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những phân tích , đánh giá thực trạng của chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam trước tác động của hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Sự phát triển của thị trường tự do và dân chủ khắp thế giới đang cho phép nhiều người khắp nơi chuyển hoài bão thành thành tựu. Công nghệ được làm chủ đúng cách và phân phối tự do sẽ có sức mạnh xóa bỏ không chỉ biên giới địa lý mà còn biên giới dân tộc. Khi một nước chảy vào dòng chảy toàn cầu hóa, giới tinh hoa của đất nước đó bắt đầu chuyển tải viễn cảnh hội nhập vào bên trong và cố tìm cho họ một chỗ đứng trong bối cảnh toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa đã phá đi nhiều bức tường ngăn cachsdan chúng và nối cả thế giới vào một mối, nó mang lại cho cá nhân khả năng chi phối cả các thị trường lẫn các quốc gia trong bất cứ thời điểm nào. Từng ngày từng giờ cả thế giới đang vận động hòa mình vào dũng thỏc kinh tế toàn cầu và Việt Nam không phải là ngoại lệ. Cùng với nhịp độ sôi động của nền kinh tế thế giới thì nền kinh tế Việt Nam để có thể phát triển và hội nhập thì phải tìm được hướng đi cho nền sản xuất. Trong những năm qua Việt Nam đã và đang chú trọng hướng vào nền sản xuất cho xuất khẩu, trong đó mặt hàng chủ lực là nông sản luôn chiếm tỷ trọng lớn và là đối tượng hàng đầu của chính sách nhà nước. Thế giới đang được làm phẳng, biên giới quốc gia chỉ có ý nghĩa về mặt địa lý, vậy để khẳng định được tên tuổi quốc gia trên thế giới và cạnh tranh với nước ngoài phải thông qua chất lượng của hàng hóa, nên khi nghiên cứu lĩnh vực xuất khẩu nông sản chúng ta phải quan tâm đến chất lượng của hàng nông sản. Tuy nhiên trong phạm vi của đề tài, chúng tôi không thể nghiên cứu đầy đủ tất cả các lĩnh vực chất lượng hàng nông sản mà chúng tôi chỉ hướng tới chất lượng gạo của Việt Nam. Thông qua sự giúp đỡ tận tình của giáo viên hướng dẫn, chúng tôi đã đưa ra những phân tích , đánh giá thực trạng của chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam trước tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đồng thời đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng gạo Việt Nam phù hợp với yêu cầu hội nhập. Vì nội dung của đề tài khá rộng, chúng tôi có thể chưa bao quát được tất cả các mặt của vấn đề nghiên cứu , nếu có những thiếu sót hy vọng mọi người đánh giá và đóng góp ý kiến để bài viết được hoàn chỉnh hơn. Xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG I: TỔNG QUÁT CHUNG 1- Toàn cầu hóa 1.1 Toàn cầu hoá là gì? Xu hướng toàn cầu hóa là đặc trưng lớn nhất trong thời đại hiên nay. Vậy chúng ta đã biết gì về toàn cầu hóa? Toàn cầu hóa đã dến trước khi chúng ta nhân biết được về nó. Hệ thống toàn cầu hóa ngày nay- trong đó những rào cản về địa lý, thị trường và luận thuyết ngày càng bị phá bỏ- đang thiết lập một thể trạng mới trên thế giới. Hơn bao giờ hết, ranh giới truyền thống giữa chính trị, văn hóa, công nghệ và hệ sinh thái đang mờ nhạt đi. Chúng ta thường không thể giải thích về một mặt mà không đề cập tới những mặt khác và cũng không thể giải thích được toàn cục nếu không khụng nhỡn được tất cả các mặt. Toàn cầu hóa là điều mới mẻ, nó được xem như là hệ thống thế giới mới thay thế cho chiến tranh lạnh nhưng thế vẫn chưa thể giải thích cho chúng ta hiểu được về thực trạng thế giới ngày nay. Nếu thế giới được tạo ra chỉ từ những vi mạch và các thị trường thì toàn cầu hóa là phương tiện để giải thích