Đề tài Phát triển xuất khẩu nhập khẩu, sản xuất cà phê của công ty cà phê Việt Nam

Tổ quốc ta đã trải qua hơn một thập kỷ đổi mới và phát triển, trên cơ sở công nghiệp hóa và hiện đại hóa, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể, đất nước ổn định đi lên. Một trong những mũi nhọn của phát triển kinh tế đó là đẩy mạnh xuất khẩu, nâng cao chất lượng hàng hóa; khai thác mọi tiềm năng đặc biệt trong nông, lâm, ngư nghiệp, phát huy lợi thế của đất nước.

doc71 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1359 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển xuất khẩu nhập khẩu, sản xuất cà phê của công ty cà phê Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Tổ quốc ta đã trải qua hơn một thập kỷ đổi mới và phát triển, trên cơ sở công nghiệp hóa và hiện đại hóa, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể, đất nước ổn định đi lên. Một trong những mũi nhọn của phát triển kinh tế đó là đẩy mạnh xuất khẩu, nâng cao chất lượng hàng hóa; khai thác mọi tiềm năng đặc biệt trong nông, lâm, ngư nghiệp, phát huy lợi thế của đất nước. Sản phẩm cà phê là mặt hàng nông sản mang tính thương mại quan trọng trên thị trường quốc tế. Giá trị hàng hóa cà phê xuất khẩu mỗi năm trên thế giới là trên 10 tỷ USD, và có trên 80 nước trồng cà phê với diện tích trên 10 triệu ha trong đó có 50 nước có sản phẩm xuất khẩu. Cà phê là thứ nước uống khá phổ biến trên thế giới và xu hướng ngày càng tăng. Mỗi năm thế giới tiêu thụ trung bình trên 6 triệu tấn hạt cà phê. Nhiều nước ở Trung và Nam Mỹ, Châu Phi đã thu nguồn ngoại tệ chủ yếu từ xuất khẩu cà phê như Colombia, Salvador, Uganda, Ethiopia... ở Việt Nam, sản phẩm cà phê đang là mặt hàng xuất khẩu có giá trị kinh tế lớn. Trong những năm qua, xuất khẩu cà phê đã đưa về lượng ngoại tệ đáng kể thường diễn biến ở mức 300 – 560 triệu USD/ năm. Cà phê là mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực đứng thứ hai sau lúa gạo. Cà phê Việt Nam đã vươn lên vị trí thứ 2 về sản lượng và xuất khẩu cà phê trên thế giới (sau Brazil). Theo quy hoạch thì diện tích cà phê Việt Nam đến khi ổn định trên dưới 400.000 ha và giá trị xuất khẩu hàng năm sẽ là trên nửa tỉ USD. Tuy nhiên, nếu chúng ta chỉ nhìn đơn thuần vào giá trị ngoại tệ để đánh giá vị trí của một ngành kinh tế thì chưa đủ. Cây cà phê đã tham gia vào vấn đề xã hội rất lớn; đó là nó đã biến từ đất không sinh lời thành đất sinh lời, tạo việc làm và thu nhập cho nguời lao động. Hơn 400.000 ha cà phê, sản lượng bình quân 600.000tấn/năm thì cần cả một triệu người được sử dụng cho ngành kinh tế này (trồng trọt, chế biến, dịch vụ, xuất khẩu) và góp phần tích cực vào chương trình xóa đói giảm nghèo, đặc biệt là đối với vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc. Thực hiện cải tạo môi sinh, phủ xanh đất trống đồi trọc, biến môi trường đang suy thoái thành môi trường được phục hồi; xây dựng các vùng kinh tế mới phồn vinh bảo đảm củng cố an ninh chính trị, xã hội trên các vùng Tây Nguyên, miền núi. Vì vậy quan tâm đến phát triển của ngành cà phê, khai thác tiềm năng của cây cà phê là vấn đề hết sức có ý nghĩa trong chiến lược phát triển kinh tế nông lâm nghiệp mà đặc biệt là chiến lược phát triển Tây Nguyên, trung du, miền núi. Do đó cây cà phê cần phải được quan tâm đúng mức ngang tầm với vị thế của nó để khai thác được tiềm năng, lợi thế của mặt hàng xuất khẩu có giá trị này; coi đó là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong nông nghiệp và trong xuất khẩu. Từ năm 1999 đến nay, việc sản xuất và xuất khẩu cà phê ở nước ta gặp nhiều khó