Đề tài Phân tích thống kê tình hình sản xuất kinh doanh xuất khẩu tại Công ty cổ phần đầu tư và xuất nhập khẩu Quảng Ninh

Nhờ đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta về chính sách đối ngoại, đất nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể trong công cuộc đổi mới. Từ một nền kinh tế tập trung bao cấp chuyển sang kinh tế thị trường, với nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường đa phương hoá, đa dạng hoá có sự quản lý của Nhà nước, đã tạo ra một chuyển biến sâu sắc về chất ở tất cả các lĩnh vực của nền kinh quốc dân. Điều đó đã tác động mạnh mẽ đến công tác Ngoại thương đặc biệt là công tác xuất nhập khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp. Đứng trước những nhiệm vụ vô cùng nặng nề như vậy, với những thách thức mới và những giải pháp mới trong nền kinh tế quốc dân nói chung và nền kinh tế đối ngoại của tỉnh Quảng Ninh nói riêng, công tác Xuất nhập khẩu đóng vai trò làm chiếc cầu nối giữa bộ phận kinh tế của nước ta với phần còn lại của thế giới bên ngoài. Nằm trên tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, tỉnh Quảng Ninh đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế mở. Là một tỉnh biên giới phía Đông Bắc của tổ quốc, lại giáp ranh với Trung Quốc, một trong những điều kiện rất thuận lợi cho hoạt động kinh doanh Xuất nhập khẩu mà Trung Quốc là một trong những thị trường lớn của nước ta cũng như của một số công ty xuất nhập khẩu mà đặc biệt là Công ty Cổ phần Đầu tư Xuất nhập khẩu Quảng Ninh . Vì chỉ là sinh viên thực tập trong thời gian ngắn tại Công ty Cổ phần Đầu tư Xuất nhập khẩu Quảng Ninh, trong quá trình trình bày chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình do khả năng có hạn, kinh nghiệm thực tế chưa nhiều nên không tránh khỏi những khiếm khuyết nên mong được sự chỉ dẫn của các thầy cô giáo trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân và những đóng góp thêm của độc giả. Tôi xin chân thành cảm ơn sự tận tình giúp đỡ của thầy giáo GS.TS Phạm Ngọc Kiểm đã hướng dẫn cho tôi hoàn thành bài khoá luận tốt nghiệp của mình. Xin cảm ơn Công ty Cổ phần Đầu tư Xuất nhập khẩu Quảng Ninh , Giám đốc Chi nhánh Hà Nội, đơn vị đã cung cấp tài liệu giúp tôi hoàn thành bài khoá luận tốt nghiệp của mình.

doc70 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1269 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích thống kê tình hình sản xuất kinh doanh xuất khẩu tại Công ty cổ phần đầu tư và xuất nhập khẩu Quảng Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phân tích thống kê tình hình sản xuất kinh doanh xuất khẩu tại Công ty cổ phần đầu tư và xuất nhập khẩu Quảng Ninh PHẦN MỞ ĐẦU Nhờ đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta về chính sách đối ngoại, đất nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể trong công cuộc đổi mới. Từ một nền kinh tế tập trung bao cấp chuyển sang kinh tế thị trường, với nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường đa phương hoá, đa dạng hoá có sự quản lý của Nhà nước, đã tạo ra một chuyển biến sâu sắc về chất ở tất cả các lĩnh vực của nền kinh quốc dân. Điều đó đã tác động mạnh mẽ đến công tác Ngoại thương đặc biệt là công tác xuất nhập khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp. Đứng trước những nhiệm vụ vô cùng nặng nề