hầu như bất cứ điều gì. Nhưng thế giới này gồm có vi mạch, con người, phong tục truyền thống, lòng ham muốn và những ước vọng không đoán được. Vậy thách thức trong thời toàn cầu hóa đến với đất nước và con người là làm sao dung hòa được giữa việc bảo tồn bản sắc quê hương và cộng đồng, đồng thời nỗ lực hết mức để tồn tại cho được trong hệ thống thế giới. Bất cứ xã hội nào muốn thịnh vượng về kinh tế đều phải cố gắng phát triển nền sản xuất và đưa chúng ra thế giới. Nhưng người ta cũng đừng bao giờ ảo tưởng rằng chỉ tham gia tích cực vào kinh tế thế giới khụng thụi mà có thể tạo được xã hội lành mạnh. Nếu hội nhập đạt được trong điều kiện phải hy sinh bản sắc của một đất nước, nếu các cá nhân cảm thấy họ bị mất gốc trong cơn lốc toàn cầu tì họ sẽ phản kháng và ngăn cản quá trình này. Do đó sự sống còn của toàn cầu hóa phụ thuộc một phần vào nỗ lực của chúng ta xây dựng sự cân bằng giữa phát triển và cội nguồn. Toàn cầu hóa không chỉ là một thứ mốt kinh tế, không phải là một khuynh hướng nhất thời. Nó là một hệ thống quốc tế, một hệ thống chủ đạo. Toàn cầu hóa đã phá sập tất cả những bức tường của hệ thống chiến tranh lạnh, giúp cho thế giới tập hợp lại với nhau, xé bỏ ngăn cách, tạo lập được một cánh đồng thẳng tắp. Ngày nay, cánh đồng này mở rộng hơn với tốc độ nhanh hơn, ngày càng có nhiều bức tường sụp đổ và nhiều quốc gia bị hút vào. Chính vì thế, ngày nay không còn khái niệm thế giới thứ nhất, thứ hai, hay thứ ba nữa. Ngày nay, chỉ còn là thế giới phát triển nhanh và thế giới phát triển chậm chạp- thế giới của những người bị đào thải sang bên lề hay những người tự chọn theo lối sống biệt lập không muốn nhập vào cánh đồng rộng lớn nói trên. 1.2 Những đặc trưng của toàn cầu hoá Thế giới hiện nay đã trở thành một nơi có những quan hệ ngày càng chồng chéo đan xen. Dù bạn là một công ty hay là một đất nước thì những mối đe dọa cũng như những cơ hội sẽ đến với bạn chính từ những đối tác mà bạn có quan hệ. Toàn cầu hóa là quá trình phát triển năng động là một sự hội nhập không thể đảo ngược giữa những thị trường, quốc gia và công nghệ tới mức chưa từng có, theo phương cách tạo điều kiện cho các cá nhân, tập đoàn công ty và nhà nước vươn quan hệ đến nhiều nơi trên thế giới, xa hơn, sâu hơn với chi phí thấp hơn bao giờ hết. Quá trình toàn cầu hóa cũng khiến nảy sinh chống đối dữ dội từ những ai bị thiệt hại hay bị hệ thống mới bỏ rơi. Ý tưởng làm động lực cho toàn cầu hóa là chủ nghĩa tư bản dựa trên kinh tế thị trường. Toàn cầu hóa có nghĩa là chủ nghĩa tư bản kinh tế thị trường lan vào hầu hết mọi quốc gia trên thế giới. Do đó toàn cầu hóa hình thành riờng nú một hệ thống luật lệ kinh tế- luật lệ xoay quanh việc mở cửa, thả nổi và tư nhân hóa nền kinh tế để nó có tính cạnh tranh cao hơn và thu hút được nhiều hơn đầu tư nước ngoài. Hệ thống toàn cầu hóa mang một sắc thái văn hóa riêng bao trùm và có xu hướng đồng hóa các quốc gia và cá nhân tới mức độ nhất định. Toàn cầu hóa có công nghệ định hình riêng. Để đo đếm toàn cầu hóa, người ta dùng đơn vị tốc độ- tốc độ trong buôn bán, đi lại, liên lạc và sáng tạo. Nền kinh tế trong toàn cầu hóa là một chu kỳ không ngừng đào thải những sản phẩm và dịch vụ lỗi thời và thay thế chúng bằng những sản phẩm và dịch vụ mới hữu hiệu hơn. Sáng kiến cải tiến táo bạo, thay đổi công nghệ hiện dang diễn ra nhanh chóng, hàng ngày, hàng giờ. Những quốc gia sẵn sàng để cho chủ nghĩa tư bản nhanh chóng thải đi những công ty làm ăn thua lỗ của mình