Đề tài Quản lý rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính-Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam

Nước ta đang trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới, vì vậy chúng ta phải không ngừng đổi mới và phát triển chính mình. Với việc gia nhập WTO, nhu cầu về vốn kinh doanh của các doanh nghiệp càng tăng cao, đặc biệt là nhu cầu đổi mới trang thiết bị, máy móc của các doanh nghiệp để tăng quy mô, trình độ sản xuất, chất lượng sản phẩm, năng lực cạnh tranh.

doc87 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1517 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản lý rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính-Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BIDV- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. CTTC- Cho thuê tài chính. Cty- Công ty. Phòng QLRR- Phòng Quản lý rủi ro. Phòng QHKH-Phòng Quan hệ khách hàng. Phòng QTTD-Phòng Quản trị tín dụng. DPRR- Dự phòng rủi ro. DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ Bảng 2.1: Dư nợ cho thuê 2006-2008 Bảng 2.2: Cơ cấu dư nợ cho thuê theo loại hình doanh nghiệp 2006-2008 Bảng 2.3: Thị phần của các Công ty cho thuê tài chính hội viên Hiệp hội Cho thuê tài chính Việt Nam năm 2008 Bảng 2.4: Dư nợ cho thuê và nợ quá hạn 2006-2008 Bảng 2.5: Tỷ lệ nợ quá hạn theo ngành kinh tế năm 2008 Bảng 2.6: Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu 2006-2008 Bảng 2.7: Nợ xấu của các Công ty cho thuê tài chính hội viên Hiệp hội Cho thuê tài chính Việt Nam năm 2008 Bảng 2.8: Lãi treo và tỷ lệ lãi treo 2006-2008 Bảng 2.9: Trích lập dự phòng rủi ro 2006-2008 Bảng 3.1: Nhóm chỉ tiêu về hiệu quả 2009-2010 Biểu đồ 2.1: Cho thuê tài chính nội ngành và ngoại ngành 2006-2008 Biểu đồ 2.2: Cơ cấu dư nợ theo loại hình doanh nghiệp 2006-2008 Biểu đồ 2.3: Thị phần của các công ty cho thuê tài chính hội viên Hiệp hội Cho thuê tài chính Việt Nam năm 2008. Biểu đồ 2.4: Nợ quá quá hạn 2006-2008. Sơ đồ 1.2: Cho thuê tài chính ba bên Sơ đồ 1.2: Cho thuê tài chính ba bên Sơ đồ 2.1: Mô hình tổ chức của công ty cho thuê tài chính BIDV từ tháng 11/2008 LỜI MỞ ĐẦU Nước ta đang trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới, vì vậy chúng ta phải không ngừng đổi mới và phát triển chính mình. Với việc gia nhập WTO, nhu cầu về vốn kinh doanh của các doanh nghiệp càng tăng cao, đặc biệt là nhu cầu đổi mới trang thiết bị, máy móc của các doanh nghiệp để tăng quy mô, trình độ sản xuất, chất lượng sản phẩm, năng lực cạnh tranh. Hiện nay, lượng vốn trung và dài hạn đầu tư cho các doanh nghiệp vẫn còn khiêm tốn. Kênh huy động vốn quen thuộc vẫn là đi vay vốn ngân hàng thương mại. Tuy nhiên việc đi vay vốn ngân hàng, bên cạnh những ưu điểm lâu đời của hình thức tín dụng này, các doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong tài sản đảm bảo cũng như uy tín, nhất là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong những trường hợp như vậy, một kênh huy động khác mà doanh nghiệp có thể tìm đến là các công ty cho thuê tài chính. Với những ưu điểm của mình, cho thuê tài chính tỏ ra thích hợp với những doanh nghiệp mới thành lập, có lượng vốn nhỏ. Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, ngân hàng thương mại quốc doanh lớn nhất Việt Nam với hơn 49 năm kinh nghiệm và chủ lực trong lĩnh vực đầu tư và phát triển, đơn vị anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới. Thành lập từ năm 1998, Công ty cho thuê tài chính đã có hơn 8 năm kinh nghiệm cung cấp dịch vụ thuê tài chính cho hàng trăm doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trên phạm vi cả nước với tổng số vốn tài trợ hàng ngàn tỷ đồng. Tôn chỉ hoạt động của Công ty là “Đơn giản, chất lượng và hiệu quả”. Trên thực tê hoạt động cho thuê tài