như vậy, với những thách thức mới và những giải pháp mới trong nền kinh tế quốc dân nói chung và nền kinh tế đối ngoại của tỉnh Quảng Ninh nói riêng, công tác Xuất nhập khẩu đóng vai trò làm chiếc cầu nối giữa bộ phận kinh tế của nước ta với phần còn lại của thế giới bên ngoài. Nằm trên tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, tỉnh Quảng Ninh đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế mở. Là một tỉnh biên giới phía Đông Bắc của tổ quốc, lại giáp ranh với Trung Quốc, một trong những điều kiện rất thuận lợi cho hoạt động kinh doanh Xuất nhập khẩu mà Trung Quốc là một trong những thị trường lớn của nước ta cũng như của một số công ty xuất nhập khẩu mà đặc biệt là Công ty Cổ phần Đầu tư Xuất nhập khẩu Quảng Ninh . Vì chỉ là sinh viên thực tập trong thời gian ngắn tại Công ty Cổ phần Đầu tư Xuất nhập khẩu Quảng Ninh, trong quá trình trình bày chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình do khả năng có hạn, kinh nghiệm thực tế chưa nhiều nên không tránh khỏi những khiếm khuyết nên mong được sự chỉ dẫn của các thầy cô giáo trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân và những đóng góp thêm của độc giả. Tôi xin chân thành cảm ơn sự tận tình giúp đỡ của thầy giáo GS.TS Phạm Ngọc Kiểm đã hướng dẫn cho tôi hoàn thành bài khoá luận tốt nghiệp của mình. Xin cảm ơn Công ty Cổ phần Đầu tư Xuất nhập khẩu Quảng Ninh , Giám đốc Chi nhánh Hà Nội, đơn vị đã cung cấp tài liệu giúp tôi hoàn thành bài khoá luận tốt nghiệp của mình. Chương I MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU I.NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XUẤT KHẨU Trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới, với bất kì một quốc gia nào, xuất khẩu luôn là một lĩnh vực quan trọng và là nội dung cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại. Hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng phát triển và là nhân tố cơ bản thúc đẩy quá trình phát triển và tăng trưởng kinh tế. Bởi vậy trong chính sách kinh tế của mình, Đảng và Nhà nước đã nhiều lần khẳng định “coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại” và coi đó là một trong ba chương trình kinh tế lớn phải thực hiện. 1.Hoạt động xuất khẩu Xuất khẩu hàng hoá là việc bán hàng hoá hoặc dịch vụ ra thị trường nước ngoài, hợp tác buôn bán với các tổ chức quốc tế, đại sứ quán các nước, khách du lịch … đang sống và làm việc tại Việt Nam. Đó là phương thức thâm nhập đầu tiên vào thị trường quốc tế. Hoạt động xuất khẩu phức tạp hơn nhiều so với mua bán một sản phẩm nào đó trong thị trường nội địa vì hoạt động này diễn ra trong một thị trường vô cùng rộng lớn, đồng tiền thanh toán là ngoại tệ và đặc biệt là phải quan hệ buôn bán với khách hàng nước ngoài. Do vậy các quốc gia tham gia vào hoạt động buôn bán giao dịch quốc tế phải tuân thủ các thông lệ quốc tế hiện hành. Trong thống kê, xuất khẩu được định nghĩa là : Hàng hoá nước ta bán ra nước ngoài theo các hình thức khác nhau, đã được xếp lên tàu biển, xe lửa, máy bay và được phép rời biên giới nước ta, Bao gồm hàng sản xuất trong nước, hàng tái xuất và hàng chuyển khẩu. Những hàng hoá nước ta gửi triển lãm ở nước ngoài sau đó bán cho các nước đó, hàng hoá bán cho người nước ngoài ở nước ta và thu bằng ngoại tệ cũng được coi là hàng xuất khẩu. Được tính