rồi tập trung tiên đầu tư cho những doanh nghiệp làm ăn tốt hơn sẽ thực sự tiến bước trong thời đại toàn cầu hóa. Những quốc gia nào ỷ lại vào chính phủ bảo trợ cho những doanh nghiệp làm ăn yếu kém, tránh né sự đào thải sáng tạo nói trên rồi sẽ tụt hậu trong thời đại toàn cầu. “ Sáng tạo sẽ thay thế truyền thống. Hiện tại và có lẽ tương lai sẽ thay thế quá khứ. Không có gì quan trọng bằng những điều sắp xảy ra và liệu những điều đú cú xảy ra hay không lại tùy thuộc vào khả năng có thể đõỏ ngược được những gì hiện có. Bối cảnh đú thuõn lợi cho sáng tạo nhưng gây nhiều khó khăn cho cuộc sống bình thường vì con người ta vốn dĩ chỉ mong tưởng đến một tương lai ổn định, hơn là một cuộc đời hầu như chẳng có gì chắc chắn.’’ (Grove). Toàn cầu hóa cũng sản sinh một khuynh hướng dân số riêng- sự dịch chuyển nhanh chóng của dân chúng từ những vùng nông thôn với đời sống nông nghiệp ra thành thị. Và lối sống ở thành thị đang ngày càng gắn liền với các xu hướng toàn cầu trên phương diện thực phẩm, lương thực, thời trang, thị trường và giải trí. Quan trọng hơn, toàn cầu hóa mang đặc trưng cấu trúc quyền lực riêng . Toàn cầu hóa được xây dựng trên ba cán cân quyền lực chồng chéo và quan hệ tương hỗ. Trước hết là sự đối trọng truyền thống giữa các quốc gia. Trong toàn cầu hóa Hoa Kỳ là siêu cường duy nhất, và tất cả các nước khác ít nhiều đều phụ thuộc vào Hoa Kỳ. Tuy nhiên, đối trọng quyền lực giữa Hoa Kỳ và các nước khác vẫn đóng vai trò duy trì ổn định cho toàn hệ thống. Cán cân quyền lực thứ hai là giữa các quốc gia và thị trường toàn cầu. Đối trọng về quyền lực thứ ba trong hệ thống toàn cầu hóa là giữa các cá nhân và các nhà nước. Do toàn cầu hóa đã phá đi nhiều bức tường ngăn cách dân chúng và nối thế giới lại với nhau nờn cỏc cá nhân có thể tự mình hoạt động trên thị trường thế giới mà không cần sự môi giới của nhà nước. Các quốc gia và đặc biệt là siêu cường Mỹ ngày nay vẫn có vai trò quan trọng. Nhưng quan trọng không kém, là vai trò của các siêu thị và các cá nhân có quyền lực lớn. Toàn cầu hóa là tổng hòa quan hệ phức tạp giữa ba yếu tố: nhà nước va chạm với nhà nước, nhà nước va chạm với các siêu thị và siêu thị cùng nhà nước va chạm với những cá nhân có quyền lực lớn. Hệ thống toàn cầu hóa làm nảy sinh những nguồn lực phát triển mạnh mẽ, cũng như khả năng đồng hóa có tốc độ chóng mặt. Như những gì đã nói ở trên, toàn càu hóa là yêu cầu khách quan mang tính chất thời đại. Sự phát triển của cách mạng khoa học công nghệ đã dần xóa đi biên giới của các quốc gia. Việc dân chủ hóa công nghệ đồng thời có nghĩa là tiềm năng làm giàu sẽ được sẻ theo vị trí địa lý. Chỳng giỳp cho nhiều sắc dân ở nhiều vựng sõu vựng xa những cơ hội để họ tiếp cận và áp dụng kiến thức. Chính cách mạng khoa học công nghệ đã đưa lại sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia và giỳp cỏc quốc gia xâm nhập sâu hơn vào thị trường thế giới. Tiếp theo, phân công lao động tạo ra sự phụ thuộc giữa các quốc gia trong toàn bộ quá trình sản xuất và cung cấp dịch vụ. Ngày nay, quá trình sản vuất được chia thành nhiều khâu và đặt tại các quốc gia khác nhau để tân dụng lợi thế cỳa cỏc quốc gia đó. Đồng thời sản phẩm tạo ra không chỉ cung cấp cho nội địa mà hướng tới thị trường thế giới, từ đó tạo nên các quan hệ mang tính toàn cầu. Trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế các công ty xuyên quốc gia đống vai trò then chốt và thực sự chi phối nền kinh tế thế giới. Từ năm 2000 đến