chính của các Công ty cho thuê tài chính nói chung và hoạt động cho thuê tài chính của Công ty cho thuê tài chính-BIDV nói riêng, trong thời gian qua, cũng đã xuất hiện một số rủi ro như không thu được tiền thuê, tính chuyển nhượng của tài sản thuê thấp, hiệu quả của dự án không như dự tính... Do đó, để kinh doanh có hiệu quả, đảm bảo an toàn hoạt động và không ngừng phát triển, Công ty cho thuê tài chính-BIDV cần phải nhận diện, phân tích rủi ro để từ đó có các giải pháp thích hợp để giảm thiểu rủi ro, nâng cao chất lượng và an toàn hoạt động. Với suy nghĩ như thế, em đã chọn đề tài “Quản lý rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính-Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam” để làm đề tài nghiên cứu trong chuyên đề tốt nghiệp. Chuyên đề được kết cấu thành 3 chương, gồm: Chương 1: Quản lý rủi ro hoạt động cho thuê tài chính. Chương 2: Thực trạng quản lý rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Chương 3: Giải pháp nâng cao quản lý rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Chương I: Quản lý rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính. 1.1. Tổng quan về hoạt động cho thuê tài chính Cho thuê tài chính thực sự là một kênh dẫn vốn quan trọng, được đánh giá là khá hữu hiệu, tạo điều kiện thu hút vốn cho các đơn vị sản xuất kinh doanh đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Quy mô hoạt động kinh doanh cho thuê tài chính trên thế giới hiện nay phát triển khá nhanh và tăng trưởng vượt bậc qua các năm. Các sản phẩm của hình thức tín dụng này ngày càng đa dạng hơn, từ máy fax, máy photocopy, máy tính đến xe tải, máy bay, tàu thủy...Trước khi đi vào phân tích về lĩnh vực quản lý rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính, việc tìm hiều những nét tổng quan về hình thức tín dụng này sẽ giúp chúng ta có thể hiểu sâu sắc hơn. 1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển hoạt động cho thuê tài chính Hoạt động cho thuê tài chính có nguồn gốc từ việc cho thuê tải sản. Từ những năm 2800 trước Công nguyên tại thành phố Sumerian gần vịnh Ba Tư ( hiện nay thuộc Iraq ), giao dịch cho thuê tài sản đầu tiên ra đời với việc cho thuê các công cụ sản xuất nông nghiệp, súc vật kéo, ruộng đất, nhà cửa. Sau đó, vào khoản năm 1700 trước Công nguyên, vua Babylon đã ban hành nhiều văn bản quy định về cho thuê tài sản. Ở các nước có nền văn minh cổ đại như Hy Lạp, La Mã, Ai Cập, giao dịch cho thuê tài sản cũng đã xuất hiện hàng ngàn năm trước công nguyên. Người Hy Lạp cổ đại là những người đầu tiên phát triển việc cho thuê hầm mỏ. Người Hy Lạp cổ đại cũng tiên phong tạo ra khái niệm ngân hàng cho thuê. Tài sản thuộc quyền sở hữu của ngân hàng cho thuê đầu tiên được kí kết vào năm 370 trước công nguyên trong đó bao gồm tên ngân hàng, tiền kí quỹ, tên văn phòng và đội ngũ nhân viên. Đến đầu thế kỷ 19 do sự phát triển của khoa học kỹ thuật và nền kinh tế hàng hóa hoạt động thuê tài sản đã có sự thay đổi về tính chất của giao dịch và xuất hiện hình thức cho thuê tài chính đầu tiên ở Mỹ. Hoạt động cho thuê tài chính thời kỳ này đã có sự gia tăng đáng kể về số lượng, chủng loại thiết bị tài sản thuê. Những dạng hợp đồng cho thuê tài chính tạm thời bắt nguồn từ Hoa Kỳ. Công ty cho thuê tài chính đầu tiên của Hoa Kỳ United State Leasing Corporation do Henry Shoeld sáng lập vào năm 1952 Công ty đã được thành lập để phục vụ cho ngành công nghiệp vận chuyển hàng hóa bằng đường sắt. Các nước châu Âu đã nối gót thành lập những công ty cho thuê vào cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960 và có những bước phát triển mạnh mẽ ở châu Á và châu Phi từ thập niên 70. Thập niên 80 đã đánh dấu việc cho thuê tài chính được chấp nhận rộng rãi trên thế giới. Ở Việt Nam, phải đến năm 