Đề tài Quan điểm giáo dục toàn diện và cách học tập toàn diện của sinh viên

Trong tình hình hiện nay, cả nước đang phấn đấu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, chúng ta cần giáo dục, trong đó giáo dục toàn diện ở bậc đại học là cực kỳ quan trọng. Xu hướng chung của nền kinh tế thế giới là toàn cầu hoá, hội nhập hoá kinh tế khu vực và thế giới với sự tác động đa mặt, đa phương, đa dạng thì chúng ta lại cần tới giáo dục toàn diện để giữ vững độc lập tự chủ, phát huy nội lực, vững vàng phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là diệu kế để tránh mọi nguy cơ bất ổn từ đâu đến, xây dựng xã hội mới, nâng cao đời sống vật chất, lối sống, bản sắc văn hoá, dân tộc và con người Việt Nam. Nhưng về chủ quan, một số sinh viên trong cơ chế thị trường đã không giữ được bản chất tốt đẹp của người Việt Nam là "Học tập vì ngày mai lập nghiệp", dẫn đến hiện tượng thực dụng trong học tập và cuộc sống, nếu không được nghiên cứu khắc phục sẽ dẫn đến tác hại khôn lường. Vì vậy, với vai trò là tinh hoa của đất nước, là thế hệ tương lai, để đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của tổ quốc, sinh viên phải học tập toàn diện, đưa mình thành con người toàn diện phục vụ cho tiến trình phát triển của dân tộc. Vì tầm quan trọng của nó nên chúng tôi quyết định chọn đề tài này để nghiên cứu, nhằm tìm hiểu thực trạng và đưa ra một số giải pháp trong quá trình học tập toàn diện của sinh viên.

doc23 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1411 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quan điểm giáo dục toàn diện và cách học tập toàn diện của sinh viên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài: Quan điểm giáo dục toàn diện và cách học tập toàn diện của sinh viên Mở Đầu Trong tình hình hiện nay, cả nước đang phấn đấu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, chúng ta cần giáo dục, trong đó giáo dục toàn diện ở bậc đại học là cực kỳ quan trọng. Xu hướng chung của nền kinh tế thế giới là toàn cầu hoá, hội nhập hoá kinh tế khu vực và thế giới với sự tác động đa mặt, đa phương, đa dạng thì chúng ta lại cần tới giáo dục toàn diện để giữ vững độc lập tự chủ, phát huy nội lực, vững vàng phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là diệu kế để tránh mọi nguy cơ bất ổn từ đâu đến, xây dựng xã hội mới, nâng cao đời sống vật chất, lối sống, bản sắc văn hoá, dân tộc và con người Việt Nam. Nhưng về chủ quan, một số sinh viên trong cơ chế thị trường đã không giữ được bản chất tốt đẹp của người Việt Nam là "Học tập vì ngày mai lập nghiệp", dẫn đến hiện tượng thực dụng trong học tập và cuộc sống, nếu không được nghiên cứu khắc phục sẽ dẫn đến tác hại khôn lường... Vì vậy, với vai trò là tinh hoa của đất nước, là thế hệ tương lai, để đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của tổ quốc, sinh viên phải học tập toàn diện, đưa mình thành con người toàn diện phục vụ cho tiến trình phát triển của dân tộc. Vì tầm quan trọng của nó nên chúng tôi quyết định chọn đề tài này để nghiên cứu, nhằm tìm hiểu thực trạng và đưa ra một số giải pháp trong quá trình học tập toàn diện của sinh viên. Nội Dung I - Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện. 1. Khái niệm. Theo chủ nghĩa duy vật biện chứmg đã chỉ rõ, quan điểm toàn diện là khi xem xét phân tích bất kỳ hiện tượng, sự vật nào thì chúng ta phải xem xét tất cả các mặt bộ phận, yếu tố, các mối quan hệ của chúng, thậm chí cả những khâu trung gian của chúng, xem chúng là cơ sở, là căn cứ đầy đủ để từ đó rút ra được bản chất của sự vật, hiện tượng. Từ việc hiểu bản chất của sự vật, hiện tượng đó, phải quy lại, giải