Đề tài Phân tích triết học mối quan hệ giữa con người với môi trường sinh thái ở Việt Nam hiện nay

“Đi về đâu?Hỡi chú chim lạc đàn Đi về đâu?Hỡi con thú lạc bầy Những con suối đã không còn ca hát Cánh rừng xanh đã không còn bóng mát Bão lũ thét gào, thiên nhiên khô cằn, thiên tai bốn mùa.Vì ĐÂU?Vì AI?” Những câu hát này nằm trong bài hát về môi trường mới được trình diễn trong chương trình bài hát việt tháng 10 vừa qua thật sự đã làm rung động biết bao trái tim người Việt. Nó ngân nga và thúc giục bất kì ai đã từng nghe và cảm nhận những ca từ và giai điệu của bài hát. Và nó như một hồi chuông gióng lên về sự báo động của môi trường sinh thái hiện nay ở Việt Nam.Dưới góc độ triết học – xã hội vấn đề môi trường sinh thái là một điều mới mẻ. Trong vài thập kỉ gần đây, môi trường sinh thái nổi lên như một vấn đề toàn cầu, cấp bách của thời đại trong đó có Việt Nam. Là một người dân của đất Việt chúng ta phải làm gì để đất nước ta xanh - sạch - đẹp? Dựa vào những kiến thức triết học đã được học em xin phép được vận dụng chúng vào đề tài “Phân tích triết học mối quan hệ giữa con người với môi trường sinh thái ở Việt Nam hiện nay” để giải thích thực trạng môi trường sinh thái ở VN và vai trò của con người đối với viêc bảo vệ môi trường sinh thái. Bài viết của em được chia làm hai phần chính: I.Thực trạng môi trường sinh thái hiện nay ở Việt Nam – Nguyên nhân và hậu quả II.Vai trò của con người đối với việc bảo vệ môi trường

doc12 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1642 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích triết học mối quan hệ giữa con người với môi trường sinh thái ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần Mở Đầu “Đi về đâu?Hỡi chú chim lạc đàn Đi về đâu?Hỡi con thú lạc bầy Những con suối đã không còn ca hát Cánh rừng xanh đã không còn bóng mát……… …Bão lũ thét gào, thiên nhiên khô cằn, thiên tai bốn mùa..Vì ĐÂU?Vì AI?” Những câu hát này nằm trong bài hát về môi trường mới được trình diễn trong chương trình bài hát việt tháng 10 vừa qua thật sự đã làm rung động biết bao trái tim người Việt. Nó ngân nga và thúc giục bất kì ai đã từng nghe và cảm nhận những ca từ và giai điệu của bài hát. Và nó như một hồi chuông gióng lên về sự báo động của môi trường sinh thái hiện nay ở Việt Nam.Dưới góc độ triết học – xã hội vấn đề môi trường sinh thái là một điều mới mẻ. Trong vài thập kỉ gần đây, môi trường sinh thái nổi lên như một vấn đề toàn cầu, cấp bách của thời đại trong đó có Việt Nam. Là một người dân của đất Việt chúng ta phải làm gì để đất nước ta xanh - sạch - đẹp? Dựa vào những kiến thức triết học đã được học em xin phép được vận dụng chúng vào đề tài “Phân tích triết học mối quan hệ giữa con người với môi trường sinh thái ở Việt Nam hiện nay” để giải thích thực trạng môi trường sinh thái ở VN và vai trò của con người đối với viêc bảo vệ môi trường sinh thái. Bài viết của em được chia làm hai phần chính: I.Thực trạng môi trường sinh thái hiện nay ở Việt Nam – Nguyên nhân và hậu quả II.Vai trò của con người đối với việc bảo vệ môi trường Phần Nội Dung I.Thực trạng môi trường sinh thái Việt Nam hiện nay – Nguyên nhân và hậu