là hàng xuất khẩu bao gồm: - Hàng đã được thuyền trưởng kí nhận vận đơn (nếu vận chuyển bằng đường biển) - Hàng đã rời ga biên giới (nếu vận chuyển bằng đường sắt) - Hàng đã được Cục hàng không dân dụng ký chứng từ vận chuyển (nếu vận chuyển bằng máy bay). Thực chất xuất khẩu không chỉ là hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán trong thương mại có tổ chức nhằm đẩy mạnh sản xuất hàng hoá, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định đời sống... Bên cạnh những lợi ích của xuất khẩu có thể có những hậu quả khó lường trước vì phải đối đầu với toàn bộ hệ thống kinh tế của các nước tham gia xuất khẩu. Đây là hoạt động nằm trong sự kiểm soát của các quốc gia xuất khẩu cùng một loại mặt hàng. Do vậy khả năng khống chế của một quốc gia riêng biệt là vô cùng khó khăn. 2.Vai trò của hoạt động xuất khẩu. Vai trò của xuất khẩu thể hiện trên những mặt sau: Thứ nhất: Xuất khẩu là hoạt động tạo ra nguồn vốn chủ yếu cho hoạt động nhập khẩu máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ tiên tiến phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo nàn lạc hậu và chậm phát triển của đất nước. Để thực hiện thành công công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước có nhiều cách tiến hành theo nhiều giai đoạn khác nhau. Song theo kinh nghiệm các nước, giải pháp quan trọng cho vấn đề này la phải làm thế nào thu hút được một khối lượng vốn lớn để có thể nhập khẩu máy móc thiết bị, kỹ thuật tiên tiến cần thiết, thực hiện chuyển giao công nghệ hiện đại từ nước ngoài. Với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam, nguồn vốn ngoại tệ dành cho nhập khẩu phục vụ cho công nghiệp hoá là một vấn đề quan trọng mà giải pháp tối ưu cho nó là tăng cường xuất khẩu. Xuất khẩu là hoạt động mang lại nguồn thu ngoại tệ lớn nhất, quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu khoa học công nghệ phục vụ CNH-HĐH đất nước. Thứ hai: Xuất khẩu không những tạo ra nguồn vốn cho phát triển kinh tế mà nó còn đóng góp vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Điều này thể hiện qua các mặt sau: - Xuất khẩu tạo điều kiện các ngành khai thác có cơ hội phát triển thuận lợi, đồng thời nó còn kéo theo một số vấn đề xá hội có liên quan khác như: tạo ra công ăn việc làm. tăng thu nhập và giảm tệ nạn xã hội.... - Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển và ổn định cơ cấu kinh tế, tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào và máy móc thíêt bị kỹ thuật để phục vụ cho sản xuất trong nước. - Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế - kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao khả năng -năng lực sản xuất trong nước. điều kiện này thể hiện ở chỗ xuất khẩu là hoạt động quan trọng, chủ yếu để tạo ra nguồn vốn ngoại tệ phục vụ cho việc nhập khẩu máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ hiện đại từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế của đất nước, tạo ra năng lực sản xuất mới và đưa đất nước tiến nhanh vào quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước Thông qua con đường xuất khẩu, hàng hoá sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới vè giá cả và chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi mỗi quốc gia phải luôn luôn tổ chức lại, cải tiến sản xuất hình thành cơ cấu thích