thích được các mối quan hệ khác rồi liên kết chúng lại thành một hệ thống hoàn chỉnh. Chỉ đến khi đó chủ thể mới hiểu thấu đáo sự vật, hiện tượng. Đồng thời, nhận thức là một quá trình biện chứng đi từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính, chúng ta nhận thức được rõ sự vật, hiện tượng trong cả thực tế lẫn lý luận, không thiên về mình lý luận hay thực tế, phải đặt sự vật, hiện tượng trong điều kiện tồn tại cụ thể của nó để xem xét toàn diện. Thế giới khách quan được tạo thành từ vô số vật, hiện tượng, những quá trình khác nhau. Vậy giữa chúng có mối quan hệ qua lại với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt lập tách rời nhau. Nếu chúng tồn tại trong sự liên hệ qua lại, thì nhân tố gì quyết định sự liên hệ đó ? Trả lời câu hỏi trên có hai quan điểm trái ngược nhau. Thứ nhất là quan điểm siêu hình: Xem xét các sự vật hiện tượng trên thế giới khách quan tách rời nhau, cái nào riêng cái ấy, cái này bên cạnh cái kia, hết cái này đến cái khác, giữa chúng không có sự phụ thuộc, ràng buộc lẫn nhau hoặc nếu có thì chỉ là sự quy định lẫn nhau một cách giản đơn bên ngoài. Thứ hai là phép biện chứng duy vật: Xem xét mọi sự vật, hiện tượnglà những biểu hiện cụ thể của thế giới vật chất, thống nhất ở tính vật chất vốn có, nên chúng luôn luôn có liên hệ chằng chịt với nhau. Khái niệm "liên hệ" phán ánh sự phụ thuộc, ràng buộc lẫn nhau, làm điều kiện tiền đề cho nhau và quy định lẫn nhau của mọi sự vật hiện tượng. "Khái niệm "liên hệ" còn phán ánh sự tác động qua lại giữa chúng. Đó là kiểu liên hệ đặc biệt mà trong đó các sự vật, hiện tượng là đối tượng biến đổi của nhau một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, nhờ đó mà sự vận động biến hoá của thế giới được thực hiện thường xuyên, liên tục." (Triết học Mác - Lênin - Nhà xuất bản chính trị quốc gia 1995 - tr55). Không những các sự vật, hiện tượng liên hệ với nhau, mà các yếu tố, các bộ phận cấu thành sự vật hiện tượng cũng liên hệ với nhau, không những các giai đoạn trong một quá trình mà cả các quá trình trước và các quá trình sau trong sự vận động phát triển của thế giới nói chung và của từng sự vật, hiện tượng nói cũng liên hệ với nhau, không chỉ trong tự nhiên mà cả trong lĩnh vực đời sống xã hội và tinh thần, mọi sự vật hiện tượng cũng luôn luôn liên hệ, tác động qua lại với nhau chúng ta không thể tìm thấy ở bất cứ nơi nào, ở bất cứ thời gian nào, ở bất cứ lĩnh vực nào có những sự vật hiện tượng tồn tại một cách hoàn toàn riêng rẽ cô lập. Sự liên hệ đó là tính khách quan và phổ biến của sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan. Hiện nay, dưới ánh sáng của khoa học hiện đại chúng ta thấy rõ hơn yếu tố quyết định hình thức tồn tại của sự vật, hiện tượng ở một dạng cụ thể nào đó là ở cách thức liên hệ với nhau của các yếu tố các bộ phận cấu thành sự vật, hiện tượng đó. Còn yếu tố quyết định sự biến đổi quyết định sự biến đổi của các sự vật, hiện tượng là sự tác động qua lại giữa các yếu tố, các bộ phận cấu thành nó, mà chủ yếu là sự liên hệ tác động qua lại giữa các mặt đối lập. Mặt khác, bản thân sự tồn tại của các sự vật, hiện tượng cùng với sự liên hê tác động qua lại giữa chúng là cơ sở hiện thực để các sự vật hiện tượng quy định lẫn nhau, phân biệt lẫn nhau. Hơn nữa, những thuộc tính vốn có của sự vật hiện tượng chỉ được bộc lộ ra khi các sự vật, hiện tượng liên hệ, tác động qua lại với nhau. Tuỳ theo diện (rộng hay hẹp) và mức độ (nông hay sâu) của sự liên hệ, tác động mà bản chất của sự vật hiện tượng được bộc lộ ra như thế nào. Chỉ có trên cơ sở như vậy, con người mới có thể ngày càng nhận thức được bản chất sâu sắc của sự