nay, nhiều công ty xuyên quốc gia lớn sáp nhập với nhau hình thành các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia khổng lồ. Các công ty xuyên quốc gia cỡ lớn đều có một hệ thống kinh doanh lấy công ty mẹ làm trung tâm, mở rộng ra toàn cầu. Hàng trăm, hàng ngàn hệ thống như vậy đan lại thành mạng lưới kinh tế toàn cầu khổng lồ, bao trùm tất cả, che phủ các khu vực, các quốc gia trên toàn thế giới. Các công ty này sẽ mở cửa biên giới quốc gia, tạo ra sự hội nhập tất yếu từ tế bào kinh tế. Đồng thời sự tồn tại và hoạt động của các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế và các chính sách qui định của nó đã thúc đẩy hơn nữa xu hướng toàn cầu hóa. Nhiều tổ chức kinh tế tài chính lớn như WTO, IMF, WB…..đúng vai trò như một “ liên hợp quốc’’ trong lĩnh vực kinh tế, tài chính, thương mại quốc tế. Các tổ chức liên kết kinh tế khu vực như EU, NAFTA, ASEAN….đưa ra các thỏa thuận hợp tác song phương và đa phương để tăng thêm sự gắn bó phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế quốc gia. Các tổ chức này còn thúc đẩy các quốc gia phải xây dựng lộ trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế phù hợp. Những tư tưởng đổi mới, cải tổ trở thành xu hướng tích cực của thời đại. Sau chiến tranh lạnh, tất cả các quốc gia đều tập trung điều chỉnh chiến lược phát triển, trong đó ưu tiên mọi nguồn lực cho hợp tác và phát triển kinh tế. Cánh cửa các nền kinh tế quốc gia đã mở rộng để giao lưu, lien kết kinh tế khu vực và quốc tế. “ Đa phương hóa và đa dạng húa’’ đó trở thành phương châm chủ đạo của các quốc gia trong quan hệ kinh tế quốc tế. Liên kết và hợp tác kinh tế đã không ngừng mở rộng và phát triển trên qui mô toàn cầu. 1.3 Những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế với Việt Nam Tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế có 3 chủ thể: nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng. Nếu xem xét một cách riêng biệt lợi ích của ba chủ thể đó, việc tham gia các liên kết kinh tế quốc tế có ảnh hưởng rất khác nhau. Lợi ích trực tiếp của nhà nước là nguồn thu thuế xuất nhập khẩu sẽ giảm sút, nếu như không tác động kích thích tăng lượng buôn bán quốc tế đến mức mà số lượng thu được từ thuế do tăng doanh thu không bù đắp được sự cắt giảm thu do giảm thuế suất. Doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh chịu hai loại tác động ngược chiều: được lợi do tăng được khả năng cạnh tranh về giá cả và chịu sức ép cạnh tranh lớn hơn do xoá bỏ các hàng rào bảo hộ thuế và phi thuế. Việc cắt giảm thuế xuất nhập khẩu không ảnh hưởng trực tiếp đến tài chính doanh nghiệp, bởi vì thuế xuất nhập khẩu là thuế gián thu, một thành phần của giá thành, sẽ do người tiêu dùng chi trả. Người tiêu dùng được lợi do giá cả rẻ hơn và chủng loại, chất lượng hàng hoá phong phú, đa dạng hơn. Có thể nói rằng thiệt hại trực tiếp của nhà nước về thuế và sự được lợi trực tiếp của người tiêu dùng do giảm thuế trong giá là hai khoản bù trừ cho nhau. Đây là sự thay đổi trong phân phối thu nhập, phần thu nhập của Chính Phủ chuyển sang tay tư nhân. Điều này sẽ gián tiếp tác động đến cơ cấu đầu tư xét theo chủ thể kinh tế. Đầu tư của tư nhân cho sản xuất kinh doanh sẽ có thể tăng lên trong tương lai nhờ khoản tiết kiệm qua giá mua hàng rẻ hơn. Tác động hai mặt của việc xoá bỏ hàng rào bảo hộ mậu dịch đối với các doanh nghiệp trông dễ thấy về định tính, song khó dự báo về điịnh lượng. Xoá bỏ bảo hộ có thể buộc doanh nghiệp phải cải tổ toàn diên để đối dầu trực tiếp với sức ép cạnh tranh từ các nước trong khu vực. Cạnh tranh có thể thúc đẩy sản xuất phát triển , nhưng đồng thời có thể làm điêu đứng và phá sản hàng loạt doanh nghiệp, thậm chí hàng loạt ngành. Xoá bỏ bảo hộ chắc chắn dẫn đến việc thay đổi cơ cấu kinh tế. Tác động dài hạn của toàn bộ quá trình tham gia liên kết kinh tế quốc tế, của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế tới cơ cấu nền kinh tế có mức độ quan trọng hơn nhiều so với nguồn thu ngân sách. Bởi vì nó quyết định việc lựa chọn một chiến lược cơ cấu thích ứng với tình thế của nền kinh tế không còn các hàng rào bảo hộ mậu dịch che chắn, từ đó quyết định diện mạo nền kinh tế trong tương lai và vị thế của nước ta trong nền kinh tế mở khu vực và toàn cầu. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế bắt buộc các quốc gia phải thực thi các chính sách mở cửa, tự do hoá thương mại, đầu tư. Do đó mỗi quốc gia phải điều chỉnh sửa đổi chính sách hiên hữu để hình thành chính sách kinh tế phù hợp của mình theo hướng mở cửa và tự do hoá kinh tế. Những tác động mạnh mẽ về kinh tế tất yếu sẽ tác động ảnh hưởng đến chính trị, xã hội, văn hoá ở mỗi quốc gia. Như vậy, đánh giá định tính và định lượng tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với Việt Nam là vấn đề rất quan trọng và cấp thiờt. 2- Tổng quan về chất lượng sản phẩm, hàng hóa 2.1 Các khái niệm về chất lượng hàng hoá Chất lượng có nhiều cách hiểu khác nhau. Xuất phát từ quản lý sản xuất, chất lượng của một sản phẩm là mức độ sản phẩm ấy thể hiện những yêu cầu, những chỉ tiêu thiết kế hay những qui định chung cho sản phẩm ấy. Xuất phát từ sự thỏa mãn nhu cầu, chất lượng sản phẩm là năng lực của một sản phẩm hoặc một dịch vụ thỏa mãn những nhu cầu của người tiêu dùng; là sự thỏa mãn nhu cầu với chi phí thấp nhất. Phản ánh thông qua những đặc trưng, chất lượng sản phẩm là toàn bộ các đặc tính của một thực thể tạo cho thực thể đó khả năng thỏa mãn các nhu cầu đã công bố hay còn tiềm ẩn. Theo Luật chất lượng sản phẩm hàng hóa (2007), thì chất lượng sản phẩm, hàng hóa là mức độ của các dặc tính của sản phẩm, hàng hóa đáp ứng yêu cầu trong tiêu chuẩn công bố áp dụng, quy chuẩn, kỹ thuõt tương ứng. Về thực chat, chất lượng sản phẩm là độ thỏa mãn nhu cầu. Chất lượng sản phẩm là tổng hợp các tính chất, các đặc trưng của một sản phẩm tạo nên giá trị sử dụng, thể hiện khả năng mức độ thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng với hiệu quả cao, trong những điều kiện nhất định của sản xuất, kinh tế xã hội. Khi đề cập đến chất lượng sản phẩm phải chú ý: thứ nhất, giá trị sử dụng của sản phẩm và chất lượng sản phẩm không phải là khỏi niờm đồng nghĩa, chất lượng là thước đo mức độ hữu ích của giá trị sử dụng, biểu thị trình độ giá trị sử dụng của hàng hóa hay nói cách một cách khác, chất lượng được đo bởi sự thỏa mãn nhu cầu của khách hàng và người sử dụng. Một sản phẩm có chất lượng cao hay thấp phụ thuộc vào mức độ thỏa mãn nhu cầu của sản phẩm đó. Một sản phẩm không được nhu cầu chấp nhận thì sản phẩm đó được coi là có chất lượng kém. Thứ hai, nhu cầu của con người luôn biến động theo thời gian, không gian và điều kiện sử dụng. Các doanh nghiệp muốn nâng cao khả năng cạnh tranh, nâng cao uy tín trước khách hàng cần nghiên cứu kỹ nhu cầu của khách hàng và đáp ứng tốt các nhu cầu đó. Để thực hiện được nhiờm vụ trên, doanh nghệp cần định kỳ xem xét lại yêu cầu chất lượng để sản xuất ra sản phẩm có chất