nghi với thị trường và đòi hỏi các doanh nghiệp luôn luôn đổi mới hoàn thiện công việc và chương trình sản xuất kinh doanh cải tiến về mọi mặt. Thứ ba: Xuất khẩu tạo việc làm và cải thiện đời sống dân sinh Hoạt động ngoại thương nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng phát sinh sẽ kéo theo hàng triệu người sẽ tham gia vào hoạt động trong lĩnh vực này, làm tăng khả năng thanh toán nâng cao mức sống của nhân dân. Như vậy xuất khẩu đóng vai trò quan trọng và có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước. II.HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU MỦ CAO SU KHÔ CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN- ĐẦU TƯ VÀ XUẤT NHẬP KHẨU QUẢNG NINH 1. Giới thiệu về mặt hàng mủ cao su khô Trong chúng ta ai ai cũng biết cây cao su là một loại cây công nghiệp rất cần thiết trong nền kinh tế hiện nay. Cây cao su chỉ có thể thích hợp với khí hậu vùng nhiệt đới, nó chỉ được trồng ở một số nước như Nam Mỹ, Malayxia, Thái Lan, Trung Quốc và Việt Nam cũng là một trong số ít nước có khả năng trồng cây cao su và được trồng nhiều ở miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, một số tỉnh miền Trung. Đối với nước ta là một nước có nền kinh tế chậm phát triển, kinh tế chủ yếu là dựa vào nông nghiệp, nền kinh tế công nghiệp còn yếu kém, mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là nguyên liệu thì cây cao su là một trong những cây công nghiệp quan trọng tạo ra mủ cao su khô để xuất khẩu, góp phần thu ngoại tệ về cho đất nước. Chúng ta đã có thể sản xuất ra những sản phẩm được làm từ cao su như : săm lốp ô tô, xe đạp, máy bay, … tiếp đó là những sản phẩm phục vụ cho những nghành công nghiệp như : băng tải, dây curoa, ống hút, khớp nối và những sản phẩm phục vụ cho tiêu dùng như đệm mút, đồ chơi, … Với những khoa học công nghệ tiên tiến, ngày nay người ta đã có thể sản xuất ra được cao su nhân tạo để đáp ứng nhu cầu nhiên liệu sản phẩm cao su ngày càng tăng, nhưng cao su nhân tạo không thể thay thế bằng cao su thiên nhiên với những đặc tính quý riêng của nó như tính đàn hồi, độ dẻo dai mà chỉ cao su thiên nhiên mới có được. Đó là loại mủ ( nhựa ) được lấy ra từ cây cao su. 2.Vai trò của xuất khẩu mủ cao su khô trong hoạt động của Công ty cổ phần đầu tư và xuất nhập khẩu Quảng Ninh. - Cao su có giá trị sử dụng và là hàng hoá có giá trị kinh tế cao, là một sản phẩm xuất khẩu có giá trị trên thị trường thế giới. Giống như những mặt hàng xuất khẩu khác, xuất khẩu cao su góp phần tạo ra nguồn vốn chủ yếu cho hoạt động nhập khẩu máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ tiên tiến phục vụ cho công cuộc Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước, đóng góp vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo việc làm và cải thiện đời sống dân sinh... - Cao su là một cây có hiệu lực khai thác vùng đất đai rộng lớn của Tây nguyên, Nam trung bộ, phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, bảo vệ môi trường sinh thái. - Cây Cao su sống quanh năm, tạo công ăn việc làm không những cho lao động chính mà cả cho lao động phụ (người già, trẻ em), có tác dụng điều hoà lao động từ vùng đồng bằng lên vùng trung du, miền núi thưa thớt. - Tăng cường xuất khẩu cao su giúp phát triển ngành công nghiệp sản xuất, chế biến cao su. Đối với Công ty cổ phần đầu tư và xuất nhập khẩu Quảng Ninh, mủ cao su là một mặt hàng xuất khẩu rất quan trọng và chiếm tỉ trọng lớn trong lượng hàng hoá xuất khẩu hàng năm của Công ty với số lượng mủ cao su khô xuất khẩu hàng năm trong giai đoạn 1999 – 2004 đạt 1743,667 tấn, doanh thu trung bình hàng năm là 2263485433 đồng. Vì vậy nghiên cứu tình hình xuất khẩu mủ cao su khô cũng là một phần nghiên cứu tình hình xuất khẩu hàng hoá của Công ty cổ phần đầu tư và xuất nhập khẩu Quảng Ninh. 3.Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu Cao su. Nhân tố giá cả : Giá cả là một trong những yếu tố trong tất cả các hợp đồng kinh tế xuất nhập khẩu, với điều kiện giá cả xuất khẩu hàng hoá còn phụ thuộc vào thị trường thế giới và khu vực thì việc xuất khẩu mặt hàng mủ cao su khô cũng chiu ảnh hưởng rất nhiều về giá của thị trường thế giới. Nhân tố về vốn vật chất hay sức mạnh về tài chính Trong kinh doanh nếu không có vốn thì doanh nghiệp sẽ không làm được gì ngay cả khi đã có cơ hội kinh doanh. Có vốn giúp doanh nghiệp thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình một cách dễ dàng hơn , có điều kiện tận dụng các cơ hội để thu lợi lớn. Đặc biệt với mặt hàng cao su, nếu công ty có vốn lớn sẽ có điều kiện để mua hàng tại thời điểm có lợi nhất với giá rẻ nhất và sẽ xuất bán khi nhu cầu của khách hàng tăng lên. Nhân tố con người: Trình độ chuyên môn và năng lực làm việc của mỗi người trong công việc là yếu tố cơ bản quyết định sự thành công trong sản xuất kinh doanh. Trong hoạt động xuất nhập khẩu từ khâu nghiên cứu thị trường, tìm kiếm nguồn hàng, khách hàng đến công tác giao dịch kí kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng nếu thực hiện bởi những cán bộ nhanh nhẹn , trình độ chuyên môn cao và lại có kinh nghiệm thì chắc chắn sẽ đem lại hiệu quả cao, hoạt động xuất khẩu cũng sẽ được tiến hành một cách liên tục và suôn sẻ. Nhân tố thuộc về điều kiện tự nhiên: Phát triển thị trường xuất khẩu mủ cao su khô phải gắn liền với khả năng đảm bảo nguồn nguyên liệu xuất khẩu ổn định, đó là điều kiện cần và đủ để tồn tại và phát triển nguồn cung cấp mủ cao su khô ở nước ta. Nguồn cung cấp mủ cao su khô phải đủ lớn và ổn định cho nhu cầu xuất khẩu ngày càng tăng. ở Việt Nam hiện nay, tiềm năng mủ cao su khô là rất lớn. Cao su là cây công nghiệp dài ngày, được trồng ở các vùng Tây Nguyên, Nam Trung Bộ. Nhưng những vùng này lại là những vùng có khí hậu phức tạp trong cả nước. Vì vậy, sản lượng mủ cao su cũng tuỳ thuộc vào điều kiện tự nhiên của các vùng này. Chủ trương chính sách của nhà nước: Đối với hoạt động xuất khẩu thì ảnh hưởng của môi trường kinh doanh là rất mạnh mẽ, bởi vì có các yếu tố quốc tế tác động vào. Nhóm nhân tố này có thể kể đến là: - Các công cụ và chính sách kinh tế vĩ mô. Trong lĩnh vực xuất khẩu những công cụ, chính sách chủ yếu thường được sử dụng điều tiết hoạt động này là: + Thuế quan. Trong hoạt động xuất khẩu thuế quan là loại thuế đánh vào từng đơn vị hàng xuất khẩu. Việc đánh thuế xuất khẩu làm tăng tương đối mức giá cả hàng xuất khẩu so với mức giá quốc tế nên đem lại bất lợi cho sản xuất kinh doanh trong nước. Đối với mặt hàng chè việc đánh thuế vào từng mặt hàng là khá ưu đãi. + Giấy phép xuất khẩu. Mục đích của chính phủ khi sử dụng giấy phép xuất khẩu là nhằm quản lý hoạt động xuất