quả. A – Thực trạng môi trường sinh thái ở Việt Nam hiện nay. Đối với nước ta, khi xem xét hiện trạng và đặc điểm của môi trường sinh thái cần phải xuất phát từ việc phân tích những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình tác động qua lại giữa con người và tự nhiên trong điều kiện của một nước đang phát triển và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các yếu tố truyền thống văn hoá dân tộc như quan niệm của con người về thiên nhiên, về mối quan hệ của họ với tự nhiên.Chính những quan niệm đó là một trong những nguyên nhân quan trọng gây nên những mâu thuẫn giữa con người và tự nhiên trong quá trình khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên trong điều kiện hiện nay ở nước ta. Trong những năm gần đây Việt Nam đã tích cực tham gia công ứoc quốc tế trong công tác bảo vệ môi trường , duy trì đa dạng sinh học và phát triển bền vững.Bên cạnh những thành tựu đạt được, cũng có những mặt trái của nó mà chúng ta cần phải suy nghĩ. ở đây em xin phép được đề cập tới thực trạng môi truờng VN hiện nay qua các mặt khác nhau. Chẳng hạn như :vấn đề phá rừng xâm phạm tài sản quốc gia, vấn đề khai thác và buôn bán động vật hoang dã, ô nhiễm nguồn nước, sự đô thị hoá tăng nhanh, vấn đề ô nhiễm không khí, những diễn biến bất thường của khí hậu, thời tiết, vấn đề môi trường xã hội..vv… Có thể nói nguồn tài nguyên thiên nhiên và những điều kiện địa lý tự nhiên là một ưu thế của nước ta, đặc biệt phải kể đến là nguồn tài nguyên tái tạo (rừng, đất đai, động thực vật…) một số tài nguyên khoáng sản (dầu mỏ, than đá khí hiếm…). Thêm vào đó khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, mặt trời chiếu sáng quanh năm là nguồn cung cấp năng lượng vô tận cho sự sống của con người và mọi sinh vật.Nhưng với một số tài nguyên sẵn có đó một mặt chúng ta chưa biết khai thác và sử dụng hợp lí , dẫn đến sự nghèo nàn và cạn kiệt số tài nguyên đó, mặt khác còn gây ra ô nhiễm môi trường sinh thái: _ Tình trạng phá rừng và buôn bán trái phép đông vật hoang dã:…”Đất nước ta rừng vàng biển bạc”…đó là một câu trích dẫn trong cuốn sách địa lý Việt Nam mà bất cứ học sinh nào cũng được học và thấm nhuần.Rừng không chỉ là một kho tài nguyên mà còn là một tư liệu sống vô giá.Rừng Việt Nam không chỉ nhiều mà còn đa dạng về chủng loại và rất phong phú về động thực vật.Ngày nay rừng nước ta đã và đang bị phá hoại nặng nề, rừng nguyên thuỷ chỉ còn chiếm khoảng 66432 km trong đó rừng bảo vệ là 7635 km (sách tổng cục thống kê môi trường Việt Nam). Sự cạn kiệt rừng ở nứoc ta hiện nay thực sự là một vấn đề kinh tế và sinh thái nhức nhối và cấp bách nhất.Cùng với hiện tượng phá rừng thì việc buôn bán và săn bắn những đông vật hoang dã cũng phát triển rất mạnh.Báo điện tử moitruongsinhthai.com.vn ngày 5/7 /2005 đã phản ánh rất rõ hiện trạng này ở những khu rừng Uminh , miền trung nam bộ… và việc buôn bán trái phép thú quý hiếm ở vùng biên giới các tỉnh Tây Ninh, Cà Mau….. _Sự suy thoái đất đai :Với hơn 33 triệu ha, đất đai VN đứng thứ 12 trên thế giới, nhưng tính bình quân đầu người thì rất thấp, còn bình quân diện tích đất canh tác theo đầu người vào loại thấp nhất thế giới.Mặc