lượng. Thứ ba, giữa các đối tượng khác nhau, nhu cầu rất khác nhau. Doanh nghiệp không thể sản xuất sản phẩm phù hợp cho từng đối tượng cụ thể mà chỉ có thể sản xuất sản phẩm phù hợp với từng nhóm khách hàng. Vì vậy, khi xác định các chỉ tiêu chất lượng, doanh nghiệp phải xem xét đến đặc tính của đối tượng liên quan đến sự thỏa mãn những nhu cầu cụ thể. Thứ tư, chất lượng có thể công bố dưới dạng các qui định tiêu chuẩn rõ rang hoặc chỉ cảm nhận , phát hiện được trong quá trình sử dụng. Do đó, những tính chất cũng như những đặc trưng của sản phẩm có thể được xác định bằng những chỉ tiêu, những thông số về kinh tế-kỹ thuật-thẩm mỹ….cú thể cân đong đo dếm được, đánh giá được trước khi sử dụng, sau khi sử dụng. Tuy nhiên một doanh nghiệp không thể kinh doanh bằng bất kỳ giá nào nên ở đây phải có sự cân đối giwuax sự thỏa mãn nhu cầu khách hàng và độ thỏa mãn nhu cầu của doanh nghiệp. Thứ năm, khỏi niờm chất lượng không chỉ dùng đối vời hàng hóa mà có thể áp dụng cho mọi thực thể: một sản phẩm, một hoạt động, một quá trình, một doanh nghiệp hoặc một con người. Vì vậy , có thể đo lường được chất lượng của sản phẩm hữu hình và cả chất lượng của sản phẩm là dịch vụ. Thứ sáu, chất lượng của sản phẩm vừa có tính chủ quan vừa có tính khách quan. Nó thể hiện mối quan hệ tương tác giữa sản phẩm- con người – xã hội. Vì vậy, chất lượng theo nghĩa rộng (chất lượng tổng hợp) bao gồm cả giá cả, giao hàng và dịch vụ là những yếu tố thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Mỗi sản phẩm sản xuất ra đều nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người, vì vậy mỗi sản phẩm sản xuất ra đều có giá trị sử dụng nhất định. Giá trị sử dụng được hình thành từ các tính chất của sản phẩm. Mỗi sản phẩm có rất nhiều tính chất, tuy nhiên khi xem xét giá trị sử dụng của sản phẩm, có thể xem xét trên một số tính chất cơ bản như: nhóm tính chất chức năng công dụng; nhóm tính chất kỹ thuật công nghệ; nhúm thớnh chất sinh thái; nhóm tính chất thẩm mỹ; nhóm tính chất kinh tế xã hội. 2.2 Vai trò của chất lượng Trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao chất lượng của hàng hóa dịch vụ. Chất lượng hàng hóa và dịch vụ là yếu tố để doanh nghiệp chinh phục khách hàng. Với sản phẩm hàng hóa có chất lượng cao, doanh nghiệp sẽ có điều kiện mở rộng và phát triển kinh doanh một cách bền vững. Khách hàng mua sắm hàng hóa dịch vụ đạt được sự thỏa mãn cao trong tiêu dùng sẽ tin tưởng vào sự cung cấp hàng hóa của doanh nghiệp, sẵn sàng mua sắm hàng hóa của doanh nghiệp khi có nhu cầu. Chính điều này làm cho doanh nghiệp có khả năng tăng doanh thu và tăng lợi nhuận. Chất lượng sản phẩm làm gia tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Tạo ra sức hấp dẫn thu hút người mua, mỗi sản phẩm có rất nhiều tính chất, lượng khác nhau, các thuộc tính này coi là một trong những yếu tố cơ bản tạo nên lợi thế cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp. Khách hàng lựa chọn mua hàng vào những sản phẩm có thuộc tính phù hợp với nhu cầu, sở thích và khả năng , điều kiện sử dụng của mình. Họ so sánh các sản phẩm cùng loại và lựa chọn loại hàng nào có những thuộc tính kinh tế- kỹ thuật thỏa mãn những mong đợi của họ ở mức cao hơn. Bởi vậy sản phẩm có thuộc tính chất cao là một trong những căn cứ quan trọng cho quyết định mua hàng và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Ngoài ra, Chất lượng sản phẩn còn nâng cao vị thế , sự phát triển lâu dài cho
Tài liệu liên quan