vật hiện tượng cùng với sự đa dạng, muôn hình, muôn vẻ, sinh động và vô cùng vô tận của thế giới vật chất. Trong thế giới khách quan, có vô vàn các mối liên hệ. Chúng rất đa dạng và giữ những vai trò, vị trí khác nhau trong sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Có mối liên hệ bên ngoài, có mối liên hệ bên trong. Có mối liên hệ chủ yếu, có mối liên hệ thứ yếu, có mối liên hệ chung bao quát toàn bộ thế giới, có mối liên hệ bao quát một số lĩnh vực hoặc một lĩnh vực riêng biệt của thế giới đó. Có mối liên hệ trực tiếp, có mối liên hệ gián tiếp mà trong đó sự tác động qua lại được thực hiện thông qua một hay một số khâu trung gian. Có mối liên hệ tất yếu, có mối liên hệ ngẫu nhiên có mối liên hệ giữa các mặt khác nhau của cùng một sự vật. Sự vật, hiện tượng nào cũng vận động và phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau tạo thành lịch sử phát triển hiện thực của các sự vật và các quá trình tương ứng. Tuỳ theo sự tác động của đối tượng mà có mối liên hệ thuận chiều hay ngược chiều v.v... Như vậy, sự liên hệ, tác động qua lại của các sự vật hiện tượng không những là vô cùng, vô tận mà còn phức tạp, nhất là trong lĩnh vực xã hội, tính chất phức tạp của sự liên hệ, tác động qua lại được nhân lên do sự đan xen, chồng chéo, chằng chịt lẫn nhau của vô vàn hoạt động có mục đích, có ý thức của con người. Chính vì thế, mà tạo ra nhiều nhiễu loạn che mờ bản chất của sự vật hiện tượng xã hội, ngây khó khăn cho nhận thức con người. Nhưng mặt khác, tổng hợp các quan điểm của các mối liên hệ xã hội lại tạo thành những khuynh hướng tất yếu, chúng là cơ sở để con người nhận thức và vận dụng các quy luật xã hội. Trong tính đa dạng của các hình thức và các loại liên hệ tồn tại trong tự nhiên, trong xã hội và tư duy con người, phép biện chứng duy vật tập trung nghiên cứu những loại liên hệ chung mang tính phổ biến. Những hình thức và những kiểu liên hệ riêng biệt trong các bộ phận khác nhau của thế giới là đối tượng nghiên cứu của các khoa học khác nhau. Từ đó, ta thấy rằng cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện là mối liên hệ phổ biến mọi sự vật, hiện tượng đều có mối quan hệ qua lại, tác động hỗ trợ cho nhau, đều có mối liên hệ phổ biến. Vì vậy, xậy dựng quan điểm toàn diện trong việc nhận thức, xem xét các sự vật và hiện tượng cũng như là hoạt động thực tiễn giúp ta nhìn toàn diện về sự vật, hiện tượng. 2 Nội dung của quan điểm toàn diện: Với tư cách là một nguyên tắc phương pháp luận trong việc nhận thức các sự vật và hiện tượng, quan điểm toàn diện đòi hỏi để có được nhận thức đúng đắn về sự vật chúng ta phải xem xét nó không chỉ ở ngay trong bản thân nó, mà còn trong sự liên hệ tác động qua lại với các sự vật, hiện tượng khác nghĩa là phải tính đến ”tổng hoà những quan hệ muôn vẻ của sự vật ấy với những sự vật khác” (Lê nin - toàn tập Nhà xuất bản Tiến bộ Matxcơva -1981, tr29), Lê nin ghi nhận “Muốn thực sự hiểu được sự vật cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự vật đó ”(sđd tr42). Nhưng để không tự mâu thuẫn Lê nin chỉ rõ rằng “chúng ta không thể làm được điều đó một cách hoàn toàn đầy đủ, nhưng sự cần thiết phải xét tất cả mọi mặt sẽ đề phòng cho chúng ta khỏi phạm phải sai lầm cứng nhắc”( sđd tr-384). Điều đó có nghĩa là trong một thời điểm nhất định, chúng ta không thể nắm được tất cả các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng, nhưng dù sao cần phải tuân theo yêu cầu đó, chủ thể nghiên cứu cần phải sưu tầm lượng thông tin về đối tượng ở mức độ nhiều nhất có thể có được và như vậy sẽ tránh được những sai lầm. Ăng-ghen viết “tất cả thế giới mà chúng ta có thể nghiên