dù sản xuất nông nghiệp VN đã và đang phát triển rõ rệt nhưng môi trường đất cũng đang suy thái nghiêm trọng.Biểu hiện quan trọng nhất ở hai quá trình: Qúa trình ong đá đất ở Đông Nam Bộ, Tây Nguyên thay vào đó là những vùng đất chết. Qúa trình xói mòn đất cũng không kém phần quyết liệt. Sau 6-7 năm đất ở những vùng bị xói mòn trở thành sỏi đá. _Tài nguyên nước :Rừng- đất- nước là cả một mối quan hệ sinh thái liên quan chặt chẽ đêns nhau.Khi rừng cạn kiệt nghiêm trọng, đất bị xói mòn đến vô cùng thì tài nguyên nước của chúng ta cũng đang nằm trên cái ranh giới của bến bờ cạn kiệt và ô nhiễm xảy ra ở các khía cạnh khác nhau: Sự ô nhiễm nguồn nước đang xảy ra từng ngày từng giờ, khi mà nguồn nước sạch, nước ngọt không chỉ là vấn đề kinh tế- xã hội mà còn là vấn đề sinh thái gay cấn.Rác thải và chất thải của cuộc sống sinh hoạt và của các nhà máy thải ra đến nay là chưa thể ước tính được.VD như rác thải bừa bãi ở ven Hồ Tây(HN), ven bờ sông Tô Lịch…. Các chất thải hoá học độc hại ở các nhà máy than,địa chất…Theo số liệu điều tra hộ gia đình đa mục tiêu của Tổng Cục Thống Kê, tính đến năm 2000 có 42% dân số cả nước sử dụng nước sạch (thành thị chiếm 60%- riêng nứoc máy 47%).Hầu hết việc sử dụng nước sạch tập trung chủ yếu ở thành phố, thành thị còn các thị trấn vùng nông thôn chưa được cải thiện nhiều..tình trạng thiếu nước sạch còn diễn ra ở nhiều nơi gây khó khăn rất nhiều cho đời sống sinh hoạt của người dân Hiện tượng khai thác nước ngầm vô tổ chức: khi mà tốc độ đô thị hoá tăng nhanh, dân cư phát triển ngày một nhiều ở nước ta nổi cộm lên một vấn đề đáng bàn hơn nữa là hiện tượng “ người người khoan giếng, nhà nhà khoan giếng”.Những mạch nước ngầm bị khai thác một cách vô tổ chức và dẫn tới sự ô nhiễm là một điều tất yếu.Như ta đã biết nguồn nước ngầm bị ô nhiễm thì khó lòng mà cứu chữa và đó là một tài sản vô giá. Hiện tượng mặn hoá, phèn hoá nước ở các vùng nông thôn VN là những nguy cơ của môi trường.Thêm vào đó là cả một hệ thống kênh rạch chằng chịt dẫn đến nhiều những hậu quả khác nhau:sinh hoạt của người dân trở nên khó khăn, các nguôn thuỷ hải sản giảm dần dẫn tới đời sống kinh tế đi xuống.. Đáng chú ý hơn cả là tình trạng khai thác quá mức tài nguyên ven biển và hiện tượng ô nhiễm dầu đang hoành hành. Những nguồn tài nguyên thuỷ hải sản chưa kịp taí tạo thì đã bị con người khai thác một cách triệt để như ở bờ biển miền Trung,và cả Kiên giang mà hằng năm khai thác thuỷ sản trên 2000 tấn đang lên mức báo động. _ Vấn đề ô nhiễm không khí: Trong các yếu tố môi trường sống, không khí được coi là yếu tố quan trọng.Vấn đề ô nhiễm không khí ở nước ta đã có song nhìn chung không đến mức nguy hiểm và cũng chưa phải là hiện tượng phổ biến. Nhưng mức độ ô nhiễm ở nước ta đặc biệt là các thành phố lớn như Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng… cũng ảnh hưởng không nhỏ đến tình trạng sức khoẻ và sự phát triển kinh tế của người dân .Hiện nay ở một số nút giao thông trọng điểm của các thành phố lớn hàm lưọng chất ô nhiễm và mức độ ồn đã vượt quá mức cho phép nhiều lần ( nồng độ C02 đã vượt 2- 10 lần cho phép, ở những khu vực đường tráng nhực ô nhiễm bụi đã