Đề tài Những phương hướng và biện pháp quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp ở Công ty cơ khí, xây dựng và lắp máy điện nước

Cùng với công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Ngành xây dựng cơ bản ở nước ta đang thu hút một khối lượng vốn đầu tư lớn, là ngành mũi nhọn của nền kinh tế quốc dân, tạo ra những cơ sở vật chất kỹ thuật cho xã hội, góp phần đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

doc45 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1294 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những phương hướng và biện pháp quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp ở Công ty cơ khí, xây dựng và lắp máy điện nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Cùng với công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Ngành xây dựng cơ bản ở nước ta đang thu hút một khối lượng vốn đầu tư lớn, là ngành mũi nhọn của nền kinh tế quốc dân, tạo ra những cơ sở vật chất kỹ thuật cho xã hội, góp phần đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Để đảm bảo vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản, các công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước hướng vào việc quản lý chặt chẽ nguồn vốn đầu tư nhất là đối với do ngân sách nhà nước cấp. Điều đó đặt ra một vấn đề cho các doanh nghiệp hoạt động xây lắp là muốn đứng vững trong cơ chế thị trường, kinh doanh có lãi thì con đường tất yếu và cơ bản nhất là phấn đấu hạ giá thành sản xuất sản phẩm. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề đó qua thời gian nghiên cứu lý luận và tìm hiểu thực tế tại Công ty cơ khí, xây dựng và lắp máy điện nước, thấy có nhiều vấn đề trong lĩnh vực xây lắp của Công ty cần quan tâm, em mạnh dạn chọn đề tài: “Những phương hướng và biện pháp quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp ở Công ty cơ khí, xây dựng và lắp máy điện nước.” Chuyên đề gồm 3 chương: Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý chi phí kinh doanh và giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. Chương II: Thực trạng công tác quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm ở Công ty cơ khí, xây dựng và lắp máy điện nước. Chương III: Một số biện pháp nhằm tăng cường quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp của Công ty cơ khí, xây dựng và lắp máy điện nước. Chương I Những vấn đề Lý luận cơ bản về quản lý chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm của doanh nghiệp I-/ Doanh nghiệp - Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế được thành lập nhằm sản xuất cung ứng sản phẩm hay dịch vụ trên thị trường với mục đích cuối cùng là lợi nhuận. Trong nền kinh tế quốc dân, tồn tại nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau, theo cách phân loại dựa vào yếu tố sở hữu tài sản của doanh nghiệp thì có: - Doanh nghiệp nhà nước. - Doanh nghiệp của tổ chức chính trị xã hội. - Hợp tác xã. -Công ty trách nhiệm hữu hạn và Công ty cổ phần. -Doanh nghiệp tư nhân. - Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 1.1-/ Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra trên các lĩnh vực sản xuất, xây dựng, thương mại dịch vụ ...là để sản xuất và cung cấp hàng hoá-dịch vụ cho người tiêu dùng nhằm thu được lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu kinh doanh đó, nhất thiết doanh nghiệp phải bỏ ra những chi phí nhất định. Chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra trước hết là các chi phí cho việc sản xuất sản phẩm. Trong khi tiến hành sản xuất sẻ phải tiêu hao các loại vật tư như nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, hao