cứu được là một hệ thống, một tập hợp gồm các sự vật khăng khít với nhau việc các vật thể ấy đều có liên hệ qua lại với nhau đã có nghĩa là các vật thể này tác động lẫn nhau, và sự tác động qua lại ấy chính là sự vận động”. (Ph Ăng-ghen: Biện chứng của tự nhiên, Nhà xuất bản sự thật Hà Nội, 1971, tr94 ). Tuy nhiên, xem xét toàn diện các mối liên hệ của sự vật không phải là xem xét một cách dàn trải, đồng loạt như nhau mà phải đánh giá đúng vị trí, vai trò cuả từng mối liên hệ. Từ trong tổng số những mối liên hệ ấy, trước hết phải rút ra được những mối liên hệ cơ bản, chủ yếu - những mối liên hệ cố định bản chất và phương pháp và động, phát triển của sự vật đang chi phối những mối liên hệ khác, và do đó, cho phép thống nhất tất cả các mối liên hệ của sự vật thành một hệ thống hoàn chỉnh. ở đây, từ yêu cầu xem xét toàn diện chuyển thành yêu cầu xem xét có trọng tâm, trọng điểm. Nhờ đó mà nhận thức được bản chất của sự vật. Sau khi vạch rõ được mối liên hệ cơ bản, chủ yếu, chủ thể phải xuất phát từ mối liên hệ ấy để giải thích các mối liên hệ khác của sự vật. Như thế là từ việc xem xét có trọng tâm, trọng điểm lại chuyển thành việc lý giải toàn diện vật. Nhưng đến đây, tính toàn diện đã khác hẳn: nếu trước đây tất cả các mối liên hệ được xem xét cái này bên cạnh cái kia, có vai trò như là căn cứ đầy đủ để từ đó rút ra được một cách chính xác mối liên hệ cơ bản , vì bây giờ chúng được xem xét trong mối liên hệ cơ bản, bảo đảm tính đồng bộ trong việc nhận thức và giải quyết những mâu thuẫn của sự vật, thúc đẩy sự vật phát triển. Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi phải chống lại cách xem xét phiến diện , siêu hình, chỉ thấy một mặt mà không thấy nhiều mặt. Cách xem xét như vậy sẽ không nhận thức được bản chất của sự vật một cách đúng đắn. Nguyên tắc toàn diện hoàn toàn khác xa và đối lập vói chủ nghĩa chiết trung và thuật nguỵ biện. Vì chủ nghĩa chiết trung thì chú ý đến nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật, nhưng lại không biết rút ra mặt bản chất, mối liên hệ chủ yếu nên dẫn đấn xem xét sự vật một cách tràn lan, cào bằng. Còn thuật ngụy biện lại xuyên tạc mối liên hệ toàn diện và tính chất mềm dẻo, linh hoạt của các khái niệm, phạm trù. Lê nin viết “ tính linh hoạt đó áp dụng một cách chủ quan bằng chủ nghĩa chiết trung và ngụy biện.” ( sđd t29 tr118). Tuy nhiên, mọi sự vật đều tồn tại trong không gian, thời gian nhất định và mang dấu ấn không gian , thơì gian đó. Do vậy, chúng ta cần có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét giải quyết mọi vấn đề do thực tiễn đặt ra. Vận dụng quan điểm này, đòi hỏi chúng ta phải chú ý đúng mức lịch sử cụ thể đã làm phát sinh vấn đề đó, tới sự ra đời và phát triển tới bối cảnh hiện thực (cả khách quan lẫn chủ quan) của một quan điểm, một học thuyết vì không thể có sự vật , hiện tượng đúng trong mọi điều kiện lịch sử khác nhau . Tóm lại, muốn đánh giá đúng tình hình, muốn nhận thức được bản chất của sự vật và giải quyết tốt mọi công việc, chúng ta phải quán triệt quan điểm toàn diện. Đó là phương pháp nhận thức khoa học. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật chính là cơ sở lý luận của phương pháp nhận thức và hành động khoa học đó. II. Đường lối giáo dục toàn diện ở nước ta. Trong nhiều thập kỷ qua, Đảng ta luôn coi trọng sự nghiệp giáo dục và đào tạo, chăm lo đến việc “trồng người ”, “vì lợi ích trăm năm ”của đất nước dân tộc. Hơn 50 năm qua, ngành giáo dục và đào tạo đã góp phần chủ yếu vào việc nâng cao dân trí đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Gần đây, văn kiện Đại hội VIII lại khẳng định rằng cùng với khoa học