vượt 5-7 lần mức cho phép). _Diễn biến bất thường của khí hậu, thời tiết và đặc biệt là hiện tượng ELNINO:Theo xu hướng thời tiết chung của trái đất thì nhiều năm qua nhiệt độ của nước ta đều có xu hướng tăng dần và ngược lại thì lượng mưa lúc tăng lúc giảm.Vì vậy thiên lai lũ lụt, hạn hán kéo đến là những điều tất yếu xảy ra gây ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của mọi ngươì dân.Hơn thế nữa, hiện tượng thơì tiết khí hậu đặc biệt như mưa đá (do sự đối lưu của dòng không khí nóng và dòng không khí lạnh dẫn đến) rồi những cơn bão rất lớn liên tiếp kéo đến đe doạ cuộc sống của người dân gây thiệt hại nhiều về cả người và của.Mới gần đây nhất báo Lao Động số ra ngày 21/11/2006 vừa qua đã có bài đăng về hiện tượng mưa đá xảy ra vào ngày 20/11 trước đó một ngày như một minh chứng về hiện tượng ELNINO đổ bộ đến VN.Nó đã gây thiệt hại lớn vè người và tài sản cho nhân dân ở các tỉnh vùng Đông bắc bộ như Quảng Ninh, Hải Phòng… _Môi trường xã hội: sẽ là không đầy đủ và toàn diện nếu như trong môi trường sinh thái ở VN hiện nay không kể đến mảng ô nhiễm môi trường xã hội.Đó là sự tràn lan các tệ nạn xã hội như ma tuý, mại dâm, rượu chè cờ bạc….Đất nước sẽ không phát triển lên được nếu như những tình trạng này cứ diễn ra ở khắp mọi nơi trên tổ quốc dưới mọi hình thức. B –Nguyên nhân và hậu quả Trái đát là cái nôi và ngôi nhà của thập loại chúng sinh cây cỏ. Suốt cuộc hành trình từ hang động cho đến những ngôi nhà chọc trời, con người thường xuyên có tham vọng cải thiện cuộc sống của mình.Nhưng chính con người đã tàn phá một cách khủng khiếp ngôi nhà chung của nhân loại.Trước thực trạng đã nêu trên bao gồm rất nhiều vấn đề xảy ra như vậy đã khi nào chúng ta tự hỏi nhau xem chúng có nguồn gôc từ đâu?Nguyên nhân của chúng là gì?Và hậu quả chúng đem lại như thế nào? _Có thể trả lời ngay rằng , nguyên nhân chủ yếu và quan trọng nhất làm ảnh hưởng tới môi trường là ý thức của con người.Mọi sự biến đổi của vũ trụ đều có hai mặt của nó và sự tác động của con người vào thiên nhiên cũng vậy.Nếu con người tác động vào thiên nhiên theo đúng quy luật, theo chiều hướng tích cực thì sẽ làm thiên nhiên ngày càng phong phú đa dạng…ngược lại nếu con người chỉ biết khai thác những nguồn thiên nhiên có sẵn một cách vô ý thức mà quên đi sức chịu đựng của nó thì tất yếu thiên nhiên sẽ bị tàn phá. Tiêu biểu ở đây là thảm cảnh rừng VN, không còn gì đáng nói hơn ngoài hai chữ “ kiệt quệ”.Mà nguyên nhân ở đây một phần là do chiến tranh hoá học của Mĩ để lại trên 48% diện tích trồng trọt và phần lớn là do lối suy nghĩ thiểm cận cùng với sự hiểu biết kém cỏi của người sản xuất nhỏ, khai thác rừng, động vật bừa bãi bất hợp pháp….Song hành cùng với những nguyên do đó là những hậu quả kéo dài.Các số liệu gần đây cho thấy rừng tự nhiên ở ĐB Sông Cửu Long giảm sút nghiêm trọng 1990-1995 khoảng 41300 ha(bình quân giảm 2500 ha/năm), rừng ngập mặn chỉ còn 71841 ha(1997) so với 93000 ha(1988), 126000 ha(1983), và 250000 ha(1950).Kết quả rừng ở ĐB Sông Cửu Long giảm 3 lần sau50 năm , diện tích rừng đang mất dần.Rừng mất không chỉ tiêu huỷ tài nguyên rừng ảnh hưởng đến môi truờng sinh thái mà còn làm