mòn máy móc, thiết bị các công cụ, dụng cụ. Doanh nghiệp còn thực hiện trả tiền lương(hay tiền công) cho công nhân viên . Như vậy có thể thấy chi phí sản xuất của doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về vật chất và lao động mà doanh nghiệp phải bỏ ra để sản xuất sản phẩm trong một thời kì nhất định. Các chi phí này phát sinh có tính chất thường xuyên và gắn liền với quá trình sản xuất sản phẩm. Lượng chi phí bỏ ra nhiều hay ít phụ thuộc vào khối lựơng sản phẩm tạo ra và tình hình thực hiện nguyên tắc tiết kiệm của doanh nghiệp. Kết thúc quá trình sản xuất kinh doanh phải đem bán sản phẩm của mình sản xuất ra. Để tiêu thụ được sản phẩm thì doanh nghiệp cũng phải bỏ ra những chi phí nhất định như chi phí về bao gói sản phẩm, vận chuyển, bảo quản sản phẩm. Ngoài ra để giới thiệu rộng rãi sản phẩm cho người tiêu dùng, cũng như hướng dẫn tiêu dùng, điều tra, khảo sát thị trường để có những quyết định đối với việc sản xuất thì doanh nghiệp còn quảng cáo, giới thiệu sản phẩm hay bảo hành sản phẩm. Tất cả những chi phí liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm hay bảo hành sản phẩm gọi là chi phí tiêu thụ hay còn gọi là chi phí lưu thông sản phẩm. Ngoài chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, trong kinh doanh, doanh nghiệp còn phải nộp những khoản tiền thuế gián thu cho nhà nước theo luật thuế đã quy định như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu.v.v. Đối với doanh nghiệp những khoản tiền thuế phải nộp trên là những chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra trong kinh doanh vì thế nó mang tính chất các khoản chi phí kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy, từ góc độ của doanh nghiệp, có thể thấy chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là toàn bộ chi phí sản xuất, chi phí tiêu thụ sản phẩm và các khoản tiền thuế gián thu mà doanh nghiệp phải bỏ ra để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kì nhất định. Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, mỗi doanh nghiệp sản xuất, trước hết phải xác định hoạt động sản xuất kinh doanh chính của doanh nghiệp mình, lựa chọn việc sản xuất kinh doanh những loại sản phẩm nhất định thuộc phạm vi ngành nghề sản xuất nhất định của xã hội. Mỗi ngành sản xuất vật chất của xã hội như công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng v.v... có những đặc điểm kinh tế kỹ thuật riêng. Những đặc điểm đó sẽ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hoạt động trong ngành sản xuất ấy. 1.2-/ Giá thành sản phẩm của doanh nghiệp; 1.2.1. Khái niệm: Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ chi phí của doanh nghiệp để hoàn thành việc sản xuất và tiêu thụ một loại sản phẩm nhất định. Giá thành sản phẩm của một doanh nghiệp biểu hiện chi phí cá biệt của doanh nghiệp để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Cùng một loại sản phẩm có thể có nhiều doanh nghiệp cùng, nhưng do trình độ quản lý khác nhau giá thành sản phẩm sẽ khác nhau. Trong phạm vi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm có thể phân biệt giá thành sản xuất sản phẩm và giá thành của sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đã tiêu thụ Giá thành sản xuất sản phẩm bao gồm toàn bộ chi phí của doanh nghiệp bỏ ra để hoàn thành việc sản xuất sản phẩm. Giá thành của sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đã tiêu thụ bao gồm giá thành sản xuất của sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đã tiêu thụ với các khoản chi phí cho việc bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp. 1.2.2. Nội dung giá thành