khăn vì khủng hoảng cà phê trên toàn thế giới. Giá cà phê bị tác động mạnh mẽ bởi quy luật cung cầu và sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế. Thị trường cà phê thường có những biến động lớn phụ thuộc vào những vụ thu hoạch “bội thu” hay “thất thu” của một số nước sản xuất cà phê lớn trên thế giói. Ba năm qua lượng cung luôn vượt cầu mặc dầu nhu cầu tiêu thụ quốc tế ngày một tăng, nhưng tốc độ chậm nên giá cà phê nhân xuất khẩu trên thị trường giảm mạnh, có thời kỳ dưới giá thành sản xuất, làm cho nhiều nước sản xuất cà phê lâm vào tình trạng khủng hoảng và suy thoái. Vì vậy vấn đề đặt ra là sản xuất và xuất khẩu cà phê như thế nào để đem lại hiệu quả cao nhất, bảo đảm sự bền vững của một ngành kinh tế xuất khẩu. Tổng công ty cà phê Việt Nam do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, là doanh nghiệp hạng đặc biệt, lớn nhất toàn ngành nên có vai trò quan trọng đối với sự phát triển và bền vững của một ngành hàng xuất khẩu quan trọng này. Xuất phát từ thực tế của ngành và Tổng công ty cà phê về sản xuất, xuất khẩu đang gặp nhiều khó khăn, phức tạp và sự biến động đa dạng, đang là vấn đề nhạy cảm và bức xúc được nhiều người quan tâm, nhất là trong tình hình ngành cà phê quốc tế khủng hoảng về giá cả, sản lượng. Do đó luận văn có sự nghiên cứu về chất lượng sản phẩm và xuất khẩu cà phê, đưa ra được một số giải pháp để nâng cao chất lượng và đẩy mạnh xuất khẩu, nhằm nâng cao hiệu quả, tăng giá trị và lợi nhuận, bảo đảm tính bền vững và ổn định của một ngành hàng. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, tác giả không có tham vọng đi sâu, mổ xẻ nghiên cứu từng vấn đề cụ thể mà chỉ nêu một bức tranh tổng quan về ngành cà phê. Đó là thực trạng phát triển sản xuất, xuất khẩu cà phê, những vấn đề đặt ra về nâng cao chất lượng sản phẩm và đẩy mạnh xuất khẩu của Tổng công ty cà phê Việt Nam để từ đó tìm ra những giải pháp, đề xuất giải quyết vấn đề. Cũng qua đó người viết nhằm rút ra được những bài học kinh nghiệm, những gợi ý, đề xuất giúp cho người làm công tác quản lý xuất nhập khẩu, quản lý chất lượng sản phẩm, những người làm công tác về cà phê có thêm những ý tưởng bổ ích trong công tác quản lý điều hành, có tư duy đúng, hướng đi đúng... trong hiện tại và tương lai. Đề tài được nghiên cứu qua các phương pháp tổng hợp khái quát so sánh, phân tích, dự báo trên cơ sở quan điểm chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới và trên thực tiễn tình hình của Tổng công ty Cà phê cũng như ngành cà phê Việt Nam, nhằm đạt được mục tiêu nghiên cứu của đề tài. Bố cục của đề tài gồm 3 phần chủ yếu đó là: Phần I - Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng, sản phẩm cà phê và đẩy mạnh xuất khẩu của Tổng công ty cà phê Việt Nam. Phần II – Thực trạnh phát triển sản xuất, xuất khẩu cà phê và những vấn đề đặt ra về nâng cao chất lượng sản phẩm và đẩy mạnh xuất khẩu của Tổng công ty cà phê Việt Nam. Phần III – Những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng sản phẩm cà phê và đẩy mạnh xuất khẩu của Tổng công ty cà phê Việt Nam. Phần I Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng sản phẩm và đẩy mạnh xuất khẩu của Tổng công ty cà phê ViệtNam. Một số quan điểm về chất lượng và đẩy mạnh xuất khẩu. 1. Khái niệm về chất lượng sản phẩm hàng hoá: - Chất lượng hàng hoá mang ý nghĩa rất lớn lao không chỉ trong mua bán ngoại thương mà trong tiêu dùng. Sản xuất hàng hoá, nhất là hàng hoá cho xuất khẩu có chất lượng tốt sẽ mang lại tiết kiệm rất lớn về lao động sống cũng như lao động quá khứ, tăng năng suất lao động và nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội; đẩy mạnh tiến bộ khoa học kỹ thuật và phát triển hợp tác kinh tế, hợp tác khoa học – công nghệ với nước ngoài. Chất lượng sản phẩm, hàng hoá tốt sẽ là điều kiện quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh, đưa công tác xuất khẩu đạt hiệu quả kinh tế cao. Chất lượng sản phẩm, hàng hoá là tập hợp các chỉ tiêu, các thông số kỹ thuật của sản phẩm, hàng hoá được thể hiện trong các văn bản tiêu chuẩn hoặc trong hợp đồng nhằm bảo đảm cho giá trị sử dụng của chúng trong điều kiện sản xuất và tiêu dùng nhất định. 2.Các chỉ tiêu chung đánh giá chất lượng sản phẩm hàng hóa . - Để đánh giá chất lượng hàng hoá, sản phẩm ta phải dùng các chỉ tiêu chất lượng. Chỉ tiêu chất lượng là những đặc trưng về số lượng của các tính chất phù hợp với mức chất lượng củasản phẩm, hàng hóa tức là phù hợp với mức độ hữu ích của giá trị sử dụng đó. Những hàng hoá khác nhau được đặc trưng bởi những chỉ tiêu chất lượng khác nhau. Các chỉ tiêu này đã được qui định bởi các tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn nhà nước, tiêu chuẩn ngành, tiêu chuẩn địa phương, tiêu chuẩn xí nghiệp hoặc nếu sản phẩm hàng hoá nào đó chưa được các tiêu chuẩn qui định thì chất lượng của chúng được thoả thuận trong các hợp đồng mua bán hàng hoá. Chẳng hạn như cà phê nhân xuất khẩu, tiêu chuẩn được qui định theo tiêu chuẩn ngành: TCVN bằng các chỉ số về kích cỡ hạt trên sàng, các lỗi về hạt bị nâu, sâu, đen, teo, lép, bạc mầu, về tạp chất, độ ẩm, hương vị v.v… Sản phẩm hàng hoá xuất khẩu yêu cầu chất lượng phải đạt được là phù hợp với công dụng của nó, phù hợp với yêu cầu của người tiêu dùng. Cà phê là mặt hàng xuất khẩu chủ yếu do đó sản xuất phải phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng ở mỗi nước, mỗi khu vực nhất là với cà phê thành phẩm như cà phê sữa, cà phê tan, cà phê bột, rang xay v.v... Nhu cầu của thị trường nước ngoài là mục đích của việc sản xuất hàng hoá xuất khẩu. Do đó phải nhằm đáp ứng cho được nhu cầu về số lượng, chất lượng. Chúng ta bán cái thị trưòng cần chứ không bán cái ta có. Do đó sản xuất phải bảo đảm được các chỉ tiêu,tức là làm cho hàng hoá phù hợp với công dụng của nó,bảo đảm tiện dùng, an toàn, vệ sinh thực phẩm v..v… Hàng hoá xuất khẩu phải bảo đảm tính thẩm mỹ cao, tính kinh tế. 3. Quan điểm về nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá và đẩy mạnh xuất khẩu trong tình hình hiện nay: - Hiện nay Đảng và Nhà nước ta chủ trương mở cửa, hội nhập quốc tế và khu vực đa phương hoá và đa dạng hoá trong quan hệ quốc tế. Phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước, mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài. Từ nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ V đã chỉ rõ: “ Trong toàn bộ hoạt động kinh tế, một nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược của toàn Đảng, toàn dân ta là ra sức tăng xuất khẩu để nhập khẩu” (1). Đại hội Đảng lần thứ VIII đã xác định “Đẩy mạnh xuất khẩu coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại. Tạo thêm các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Nâng sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu trên thị trường” (2). Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 – 2010 đã xác định: “Phát triển sản xuất và chế biến các loại nông sản hàng hoá xuất khẩu có lợi thế của từng vùng, với quy mô hợp lý, tập trung nâng cao chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh của các sản phẩm này (như lúa gạo, thuỷ sản, cà phê, hạt điều, hồ tiêu…) trên thị trường trong nước và quốc tế” (3). Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi trọng công tác xuất khẩu khai thác mọi tiềm năng để sản xuất ra hàng hoá xuất khẩu. Đồng thời coi trọng việc nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa, nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh của các sản phẩm hàng hóa. ------------------------------------------------------------------------------------------- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V Đảng cộng sản Việt Nam – Nhà xuất bản Sự thật - Hà Nội tập 1 trang 69. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII - Nhà xuất bản chính trị quốc gia - Hà Nội 1996 trang 90. Văn kiện Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương khoá IX – Nhà xuất bản chính trị quốc gia 2002 trang 96 – 97 - Chất lượng hàng hoá tạo điều kiện cơ bản nâng cao năng lực cạnh tranh. Hiện nay khoa học và công nghệ tiến bộ nhanh chóng và được áp dụng vào sản xuất hàng hoá, do đó chất lượng hàng hoá không ngừng được nâng cao, đối mới, nâng cao năng suất lao động. Khi chất lượng hàng hoá thay đổi thì giá cả của hàng hoá cũng thay đổi theo. Năng lực cạnh tranh của hàng hoá là khả năng bán được hàng trên thị trường, giữ vững và mở rộng được thị trường. Các yếu tố để bảo đảm năng lực cạnh tranh là chất lượng hàng hoá, giá cả hàng hoá, điều kiện mua bán, quảng cáo v..v...Trong đó yếu tố chất lượng giữ vai trò hết sức quan trọng đối với việc củng cố mở rộng thị trường tiêu thụ. Chất lượng của hàng hoá phải phù hợp với yêu cầu của người tiêu thụ. Để củng cố và nâng cao năng lực cạnh tranh thì người sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu ví như mặt hàng cà phê phải luôn chú ý tới việc không ngừng hoàn thiện các chỉ tiêu chất lượng, nâng cao dần các chỉ tiêu chất lượng nhằm làm cho sản phẩm hàng hoá đáp ứng được một cách tối ưu và sự thoả mãn nhu cầu của nguồn mua, của thị trường. - Vần đề chất lượng hàng hóa đặc biệt phải được quan tâm trong cơ chế thị trường, trong xuất khẩu. Bước vào công cuộc đổi mới, pháp lệnh chất lượng hàng hoá năm 1990 đã được xây dựng và ban hành. Đây là văn bản pháp luật có hiệu lực tạo cơ sở pháp lý để tăng cường quản lý thống nhất của Nhà nước về chất lượng hàng hoá. Trong quá trình đổi mới, Nhà nước ta đã sửa đổi và ban hành pháp lệnh chất lượng hàng hoá năm 2000 (ngày 4 tháng 1) thay thế pháp lệnh năm1990 để phù hợp với thực tiễn đòi hỏi và yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế. Pháp lệnh đã tạo điều kiện cho việc áp dụng khoa học công nghệ làm ra những sản phẩm có chất lượng cao, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, xuất khẩu nhập khẩu, góp phần bảo vệ quyền lợi chính đáng của người sản xuất kinh doanh và người tiêu dùng. Pháp lệnh chất lượng hàng hoá đã nêu rõ mục đích là: “Để đảm bảo nâng cao chất lượng hàng hoá, hiệu quả sản xuất kinh doanh; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh và người tiêu dùng, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và lao động, bảo vệ môi trường, thúc đẩy tiến bộ khoa học và công nghệ, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước; tạo điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác kỹ thuật, kinh tế và thương mại quốc tế.” Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng chất lượng sản phẩm hàng hoá, đặc biệt là hàng hoá xuất khẩu. Vì vậy Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về chất lượng hàng hóa trong phạm vi cả nước. 4. Những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm cà phê và đẩy mạnh xuất khẩu: 4.1. Những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm cà phê: - Hiện nay cà phê xuất khẩu chủ yếu là cà phê hạt sống chiếm 85% sản lượng sản xuất ra. Cà phê thành phẩm (cà phê rang xay, bột cà phê, cà phê tan, cà phê sữa...) xuất khẩu còn rất hạn chế. Chất lượng cà phê phụ thuộc rất nhiều yếu tố. Hạt cà phê là kết quả của sự trồng trọt, chăm sóc, thu hoạch và chế biến, do đó bị chi phối bởi nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. a. Về điều kiện tự nhiên: Đất đai, khí hậu, vùng sinh thái ảnh hưởng rất lớn đến năng suất cây trồng và hàm lượng cafein trong hạt cà phê, ảnh hưởng đến kích cỡ hạt, mùi vị, độ axit... những vi lượng tạo nên hương vị và đặc điểm riêng có của cà phê. - Cà phê vối (Robusta) chủ yếu trồng ở khu vực Tây Nguyên có độ cao phù hợp so với mặt nước biển và không chịu được rét, phù hợp với vùng đất đỏ bazan, sẽ cho chất lượng tốt, năng suất cao. - Cà phê chè (Arabica) phù hợp với vùng khí hậu mát, phát triển tốt trong điều kiện nhiệt độ từ 5 – 30 độ C (thích hợp từ 15 -24 độ C) chịu được rét và trồng ở các vùng có độ cao trên 400m so với mặt nước biển. Vùng càng cao (thường là từ 800m trở lên) thì thích hợp với trồng cà phê chè và cho chất lượng cao. Các yếu tố tự nhiên như lượng mưa, độ ẩm, ánh sáng, gió, nhiệt độ, độ cao của đất canh tác, các thành phần lý hóa tính của đất, hàm lượng mùn, chất hữu cơ, độ PH. Độ phì nhiêu của đất trực tiếp ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cây cà phê, ảnh hưởng đến sự ra hoa kết trái của cây cà phê và trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng hạt cà phê (hạt to, nhỏ, mùi vị, độ đậm đặc cafein). b. Về giống cà phê: Có nhiều chủng loại giống cà phê trên thế giới, nhưng không phải giống nào cũng có thể trồng được trên đất Việt Nam. Yếu tố tự nhiên tác động rất lớn đến sự sinh trưởng và chất lượng cà phê. Hiện tại chúng ta chỉ có hai loại cà phê trồng cho năng suất sản lượng cao và chất lượng phù hợp. Đó là cà phê vối (Robusta) trồng phổ biến ở khu vực Tây Nguyên và cà phê chè (Arabica) giống Catimor cho năng suất cao và kháng bệnh rỉ sắt được trồng phổ biến ở các tỉnh phía bắc như Nghệ An, Thanh Hóa, Lạng Sơn, Lai Châu.... và một số vùng ở Lâm Đồng, Quảng Trị có độ cao phù hợp cho cà phê chè phát triển. Loại cà phê chè này chất lượng còn hạn chế không tốt như cà phê thuần chủng ở Brazil, vùng bờ biển Ngà, vùng Trung và Nam Mĩ. Vì vậy giống cà phê là yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng cà phê. Giống tốt phù hợp với vùng sinh thái sẽ cho chất lượng sản phẩm tốt. c. Về kĩ thuật canh tác trồng trọt thâm canh, chế độ chăm sóc, dinh dưỡng cho cây cà phê, vấn đề sâu bệnh cũng tác động trực tiếp đến chất lượng cà phê. d. Công tác thu hoạch, công nghệ chế biến tác động trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Đây là một trong những khâu quan trọng nhất. Vì quá trình sản xuất cà phê có giống tốt, chế độ chăm sóc thâm canh tốt, đất đai, khí hậu, môi trường sinh thái phù hợp sẽ tạo ra được năng suất, sản lượng cà phê khá cao nhưng nếu việc thu hoạch, chế biến không đảm bảo đúng qui trình qui phạm kĩ thuật thì chất lượng sản phẩm sẽ không thể tốt được. Giá trị sản phẩm hàng hóa không cao, thậm chí sản phẩm không bán được. Vì vậy nguyên tắc thu hoạch cà phê: quả chín mới được hái và chỉ hái khi quả chín; nhất là cà phê chè (Arabica). Nếu hái xanh thì không có giá trị. Kĩ thuật công nghệ chế biến phải hết sức được quan tâm, phải thực đúng qui trình qui phạm. Cà phê vối có thể phơi, sấy khô quả, nhưng cà phê chè nhất thiết phải chế biến ướt, sát quả tươi và phải được chế biến