nhiều loài động thực vật bị tuyệt chủng , cuộc sống con người bị đe doạ _Bên cạnh đó là sự quản lí lỏng lẻo của nhà nước.Các cấp lãnh đạo, các ban ngành chưa thật sự kiên quyết xử lí những trường hợp vi phạm pháp luật cũng tạo điều kiện cho những “ sâu làm giầu nồi canh” phá hoại môi trường sinh thái đồng nghĩa với việc kìm hãm sự phát triển của đát nước. -Sự bùng nổ dân số cũng là một nguyên nhân dẫn đến việc ô nhiễm môi trường sinh thái.Dân số ngày càng tăng dẫn đến nhu cầu của con người mỗi ngày một cao hơn.Và đây cũng là một nguyên nhân cho mọi sự thay đổi và là mối đe doạ môi trường lớn nhất.Mật độ dân số trung bình ở nước ta là 200ng/km2 thuộc loịa cao nhất thế giới.Dự báo năm 2020 dân số nước ta đạt đến gần 100 triệu người.Dân số đông, dân trí thấp mà diện tich đất canh tác ngày càng bị thu hẹp, con người chạy theo lợi nhuận trước mắt mà không nghĩ đến bảo vệ môi trường bền vững lâu dài.Những tình trạng về thiếu nước sạch, ô nhiễm do xả rác và chất thải bừa bãi là hậu quả khôn lường dưới sự tác động của dân số.Sự phát triển dân số quá nhanh và lối sống buông thả kiểu hiện đại phương tây dẫn đến những tệ nạn ô nhiễm môi trường ở khía cạnh về văn hoá- xã hội. _Viêc gia tăng sử dụng các phương tiện giao thông và mạng lưới sản xuất quy mô vừa và nhỏ , cùng với hạ tầng kiến trúc đô thị còn yếu là nguyên nhân làm cho điều kiện vệ sinh môi trường ở nhiều khu dân cư lâm vào tình trạng báo động.Hệ thống cấp nước , thoát nước lạc hậu,xuống cấp , không đáp ứng được yêu cầu.Thêm vào đó các phương tiện vệ sinh lại chưa cân xứng với lượng rác thải ra của người dân, số lượng dụng cụ dọn dẹp còn ít, khả năng xử lí và thu gom rác thải còn hạn chế, chưa thể giải quyết được yêu cầu bức xúc về vấn đề này.Tình trạng cơ sở hạ tầng kĩ thuật , trang thiết bị bảo vệ môi trường yếu kém lạc hậu, trong khi đó khả năng đầu tư của nhà nước cho môi trường cũng như doanh nghiệp hiện nay còn hạn chế. _Cuối cùng phải kể đến là tốc độ đô thị hoá và phát triển công nghiệp hiện nay rất mạnh.Việt Nam đang trên con đường xây dựng và phát triển đòi hỏi sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên, các chất thải trong sản xuất ngày một tăng lên đã, đang và sẽ làm bẩn không khí, đất, nước làm cho môi trường sống của con người ngày một xấu đi.Các chất thải từ các bệnh viện, các phòng thí nghiệm khoa học, khu chăn nuôi đều không được xử lí gây nguy hiểm cho môi truờng xung quanh.Các hoá chất như methane, c02, các khí thải nhà máy, xe cộ… thải ra đang dần đục thủng tầng OZONE, gây ra sự tăng nhiệt độ của bầu khí quyển ị Sự thay đổi thời tiết, khí hậu bất thường như hạn hán, lũ lụt thiên tai dịch bệnh,.. nặng nề hơn cả là những cơn bão lớn và hiện tưọng ELNINO. II.Vai trò của con người đối với việc bảo vệ môi trường sinh thái A-Mối quan hệ giữa Con người- Tự nhiên -Trình độ phát triển xã hội Một trong những biểu hiện quan trọng nhất , rõ ràng nhất tính thống nhất vật chất của thế giới là sự thống nhất bền vững và biện chứng giữa các yếu tố trong hệ thống “Tự nhiên- Xã hội-Con người”.Sự thống nhất đó được thực hiện thông qua mối quan hệ, sự tác động và quy định lẫn nhau giữa xã hội và tự nhiên, trong quá trình hoạt độngvà làm nên lịch sử loài người.