sản phẩm và dịch vụ: a. Giá thành sản xuất của sản phẩm và dịch vụ gồm: + Chi phí vật tư trực tiếp: Bao gồm chi phí về nguyên liệu, nhiên liệu sử dụng trực tiếp tạo ra sản phẩm, dịch vụ. + Chi phí nhân công trực tiếp: Bao gồm chi phí lương, tiền công, các khoản trích nộp của công nhân trực tiếp tạo ra sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp phải nộp theo quy định như bảo hiểm xã hội, kinh phí công đoàn, bảo hiểm y tế của công nhân sản xuất. + Chi phí sản xuất chung: Là các chi phí sử dụng cho hoạt động sản xuất, chế biến của phân xưởng trực tiếp tạo ra sản phẩm hàng hoá dịch vụ. Bao gồm: Chi phí vật liệu, công cụ lao động nhỏ; khấu hao tài sản cố định phân xưởng, tiền lương các khoản trích nộp theo quy định của nhân viên phân xưởng; chi phí dịch vụ mua ngoài; chi phí khác bằng tiền phát sinh ở phạm vi phân xưởng. b. Giá thành toàn bộ của sản phẩm, dịch vụ tiêu thụ: + Giá thành sản xuất của sản phẩm, dịch vụ tiêu thụ. + Chi phí bán hàng: Là toàn bộ các chi phí liên quan tới việc tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ, bao gồm cả chi phí bảo hành sản phẩm. + Chi phí quản lý doanh nghiệp: Bao gồm các chi phí cho bộ máy quản lý và điều hành doanh nghiệp, các chi phí có liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như: Chi phí công cụ lao động nhỏ, khấu hao tài sản cố định phục vụ bộ máy quản lý và điều hành doanh nghiệp; tiền lương và các khoản trích nộp theo quy định của bộ máy quản lý và điều hành doanh nghiệp; chi phí dịch vụ mua ngoài; chi phí khác bằng tiền phát sinh ở doanh nghiệp như chi phí về tiếp tân khánh tiết, giao dịch, chi phí các khoản trợ cấp thôi việc cho người lao động... 1.3-/ Sự cần thiết phải quản lý chi phí sản xuất kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm . Chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có mối quan hệ mật thiết với hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp: Hiệu quả kinh doanh = Kết quả kinh doanh - chi phí kinh doanh Do vậy đối với nhà quản trị phải đi vào quản lý chi phí trong quá trình kinh doanh , thường xuyên kiểm tra giám sát chặt chẽ chi phí sản xuất kinh doanh để đảm bảo nguyên tắc tiết kiệm hiệu quả, bởi vì nếu mỗi đồng chi phí không hợp lý đều làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp việc hạ giá thành có ý nghĩa rất lớn, thể hiện: - Hạ giá thành sản phẩm là một trong những nhân tố tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện tốt việc tiêu thụ sản phẩm. Khi thị trường có sự cạnh tranh, hàng hoá đa dạng, phong phú, các doanh nghiệp buộc phải nâng cao chất lượng sản phẩm và phải tìm các biện pháp giảm chi phí hạ giá thành sản phẩm. Việc hạ giá thành sẽ tạo được lợi thế cho doanh nghiệp trong cạnh tranh, doanh nghiệp có thể giảm bớt giá bán để đẩy nhanh việc tiêu thụ sản phẩm, thu hồi vốn nhanh. - Hạ giá thành sẽ trực tiếp làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Do giá cả được hình thành từ quan hệ cung cầu trên thị trường, nếu giá thành hạ so với giá trên thị trường, doanh nghiệp sẽ thu được lợi nhuận trên một đơn vị sản phẩm càng cao. Nếu giá thành càng thấp, doanh nghiệp sẽ có lợi là có thể hạ được giá bán để có thể tiêu thụ khối lượng sản phẩm nhiều hơn và sẽ thu được lợi nhuận lớn hơn. - Hạ giá thành có thể tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng thêm sản xuất sản phẩm, dịch vụ do doanh nghiệp đã tiết kiệm được các chi phí nguyên, nhiên vật liệu và chi phí quản lý với khối lượng sản xuất như cũ, nhu cầu vốn lưu động dùng trong sản xuất hoặc có thể mở rộng sản xuất tăng thêm lượng sản phẩm tiêu thụ. 1.4-/ Quản lý chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm của doanh nghiệp: 1.4.1. Yêu cầu quản lý và lập kế hoạch chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: Một trong những nhiệm vụ quan trọng của công tác quản lý doanh nghiệp là tiết kiệm chi phí sản xuất kinh doanh. Để quản lý tốt chi phí mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh phải lập kế hoạch chi phí tức là dùng hình thức tiền tệ tính toán trước mọi chi phí cho cho sản xuất kinh doanh của kỳ kế hoạch. Việc lập kế hoạch chi phí sản xuất kinh doanh là xác định mục tiêu phấn đấu của đơn vị, đồng thời thúc đẩy đơn vị cải tiến quản lý kinh doanh thực hiện chế độ tiết kiệm trong sản xuất để hạ giá thành sản phẩm. Chỉ tiêu chi phí sản xuất có ảnh hưởng tích cực đối với các chỉ tiêu khác ví dụ như chỉ tiêu vốn lưu động được xác định căn cứ vào dự toán chi phí sản xuất của đơn vị, lợi nhuận của doanh nghiệp nhiều hay ít phụ thuộc phần lớn vào giá thành sản lượng hàng hoá kỳ kế hoạch, và được xác định trên cơ sở dự toán chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ. Nhiệm vụ chủ yếu của việc lập kế hoạch chi phí sản xuất kinh doanh là phát hiện và động viên mọi khả năng tiềm tàng trong kinh doanh để không ngừng giảm bớt chi phí sản xuất và chi phí tiêu thụ sản phẩm, tăng lợi nhuận nhằm đáp ứng yêu cầu tái sản xuất mở rộng và cải thiện điều kiện sống của công nhân viên chức trong đơn vị. Nhiệm vụ này yêu cầu người quản lý tài chính đơn vị phải tính đúng, tính đủ các chi phí sản xuất kinh doanh để xác định chỉ tiêu kế hoạch đồng thời theo dõi động viên từng bộ phận trong đơn vị phấn đấu thực hiện. 1.4.2. Kiểm tra tài chính đối với chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm : Như trên đã nêu việc giảm chi phí và hạ giá thành sản phẩm đối với một doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng. Vì thế, bộ phận tài chính doanh nghiệp cần phát huy vai trò của mình, tăng cường kiểm tra quá trình thực hiện chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. Việc kiểm tra đó có thể thực hiện theo nội dung chủ yếu sau đây: a. Kiểm tra tài chính đối với khoản chi phí nguyên, nhiên vật liệu: Thông thường chi phí nguyên nhiên vật liệu chiếm tỷ trọng rất lớn trong chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. Do vậy việc phấn đấu giảm thấp chi phí nguyên nhiên vật liệu có ý nghiã rất lớn đối với việc hạ giá thành sản phẩm. Chi phí về nguyên vật liệu trong giá thành một loại sản phẩm chủ yếu phụ thuộc vào hai yếu tố: Lượng nguyên vật liệu tiêu hao và giá nguyên vật liệu. Nhưng cũng cần thấy rằng chi phí nguyên vật không chỉ phụ thuộc vào khâu sản xuất mà nó còn liên quan đến các khâu khác như khâu mua, vận chuyển, kiểm nhận, bảo quản... Do vậy, việc kiểm tra chi phí vật tư không chỉ thực hiện trong khâu sản xuất mà cần phải kiểm tra cả ở khâu mua, khâu dự trữ có liên quan đến hai yếu tố: lượng vật tư tiêu hao và giá vật tư. Đối với yếu tố lượng vật tư tiêu hao bộ phận tài chính cần tham gia xây dựng định mức tiêu hao vật tư cho một đơn vị sản phẩm. Định mức tiêu hao vật tư là vấn đề quan trọng có ý nghĩa quyết định đến chi phí vật tư của doanh nghiệp. Thông qua tình hình xuất, nhập vật tư thực hiện việc kiểm tra đối với các khâu mua sắm, kiểm nhận vật tư, bảo quản dự trữ, xuất vật tư dùng vào sản xuất ... Nhằm ngăn chặn tình trạng vật tư bị mất mát hư hỏng và kém phẩm chất. Cũng cần chú ý là đối với việc sản xuất các sản phẩm có tính thời vụ, việc mua sắm, dự trữ vật tư không đáp ứng kịp thời cho nhu cầu sản xuất sẽ có thể gây tổn thất lớn trong sản xuất. Đối với yếu tố vật tư, bộ phận tài chính cần tham