và công nghệ giáo dục và đào tạo phải được xem là quốc sách hàng đầu; giáo dục và đào tạo là chìa khoá vàng để mở cửa tiến vào tương lai. Lịch sử Việt Nam từ xưa đã chứnh minh, dân tộc ta là một dân tộc hiếu học, thông minh nhạy cảm với cái mới bất kể từ đâu đến và biến nó thành của chính mình. Và sự nghiệp giáo dục - đào tạo của nước ta hiện nay đang tiếp tục khắc phục những khó khăn để vươn lên đào tạo ra được những con người toàn diện, có chiều sâu về trí tuệ, có bề dầy về kiến thức, nhân phẩm, năng lực nhằm đáp ứng nhu cầu con người trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá nước nhà. Ngày 3/9/1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra nhiệm vụ cho toàn dân ta “chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm” (Phạm Văn Đồng - Bàn về giáo dục - đào tạo Nhà xuất bản chính trị quốc gia, 1999, tr13). Điều đáng nói lên ở đây là Bác để việc chống giặc dốt sau giặc đói nhưng trước giặc ngoại xâm. Sau đó, tháng 1/1946 trả lời các nhà báo Hồ Chí Minh lại nói “làm sao cho nước ta được độc lập, dân tộc ta hoàn toàn được tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” (Phạm Văn Đồng - bàn về giáo dục đào tạo - Nhà xuất bản chính trị quốc gia, 1999, tr14). Nhân dịp khai giảng năm học của chế độ mới (9/1945) trong một bức thư gửi cho học sinh Bác Hồ nói “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm Châu được hay không là nhờ phần lớn công lao học tập của các cháu” (Phạm Văn Đồng - Bàn về giáo dục - đào tạo Nhà xuất bản chính trị quốc gia, 1999, tr16). Tiếp theo những tư tưởng đúng đắn của Hồ Chí Minh, dân tộc ta đi lên từ trong đống tro tàn, đổ nát của chiến tranh, vẫn xác định giáo dục và đào tạo là nhiệm vụ hạng đầu, cấp thiết trong phát triển toàn diện đất nước. Và vấn đề đó được thực hiện một cách triệt để trong đường lối giáo dục toàn diện của nước ta, nhất là sau Đại hội VIII của Đảng và nghị quyết TW 04 về Giáo dục - Đào tạo. Trong lời khai mạc hội nghị TW 04, Tổng bí thư Đỗ Mười đã nói: “Cùng với việc tạo ra nguồn lực vật chất và nguồn lực tài chính và để phát triển nguồn lực con người, thì điều quan trọng nhất của Việt Nam là tạo ra khả năng lao động ở trình độ mới cao hơn trước đây” (Phấn đấu tạo bước chuyển biến cơ bản về giáo dục - Hà Nội, 1993, tr9) và xác định “giáo dục là cơ sở hạ tầng xã hội” (Nghị quyết TW 04 trong ngành Giáo dục - Đào tạo Hà Nội, 1993, tr19). Nước ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong phạm vi cả nước đòi hỏi sự phát triển tương ứng của giáo dục và đào tạo, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài. Những đòi hỏi này là tất yếu và chính đáng, bởi đó là quan điểm đào tạo nên con người toàn diện cho toàn xã hội, cho mục tiêu phát triển kinh tế, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Yếu tố con người là yếu tố hàng đầu của mọi mục tiêu xã hội. Đó là yếu tố quyết định, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn lực của cải vật chất và văn hoá, mọi nền văn minh của các quốc gia. Phải xuất phát từ tinh thần nhân văn xâu sắc, nhằm phát triển con người toàn diện, xây dựng một xã hội công bằng, nhân ái, thiết lập quan hệ thật sự tốt đẹp và tiến bộ giữa con người với con người trong sản xuất và trong đời sống, để từ đó làm tăng gấp bội hiệu quả kinh tế và xã hội. Con người phát triển cao về trí tuệ cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phải quán triệt việc chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy yếu tố con người. Song “ chúng ta phải làm từng bước vững chắc không thể nóng vội, trái tim có thể rất nóng, đầy tia sáng, song cái đầu thì phải lạnh, nghĩa là phải tỉnh táo thận