Để có được sự hiểu biết đầy đủ và sâu sắc những vấn đề đang được đặt ra trong lĩnh vực môi trường sinh thái cũng như tìm kiếm các con đường đúng đắn để giải quyết chúng, cần có cách tiếp cận triết học – xã hội đối với vấn đề mối quan hệ giữa con người – xã hội – tự nhiên. Thế giới là vật chất, luôn vận động, biến đổi và phát triển trong mối quan hệ chật chẽ, ràng buộc lẫn nhau giữa các yếu tố.Nguyên lý này khẳng định rằng mối quan hệ giữa con người và tự nhiên mang tính chất lịch sử cụ thể, nghĩa là mối quan hệ này có tính chất khác nhau trong thời đại khác nhau.Sự khác nhau này phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội, trước hết là phương thức sản xuất với tư cách là động lực phát triển xã hội , trong đó lực lượng sản xuất xã hội đóng vai trò chủ đạo.Trong sự phát triển của xã hội đã từng diễn ra bốn cuộc cách mạng trong lực lượng sản xuất đã đưa nhân loại từ mê muội, dã man sang văn minh nông nghiệp , văn minh công nghiệp và văn minh trí tuệ.Trong quá trình đó, mối quan hệ giữa con người và tự nhiên cũng diễn ra bốn mức độ:Sự phụ thuộc hoàn toàn mù quáng của con người vào tự nhiên hay sự hài hoà tuyệt đối giữa con người với tự nhiên,tiếp đến là giai đoạn con người đã bắt đầu phân biệt sự khác nhau giữa họ với tự nhiên, song lúc này con người chỉ mới biết khai thác tự nhiên trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, cùng với cuộc cách mạng công nghiệp cuối thế kỉ XVII, cách mạng khoa học – kỹ thuật đã xuất hiện mâu thuẫn giữa con người với tự nhiên và mâu thuẫn đó ngày càng gay gắt.Chính mâu thuẫn đó là nguồn gốc của thưc trạng môi trường sống hiện nay trên thế giới.Qúa trình lịch sử vẫn tiếp tục, với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, con người có được những điều kiện, cả về nhận thức lẫn phương tiện để giải quyết những mâu thuẫn giữa xã hội với tự nhiên. B – Vai trò của con người và xã hội đối với việc bảo vệ môi trường sinh thái Vấn đề môi truờng sinh thái hiện nay ở thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng đang đụng chạm đến nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội và liên quan đến nhiều khoa học.Những khía cạnh khác nhau của vấn đề môi trường như sinh học, địa lí, y học tư tưởng, chính trị, đạo đức…Từ thực tiễn nghiên cứu và giải quyết vấn đề sinh thái của thời đại và trong điều kiện cụ thể của nước ta đã nảy sinh nhu cầu cần thiết phải có một sự nhìn nhận chính xác về vai trò của con người trước thực tại môi trường sinh thái Việt Nam. Trong đó con người và xã hội là chủ thể có một vai trò ngày càng to lớn trong việc biến đổi tự nhiên, và ngày nay là việc khắc phục những mặt tiêu cực của quá trình phát triển xã hội, để làm thế nào loài người có thể trở lại sống hài hoà thực sự với tự nhiên trong thế giới hiện đại.Bản thân tự nhiên về mặt cấu trúc cũng như chức năng hoàn toàn không có gì mâu thuẫn với xã hội, mâu thuẫn giữa con người và tự nhiên chỉ xuất hiện trong quá trình hoạt động sống và phát triển xã hội của con người.Quan trọng nhất là quá trình sản xuất ra của cải vật chất điều khiển một cách vô ý thức mối quan hệ gữa con người và tự nhiên nghĩa là phải nắm bắt được những quy luật của tự nhiên đồng thời phải biết vận dụng những quy luật đó vào hoạt động thực tiễn xã hội.Với mục đích đưa xã hôi trở lại với tự nhiên , con người trong các hoạt động thực tiễn của mình phả biết tuân thủ theo các nguyên tắc tự tổ chức, tự điều chỉnh, tự làm sạch,tự bảo vệ thiên nhiên.