gia ý kiến ngay từ đầu vào việc lựa chọn nguồn vật tư, địa điểm giao hàng, thời hạn cung cấp, phương tiện vận chuyển và nhất là về giá mua, cước phí vận chuyển, bốc dỡ.v.v... cần phải dự đoán những biến động về cung, cầu và giá cả vật tư trên thị trường để đề ra những biện pháp thích ứng. Thông qua việc thanh toán cần kiểm tra lại giá mua vật liệu, các chi phí vận chuyển, bốc dỡ và tình hình thực hiện hợp đồng của người bán vật tư, người vận chuyển, bốc dỡ, bộ phận tài chính cần phối hợp với các bộ phận khác định kỳ thực hiện việc phân tích tình hình mua sắm, dự trữ vật tư và chi phí vật tư cho sản xuất sản phẩm nhằm tìm ra nguyên nhân dẫn đến tăng hoặc giảm chi phí vật tư cho một đơn vị sản phẩm và đề xuất những biện pháp thích ứng trong kỳ tới. Đồng thời, cần đề xuất những biện pháp thưởng, phạt vật chất thích đáng nhằm khuyến khích việc phát huy sáng kiến, cải tiến, sử dụng tiết kiệm vật tư, tận dụng phế liệu, thay thế và hạn chế ngăn ngừa tình trạng lãng phí, hư hỏng mất mát vật tư. b. Kiểm tra tài chính đối với khoản chi phí tiền lương: Tỷ trọng chi phí tiền lương trong giá thành sản phẩm của các doanh nghiệp có sự khác nhau nhưng nhìn chung tiền lương chiếm một tỷ trọng không nhỏ trong giá thành. Việc kiểm tra tài chính đối với khoản chi phí tiền lương là nhằm thúc đẩy việc phấn đấu hạ mức chi phí về tiền lương trong một đơn vị sản phẩm, mặt khác thông qua việc kiểm tra góp phần vào việc phân phối và sử dụng hợp lý nguồn lao động của doanh nghiệp, thúc đẩy việc tăng năng xuất lao động. Việc kiểm tra tài chính đối với chi phí tiền lương được thực hiện trong quá trình lập và thực hiện kế hoạch lao động tiền lương của doanh nghiệp. Trước hết bộ phận tài chính của doanh nghiệp cần tham gia ý kiến một cách xác đáng trong việc xây dựng kế hoạch lao động và tiền lương của đơn vị mình. Để tham gia ý kiến đồng thời thực hiện việc kiểm tra kế hoạch này, bộ máy tài chính của doanh nghiệp cần nắm vững tình hình bố trí lao động, tình hình năng suất lao động và mối quan hệ giữa tốc độ năng suất lao động và tăng tiền lương kỳ báo cáo. Trong khi tham gia ý kiến xây dựng kế hoạch, cần chú trọng xem xét các yếu tố định mức lao động và đơn giá tiền lương cùng với hình thức trả lương. Thông qua việc thanh toán chi trả tiền lương, bộ máy tài chính doanh nghiệp cần kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch lao động tiền lương và kế hoạch sản xuất. Trong đó cần chú trọng xem xét tình hình thực hiện định mức lao động, mối quan hệ giữa tốc độ tăng tiền lương bình quân và tốc độ tăng năng suất lao động, về nguyên tắc tốc độ tăng năng suất liền lương phải chậm hơn tốc độ tăng năng xuất lao động. Đồng thời cũng cần phải xem xét tác động của hình thức trả lương đến việc nâng cao năng xuất lao động, giảm tỷ lệ phế phẩm, tìm ra những hình thức trả lương có hiệu quả cao. Bộ phận tài chính cũng cần phối hợp với các bộ phận tiền lương và các bộ phận khác của doanh nghiệp định kỳ tiến hành phân tích đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch lao động tiền lương để phát hiện những tình trạng bất hợp lý, rút ra những kinh ngiệm tốt trong việc quản lý lao động tiền lương. c. Kiểm tra tài chính đối với những khoản chi có tính chất tổng hợp như chi phí phân xưởng (chi phí sản xuất chung), chi phí quản lý xí nghiệp (chi phí gián tiếp) Việc kiểm tra tài chính đối với những khoản chi phí được thực hiện trong quá trình lập và chấp hành các dự toán chi phí này. Phương pháp chủ yếu kiểm tra lập các dự toán chi phí trên là căn cứ vào nội dung các khoản chi phí và các tiêu chuẩn định mức để xem xét tính chất hợp lý của