trọng, biết tính toán và cân đối nhiều mặt, từ đó mới có sự phát triển đi lên đúng hướng, vững vàng và mạnh mẽ ” ( phấn đấu tạo bước chuyển cơ bản về giáo dục Hà Nội, 1993, tr13). Do đó, để bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ nhất thiết phải từng bước hiện đại hoá đất nước và đời sống xã hôị. Chúng ta thường đề cao tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội, nhưng tính ưu việt ấy không thể do ai đưa đến, không thể tự nhiên mà có. Đó là kết quả những nỗ lực vược bậc, bền bỉ của nhân dân ta, cả về khả năng lao động về tính tích cực chính trị - xã hội, đạo đức tình cảm trong sáng. Cần hiểu rằng chỉ có thể tăng trưởng nguồn lực con người khi quá trình hiện đại hoá các ngành giáo dục, văn hoá văn nghệ, bảo vệ sức khỏe gắn liền với việc kế thừa và phát huy truyền thống, vừa phát triển, vừa hoà nhập chứ không hoà tan. a. Trong những năm vừa qua, mặc dù có nhiều khó khăn nhưng ngành giáo dục - đào tạo đã đặt được những thành tựu khá rực rỡ. Hệ thống giáo dục quốc dân từ mầm non đến đại học được xác lập, mạng lưới trường học phát triển rộng khẳp trong cả nước. Giáo dục mầm non đã từng bước được khôi phục sau sự tan rã của việc xuất hiện cơ chế thị trường, sách giáo khoa giáo dục phổ thông được thống nhất. Công tác phổ cập tiểu học có nhiều tiến bộ. Hệ thống trường chuyên lớp chọn tuy không còn duy trì, nhưng chất lượng đào tạo ở phổ thông vẫn tăng cao và toàn diện về mọi mặt. Ngành dạy nghề đã trở thành một bộ phận quan trọng của hệ thống giáo dục quốc dân, bao gồm các trường dạy nghề chính quy và không chính quy. Ngành đại học và trung học chuyên nghiệp đã bắt đầu tổ chức lại quá trình đào tạo, đa dạng hoá phương thức đào tạo. Công tác sau đại học đẩy mạnh, công tác quản lý giáo dục đã và đang đổi mới và hoàn thiện. Kết cấu cơ sở hạ tầng, khoa học kỹ thuật được nâng cấp và phát triển đầy đủ. Những kết quả đạt được trên đây của ngàh giáo dục - đào tạo thể hiện sự nổ lực của đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục, sự cố gắng của học sinh, sinh viên, sự lãnh đạo quản lý của các cấp uỷ đảng, chính quyền các đoàn thể và sự đóng góp to lớn của nhân dân. b. Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển của đất nước, nền giáo dục của ta còn nhiều yếu kém. Nhiệm vụ bồi dưỡng nhân tài chưa được chú trọng đúng mức. Chất lượng và hiệu quả giáo dục còn thấp. Trình độ văn hoá, nghề nghiệp, năng lực thực hành, hiểu biết về xã hội, nhân văn của học sinh, sinh viên còn yếu, kể cả về chính trị, xã hội. Thể lực học sinh, sinh viên giảm sút. Số học sinh sinh viên khá, giỏi và xuất sắc có tăng lên, nhưng học sinh yếu kém, chất lượng thấp lại tăng nhanh hơn. Con người được đào tạo thường thiếu năng động, chậm thích nghi với nền kinh tế - xã hội đang đổi mới. Sinh viên tốt nghiệp thường khó tìm việc làm. “Quy mô giáo dục nhỏ bé, nhất là vùng sâu, vùng xa. Đại bộ phận đội ngũ giáo viên chưa được đào tạo và bồi dưỡng tốt, bất cập với yêu cầu toàn diện của giáo dục. Đời sống giáo viên thiếu thốn, truyền thống tôn sư trọng đạo bị phai mòn. Cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân còn bất hợp lý. Cơ sở vật chất cho giáo dục còn nghèo nàn lạc hậu ” ( Trần Hồng Quân - Thực trạng và giải pháp cho giáo dục và đào tạo - bài viết tại Đại hội TW4). Công tác quản lý chưa hợp lý, chuyển biến chậm, sự phân công, phân cấp trách nhiệm, quyền hạn giữa các ngành, các cấp chưa hợp lý, sử dụng nguồi vốn cho giáo dục thiếu hiệu quả. c. Nguyên nhân chủ yếu của thực trạng yếu kém và giảm sút nói trên là: - Bản thân ngành giáo dục chậm đổi mới về cơ cấu hệ thống, mục tiêu, nội dung và phương pháp, c
Tài liệu liên quan