Để có thể xây dựng được mối quan hệ thật sự giữa xã hội và tự nhiên, con người cần phải thay đổi chiến lựoc phát triển xã hội, từ chỗ vì lợi ích của xã hội, của con người sang vì lợi ích ,vì sự tồn tại và phát triển của cả hệ thống tự nhiên-xã hội-con ngừơi, nghĩa là thực hiện chiến lược phát triển bền vững vì sự sống tồn không chỉ của thế giới hôm nay mà còn vì sự sống và cơ hội phát triển mai sau. Với thực trạng môi trường sinh thái ở Việt Nam hiện nay,bản thân em xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp để cải thiện và bảo vệ môi trường ở đất nước ta: _Trước hết nhà nước cần sớm có những sửa đổi, bổ sung cho phù hợp nhằm luật hoá các chủ trương, chính sách về môi trường và phát triển bền vững, khẳng định hiệu lực của cơ quan nhà nước trong việc thi hành luật để tránh những tổ chức, cá nhân có thể lạm dụng những kẽ hở của luật pháp. Riêng với tình trạng tàn phá rừng,nhà nước cần đẩy mạnh phát triển hệ thống các khu rừng đặc dụng và phải có biện pháp nghiêm khắc trừng trị những kẻ phá rừng, buôn gỗ lậu.Đồng thời cũng kêu gọi công tác trồng cây gây rừng ở từng địa phương. _Thay đổi về nhận thức – xây dựng ý thức sinh thái ở các khu đô thị, thành phố lớn cũng như ở các vùng nông thôn…Mỗi người dân cần phải giáo dục và nâng nhận thức của mình về bảo vệ môi trường xanh- sạch-đẹp. _Giảm thiểu ô nhiễm ở các khu công nghiệp gây ô nhiễm nghiêm trọng bằng cách sử dụng các thiết bị xử lí chất thải hiện đại, theo công nghệ mới, tái sử dụng,taí chế chôn lấp và tiêu huỷ chất thải, quản lí chất thải nguy hại. _Đối với vấn đề nước thải và việc cung cấp nươc sạch ở các thành phố lớn và các vùng nông thôn cũng cần có những dự án cải tạo cụ thể và thiết thực.Những năm qua vấn đề nước sạch đã được các cấp chính quyền, các nghành quan tâm, từ năm 1995-2000 với con số khoảng 400 tỷ đồng (trong đó khoảng 60% tổng số vốn là đầu tư cung cấp nước sạch cho các vùng nông thôn) để thực hiện cải thiện nước sạch và vệ sinh môi trường.Đó là tín hiệu mừng cho đất nước ta khi được Đảng và Chính phủ hỗ trợ như vậy.ở thành phố lớn như Hà Nội đã có khá nhiều dự án nhằm cải tạo, cải thiện môi trường cũng như diện tích các sông hồ hiện có, điển hình là một số hồ như hồ Thiền Quang, Giảng Võ…đã được nạo vét và làm sạch trở lại. _Bên cạnh đó các hoạt động tuyên truyền vận động người dân bảo vệ môi trường cũng rất cần thiết như tổ chức” Hoà bình xanh”, những chiến dịch như” Mùa hè xanh tình nguyện” của sinh viên, “Đường làng ngõ xóm xanh- sạch- đẹp” ở nông thôn….Cùng với những hoạt động đó thì vai trò của thông tin và hệ thống điều khiển môi trường sinh thái cũng rất quan trọng trong việc bảo vệ môi trường. Phần Kết Luận Có thể khẳng định rằng, con người hiện đại không thể thiếu khoa học và công nghệ , cũng như không thể sống tách rời khỏi
Tài liệu liên quan