khẩu có hiệu quả hơn và thông qua đó điều chỉnh loại hàng hoá xuất khẩu. Hơn thế nữa có thể bảo vệ tài nguyên cũng như điều chỉnh cán cân thanh toán. Giấy phép xuất khẩu được quyết định theo mặt hàng, theo từng quốc gia và thời gian nhất định. + Tỷ giá và các chính sách đòn bẩy có liên quan nhằm khuyến khích xuất khẩu. · Một chính sách hối đoái thích hợp thuận lợi cho xuất khẩu chính là chính sách duy trì tỷ giá tương đối ổn định và ở mức thấp. Kinh nghiệm của các nước đang thực hiện chính sách hướng về xuất khẩu là điều chỉnh tỷ giá hối đoái thường kỳ để đạt mức tỷ giá cân bằng trên thị trường và duy trì mức giá tương quan với chi phí và giá trong nước. · Trợ cấp xuất khẩu cũng là một biện pháp có tác dụng thúc đẩy xuất khẩu đối với mặt hàng khuyến khích xuất khẩu. Việc trợ cấp thường được thể hiện dưới các hình thức: Trợ giá, miễn giảm thuế xuất khẩu... - Các quan hệ kinh tế quốc tế Khi xuất khẩu hàng hàng hoá từ quốc gia này sang quốc gia khác, người xuất khẩu phải đối mặt với hàng rào thuế quan và phi thuế quan, các hàng rào chặt chẽ hay lỏng lẻo phụ thuộc chủ yếu vào quan hệ kinh tế song phương giữa nước nhập khẩu và nước xuất khẩu. Ngày nay trong xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế, nhiều liên minh kinh tế ở mức độ khác nhau được hình thành, nhiều hiệp định thương mại song phương và đa phương giữa các quốc gia, các tổ chức kinh tế cũng được ký kết với mục tiêu thúc đẩy hoạt động thương mại trong khu vực và toàn thế giới. Nếu một quốc gia tham gia vào liên minh và các hiệp định thương mại ấy sẽ là một tác nhân tích cực thúc đẩy hoạt động xuất khẩu ở một quốc gia. Tóm lại, có được các mối quan hệ quốc tế mở rộng, bền vững và tốt đẹp sẽ tạo những tiền đề thuận lợi cho việc đẩy mạnh xuất khẩu của một quốc gia. - Các yếu tố chính trị và pháp luật Các yếu tố chính trị, và pháp luật có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt đông mua bán quốc tế. Công ty cần phải tuân thủ các quy định của chính phủ liên quan, tập quán và luật pháp quốc gia, quốc tế hiện hành. Chương II HỆ THỐNG CHỈ TIÊU THỐNG KÊ TÌNH HÌNH SẢN XUẤT KINH DOANH XUẤT KHẨU I.NGUYÊN TẮC VÀ YÊU CẦU XÁC ĐỊNH HỆ THỐNG CHỈ TIÊU 1.Khái niệm hệ thống chỉ tiêu - Chỉ tiêu thống kê phản ánh lượng gắn với chất của các mặt, các tính chất cơ bản của hiện tượng số lớn trong điều kiện thời gian và địa điểm cụ thể. Tính chất của các hiện tượng cá biệt được khái quát hoá trong chỉ tiêu thống kê. Do đó chỉ tiêu phản ánh những mối quan hệ chung của tất cả các đơn vị hoặc nhóm tổng thể. Chỉ tiêu thống kê có hai mặt: Khái niệm và mức độ. Khái niệm có nội dung là định nghĩa và giới hạn về thuộc tính, số lượng, thời gian của hiện tượng. Còn mức độ có thể biểu hiện bằng các loại thang đo khác nhau, phản ánh quy mô hoặc cường độ của hiện tượng. - Hệ thống chỉ tiêu: là một tập hợp những chỉ tiêu có mối quan hệ hữu cơ với nhau, phản ánh các mặt các tính chất quan trọng, các mối liên hệ cơ bản giữa các mặt của tổng thể và mối liên hệ với các hiện tượng có liên quan. Hệ thống chỉ tiêu xuất khẩu là tập hợp các chỉ tiêu phản ánh các mặt các tính chất quan trọng về xuất khẩu, các mối liên hệ của xuất khẩu tới các vấn đề có khác có liên quan: quy mô xuất khẩu, cơ cấu xuất khẩu, hiệu quả xuất khẩu... 2.Nguyên tắc lựa chọn hệ thống chỉ tiêu phản ánh tình