các khoản chi phí trong dự toán, phát hiện những điểm bất hợp lý trong dự toán. Phương pháp chủ yếu kiểm tra quá trình thực hiện các dự toán chi phí trên là căn cứ nội dung các khoản chi phí và các dự toán đã được lập thông qua việc thanh toán thực hiện chi phí, tình hình thực tế thực hiện dự toán và tính chất hiệu quả của các khoản chi phí bỏ ra, kết hợp với tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh chung của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó xem xét phân tích để phát hiện loại trừ những chi phí bất hợp lý ngăn chặn tình trạng chi phí quá mức cần thiết, chi phí kém hiệu quả. Việc ngiên cứu để quản lý tốt chi phí sản xuất kinh doanh, quản lý giá thành trong các doanh nghiệp là một công tác rất phức tạp có liên quan tới nhiều mặt hoạt động của doanh nghiệp. Trên đây là những phương hướng và biện pháp chủ yếu để quản lý chi phí và giá thành sản phẩm, nó đúng cho mọi doanh nghiệp hoạt động sản xuất. Song tuỳ vào đặc điểm sản xuất kinh doanh của từng ngành, điều kiện cụ thể của doanh nghiệp thì những biện pháp sẽ mang những tính chất, đặc thù riêng. II-/ Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp 2.1-/ Đặc điểm hoạt động kinh doanh xây lắp: Trong nền kinh tế quốc dân bất cứ một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong ngành nào thì chi phí sản xuất kinh doanh đều chịu ảnh hưởng rất lớn bởi đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành đó. Trong ngành xây lắp cũng vậy,do đó để tìm hiểu, đặt ra các biện pháp nhằm tăng cường quản lý chi phí, hạ giá thành sản phẩm nhất thiết phải nghiên cứu đặc điểm kinh tế kỹ thuật xây lắp. Kinh doanh xây lắp là ngành sản xuất vật chất quan trọng mang tính chất công nghiệp nhằm tạo ra cơ sở vật chất cho nền kinh tế quốc dân. Thông thường hoạt động xây lắp do các đơn vị xây lắp do các đơn vị xây lắp tiến hành. Ngành sản xuất này có đặc điểm chủ yếu sau: - Sản phẩm xây lắp là công trình vật kiến trúc... có qui mô lớn, kết cấu phức tạp mang tính đơn chiếc, thời gian sản xuất kéo dài...Do vậy, việc tổ chức quản lý phải có dự toán, thiết kế thi công - Sản phẩm xây lắp cố định tại nơi sản xuất còn các điều kiện sản xuất khác như lao động, vật tư, thiết bị luôn phải di chuyển theo mặt bằng và vị trí thi công. Mặt khác, hoạt động xây dựng cơ bản tiến hành ngoài trời thường bị ảnh hưởng của thời tiết, khí hậu nên dẫn đến tình trạng hao hụt mất mát lãng phí vật tư, tài sản làm tăng chi phí sản xuất. -Thời gian thi công các công trình thường dài, đặc điểm này làm cho vốn đầu tư sản xuất của các doanh nghiệp ứ đọng, dễ gặp rủi ro khi có biến động giá cả vật tư, lao động. - Tốc độ phát triển kỹ thuật và mức độ áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật chậm hơn ngành khác. -Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất sản phẩm xây lắp có thể là các hạng mục công trình, đơn đặt hàng giai đoạn công việc hoàn thành. Vì thế phải lập dự toán tính giá thành theo từng đối tượng hạch toán. 2.2-/ Chi phí sản xuất sản phẩm xây lắp: Cũng như các khác tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường nhằm mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận. Muốn đạt được mục tiêu đó các doanh nghiệp xây lắp phải bỏ ra những chi phí nhất định như: chi phí sản xuất, chi phí tiêu thụ sản phẩm . Trong hoạt động kinh doanh xây lắp, chi phí sản xuất là toàn bộ chi phí về lao động sống và lao động vật hoá phát sinh trong quá trình sản xuất và cấu thành giá thánh xây lắp (với khối lượng xây lắp đã hoàn thành). Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá và cơ chế hạch toán ki
Tài liệu liên quan