trong khoảng thời gian nhất định thì mới bảo đảm được chất lượng, hương vị của cà phê. Nếu không cà phê sẽ bị mốc, lên men, hoặc thối. g. Công tác bảo quản đóng gói bao bì vận chuyển ... cũng ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cà phê. Việc bảo quản, lưu kho, vận chuyển v..v.. phải đúng qui trình qui phạm. Việc phơi sấy giữ nhiệt độ, độ ẩm trong cà phê hết sức quan trọng. Thường là độ ẩm phải dưới 12% thì việc bảo quản cà phê mới được tốt, không bị ẩm, mốc, lên men, bạc màu, trắng bụng, biến dạng cà phê. Do đó phải chú ý kho tàng, vệ sinh công nghiệp bảo đảm đúng qui trình qui phạm trong quá trình đóng gói, vận chuyển, bảo quản v..v.... - Đối với cà phê thành phẩm như cà phê hòa tan, cà phê bột, rang xay, cà phê sữa... được chế biến từ hạt cà phê thì vấn đề chất lượng càng đòi hỏi chặt chẽ hơn vì được người tiêu thụ sử dụng ngay. Đây là đồ uống ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người. - Hạt cà phê sống là nguyên liệu cho chế biến cà phê thành phẩm. Chất lượng hạt tốt thì tạo ra sản phẩm tốt, chất lượng cao. Do đó những yếu tố tác động cho chất lượng hạt cà phê kém phẩm chất thì cũng trực tiếp làm cho sản phẩm chế biến kém chất lượng. Tuy nhiên trong chế biến cà phê thành phẩm, các yếu tố trực tiếp tác động và hết sức quan trọng để nâng cao chất lượng sản phẩm đó là khoa học và công nghệ, vệ sinh an toàn thực phẩm chế biến. Nếu thiết bị công nghệ lạc hậu thì không thể tạo ra được năng suất cao, chất lượng cao.Vệ sinh an toàn thực phẩm không tốt, không thực hiện đúng qui định... sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Sau đó vấn đề áp dụng công nghệ – khoa học kĩ thuật là vấn đề mấu chốt trong việc bảo đảm chất lượng, nâng cao chất lượng cà phê thành phẩm. 4.2. Những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến việc đẩy mạnh xuất khẩu cà phê: Có rất nhiều yếu tố khách quan, chủ quan tác động, nhưng tập trung lại có những yếu tố chính sau: a. Sản phẩm hàng hóa: Hàng hóa phải đảm bảo chất lượng cả nội dung và hình thức, giá cả phải có sức cạnh tranh, phải phù hợp với thị hiếu tạo được thương hiệu và giữ được thương hiệu đa dạng và phong phú về sản phẩm mẫu mã bao bì hàng hóa có uy tín với thị trường. Thỏa mãn được các yêu cầu của người mua đòi hỏi. ở từng vùng, từng khu vực, từng quốc gia v.v... phù hợp với thông lệ, tập quán người tiêu dùng... b. Nhà kinh doanh, xuất khẩu phải có uy tín, phải giữ được chữ tín với khách hàng, với thị trường, và hiểu biết thị trường, có mối quan hệ rộng trong nước và quốc tế tạo cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu. Tóm lại là phải có năng lực phẩm chất nghề nghiệp thực thụ trong kinh doanh xuất nhập khẩu đáp ứng được yêu cầu của cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế. c. Cơ chế chính sách của nhà nước tác động rất lớn đến xuất nhập khẩu. - Nhà nước có các cơ chế, chính sách phù hợp và khuyến khích xuất khẩu sẽ tạo điều kiện cho xuất khẩu và ngược lại nếu kìm hãm, cản trở thì không thể đẩy mạnh xuất khẩu như hàng rào thuế quan, các chính sách hỗ trợ cho xuất khẩu nhất là mặt hàng cà phê, nông lâm hải sản, vấn đề thưởng phạt trong xuất nhập khẩu v.v... - Cơ chế, chính sách của Nhà nước đối với các thị trường nhập khẩu hàng cà phê nông sản v..v... Sẽ thúc đẩy mức xuất khẩu sang các thị trường mới, đa dạng các sản phẩm hàng hóa xuất khẩu... d. Cơ chế chính sách của các thị trường (quốc gia) nhập khẩu cũng tác động mạnh mẽ đến đẩy mạnh xuất khẩu. Vấn đề hàng rào thuế quan của các thị trường này, các môi trường cho xuất nhập khẩu vào
Tài liệu liên quan