hình sản xuất kinh doanh xuất khẩu. Trong công tác thống kê nói chung và thống kê xuất khẩu nói riêng, không chỉ đơn thuần là việc đưa ra những chỉ tiêu chỉ mang tính hình thức mà cốt lõi của nó là phải phản ánh được nội dung kinh tế – xã hội của chỉ tiêu đó và phải làm nổi bật được vấn đề cần nghiên cứu. Mặt khác nó còn phải đảm bảo công tác thu thập thông tin, số liệu để phân tích, tính toán sau này. Vì vậy khi xây dựng hệ thống chỉ tiêu cần đảm bảo các nguyên tắc sau: a. Nguyên tắc thứ nhất: Đảm bảo tính hướng đích Hệ thống chỉ tiêu cần xây dựng phải được xuất phát từ mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu, nhiệm vụ nào thì hệ thống chỉ tiêu đó.Các chỉ tiêu xuất khẩu phải đáp ứng nhu cầu thông tin cần thiết phục vụ cho việc đánh giá, phân tích tình hình xuất khẩu (cụ thể ở đây là mặt hàng mủ cao su khô của Việt Nam trong thời gian qua) b. Nguyên tắc thứ hai: Đảm bảo tính hệ thống - Hệ thống chỉ tiêu phải có khả năng nêu được mối liên hệ giữa các mặt các bộ phận giữa hiện tượng nghiên cứu với các hiện tượng có liên quan (trong phạm vi mục đích nghiên cứu). Muốn vậy phải phân tích lý luận để hiểu bản chất mối liên hệ. - Trong hệ thống chỉ tiêu có chỉ tiêu mang tính chất chung, các chỉ tiêu mang tính chất bộ phận và các chỉ tiêu nhân tố nhằm phản ánh đầy đủ hiện tượng nghiên cứu - Đảm bảo thống nhất về nội dung, phương pháp và phạm vi tính của các chỉ tiêu cùng loại để có thể so sánh các chỉ tiêu với nhau c. Nguyên tắc thứ ba: Đảm bảo tính khả thi Khi xây dựng hệ thống chỉ tiêu đòi hỏi phải đảm bảo tính khả thi tức là phải phải đảm bảo về khả năng nhân tài vật lực để có thể cho phép tiến hành thu thập thông tin tổng hợp các chỉ tiêu. Từ nguyên tắc này đòi hỏi người xây dựng hệ thống chỉ tiêu phải cân nhắc thật kỹ lưỡng, xác định những chỉ tiêu căn bản nhất, quan trọng nhất làm sao đảm bảo số lượng không nhiều mà vẫn đáp ứng được mục đích nghiên cứu d. Nguyên tắc thứ tư: Đảm bảo tính hiệu quả Bất cứ một việc gì trước khi quyết định thực hiện cũng đòi hỏi phải xem xét xem việc đó có hiệu quả hay không, hiệu quả ở đây có thể là hiệu quả kinh tế, hay là hiệu quả xã hội. Việc xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê cũng đòi hỏi phải đảm bảo tính hiệu quả. Tức là toàn bộ chi phí bỏ ra để xây dựng một hệ thống chỉ tiêu thống kê (gồm cả vật chất, sức lực và trí óc) phải không được lớn hơn những kết quả thu được. II.HỆ THỐNG CHỈ TIÊU PHẢN ÁNH TÌNH HÌNH SẢN XUẤT KINH DOANH XUẤT KHẨU 1.Các chỉ tiêu phản ánh quy mô sản xuất kinh doanh xuất khẩu * Qui mô xuất khẩu tính theo đơn vị hiện vật, đơn vị giá trị cho từng doanh nghiệp, từng ngành và toàn bộ nền kinh tế quốc dân: - Quy mô xuất khẩu tính theo đơn vị hiện vật: Chỉ tiêu hiện vật chủ yéu áp dụng với các hàng hoá là sản phẩm vật chất, trong thống kê có tác dụng như sau: + Là cơ sở để tính các chỉ tiêu giá trị xuất khẩu. + Là cơ sở để lập và kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch của từng loại sản phẩm. + Là cơ sở để cân đối sản xuất, đặc biệt là sản phẩm nông nghiệp Theo đơn vị hiện vật thì quy mô xuất khẩu được tính theo lượng hàng xuất khẩu trong mỗi giai đoạn là bao nhiêu, đơn vị tính là tấn, triệu tấn,… , áp dụng cho các đơn vị sản xuất kinh doanh, toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Tài liệu liên quan