1995, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu vốn đầu tư trung và dài hạn ngày càng gia tăng, nghiệp vụ cho thuê tài chính mới bắt đầu được thực hiện dưới hình thức tín dụng thuê mua bằng việc Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ra Quyết định số 149/QĐ-NHNN ngày 27/05/1995. Theo Quyết định này, các tổ chức tín dụng được thành lập công ty trực thuộc hoặc văn phòng Tín dụng thuê mua để quản lý và giám sát hoạt động tín dụng thuê mua. Tiếp theo đó ngày 09/10/1995 Chính phủ ban hành Nghị định 64/CP quy định tạm thời về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam. Nghị định này đã là cơ sở hướng dẫn và là quyết định cho hàng loạt các Công ty Cho thuê tài chính ra đời. Mặc dù công ty cho thuê tài chính đầu tiên được thành lập ở Việt Nam vào năm 1996 và hoạt động cho thuê cũng đã manh nha ở các ngân hàng thương mại trước đó nhưng mãi đến khi Chính Phủ ban hành Nghị định 16/2001/NĐ-CP vào ngày 02/05/2001 thì hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam mới thực sự được hình thành. Mới đây nhất, chính phủ đã ban hành Nghị định số 95/2008/NĐ-CP sửa đổi và bổ sung một số điều về Nghị định 16/2001/NĐ-CP. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật này đã tạo cơ sở và điều kiện thuận lợi cho hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam. Hiện nay ở Việt Nam đang có 13 công ty cho thuê tài chính được thành lập dưới các hình thức khác nhau đang hoạt động. Trong số đó, có các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, có các doanh nghiệp dưới hình thức công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài, lại có doanh nghiệp thuộc hình thức đa sở hữu như Công ty cho thuê tài chính liên doanh. Lượng vốn cấp theo hình thức cho thuê tài chính chiếm tỷ lệ khá nhỏ so với hình thức cấp vốn của ngân hàng. Trong khi đó, với lợi thế của mình, đáng lẽ loại hình dịch vụ cho thuê tài chính phải được phát triển nhanh chóng ở Việt Nam, nơi các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang cần thu hút một lượng vốn lớn cho đầu tư cũng như cho tái đầu tư mở rộng. Dù vậy cũng phải nhìn nhận hoạt động cho thuê tài chính đã phần nào giảm sức ép và gánh nặng cho hệ thống ngân hàng thương mại trong việc cung ứng vốn đối với doanh nghiệp, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn. Các Công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam hiện nay gồm: + Các công ty cho thuê tài chính của các Ngân hàng: Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Công thương, Ngoại thương, Sài Gòn Thương Tín, Đầu tư và Phát triển Việt Nam; + Công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài gồm: Công ty cho thuê tài chính ANZ-VTRAC; Cty cho thuê tài chính Kexim và Công ty cho thuê tài chính Quốc tế Chailease; + Các loại hình khác: Công ty cho thuê tài chính Quốc tế VN (liên doanh); Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cho thuê tài chính Ngân hàng Á Châu; Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cho thuê tài chính Công nghiệp tàu thủy. 1.1.2. Khái niệm hoạt động cho thuê tài chính * Theo Ủy ban tiêu chuẩn kế toán quốc tế (IASC), một giao dịch thuê tài sản thỏa mãn một trong bốn tiêu chuẩn dưới đây đều được gọi là thuê tài chính: - Quyền sở hữu tài sản được chuyển giao khi hết hợp đồng. - Hợp đồng có quy định quyền mặc cả mua bán tài sản tại thời điểm chấm dứt hợp đồng. - Thời hạn hợp đồng bằng phần lớn thời gian hoạt động hữu dụng của tài sản. Trên cơ sở phân loại của IASC, các nước có những quy định cụ thể trong pháp luật về cho thuê tài chính dựa trên điều kiện kinh tế xã hội cụ thể của mỗi nước, có thể nhấn mạnh tiêu chuẩn này hay giảm bớt tiêu chuẩn khác nhưng về cơ bản không có điều gì mâu thuẩn với các tiêu chuẩn chung. * Ở Việt Nam, theo Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02/05/2001 của Chính phủ về “ Tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính” thì: “Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với các tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng cho thuê tài chính. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính, ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng.” Điểm khác biệt lớn giữa quan điểm về cho thuê tài chính ở Việt Nam so với trên thế giới là đối tượng cho thuê là máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác mà không áp dụng cho thuê đối với bất động sản. 1.1.3. Đặc trưng của hoạt động cho thuê tài chính - Hoạt động cho thuê tài chính phải đáp ứng được những tiêu chuẩn nhất định như Ủy ban tiêu chuẩn kế toán quốc tế (IASC) đưa ra 4 tiêu chuẩn mà bất cứ giao dịch thuê nào thỏa mãn một trong bốn tiêu chuẩn sau đều được gọi là giao dịch thuê tài chính: + Quyền sở hữu tài sản thuê được chuyển giao cho người thuê khi kết thúc hợp đồng. + Hợp đồng thuê có quy định quyền chọn mua tài sản thuê khi kết thúc hợp đồng với giá trị thấp hơn giá trị thuê tại thời điểm kết thúc hợp đồng. + Thời gian của hợp đồng thuê chiếm phần lớn thời gian sử dụng hữu ích của tài sản thuê. + Giá trị hiện tại của toàn bộ tiền thuê tối thiểu do người thuê trả tiền lớn hơn hoặc bằng giá trị thị trường của tài sản thuê tại thời điểm ký hợp đồng - Đa phần các hợp đồng cho thuê tài chính được hai bên ký kết là để đầu tư cho các tài sản thuê mới. Quyền lựa chon tài sản thuê trong các trường hợp đều thuộc về bên thuê, công ty cho thuê tài chính có nghĩa vụ phải mua đúng loại tài sản thuê mà bên thuê đã thỏa thuận hay cam kết với bên cung cấp tài sản. - Tài sản thuê tài chính phải được mua bảo hiểm vật chất đầy đủ trong suốt quá trình thuê. Phí bảo hiểm cho tài sản có thể do bên thuê hoặc bên cho thuê thanh toán và được quy định cụ thể trong hợp đồng cho thuê tài chính nhưng người hưởng thụ trong suốt quá trình thuê phải là bên cho thuê tài chính. - Hợp đồng cho thuê tài chính là hợp đồng không hủy ngang nên bên thuê không được quyền chấm dứt hợp đồng trước hạn, trừ trường hợp do lỗi của bên cho thuê hoặc bên thuê đề nghị xin chấm dứt hợp đồng trước hạn và phải được bên cho thuê đồng ý. - Thuê tài chính là một hình thức vay vốn, tài trợ vốn. Tổng số tiền thuê tài chính được trả theo một lịch thanh toán do bên cho thuê và bên thuê thỏa thuận và được quy định cụ thể trong hợp đồng cho thuê tài chính. Thông thường số tiền thuê tài chính được trả theo định kỳ nhất định mà bên thuê đề nghị. Các khoản tiền phải trả trong một kỳ bao gồm tiền gốc và tiền lãi thuê. So sánh giữa cho thuê tài chính và cho vay trung dài hạn Để các đặc trưng của hoạt động cho thuê tài chính trở nên nổi bật và dễ nhận biết, ta có thể làm phép so sánh sau: Về cơ bản, có thể coi cho thuê tài chính như một loại hình tín dụng trung và dài hạn vì nó mang những đặc trưng cơ bản của loại hình tín dụng này: - Bên cho vay (hay bên cho thuê) chuyển giao có thời hạn cho bên đi vay (hay bên đi thuê) một lượng giá trị dựa trên những cơ sở tín nhiệm. - Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay (hay cho thuê) hay nói cách khác là bên đi vay (đi thuê) phải trả thêm phần lãi ngoài vốn vay gốc. Tuy nhiên cho thuê tài chính vẫn có thể phân biệt với tín dụng trung và dài hạn thông thường của ngân hàng qua một số điểm sau: - Trong cho vay trung và dài hạn thông thường, ngân hàng tài trợ vốn bằng tiền cho khách hàng dùng số tiền đó mua tài sản phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Còn trong cho thuê tài chính, bên cho thuê tài trợ cho khách hàng trực tiếp bằng các tài sản máy móc thiết bị mà khách hàng đang cần dùng. Như vậy, tài trợ bằng cho thuê tài chính đảm bảo sử dụng đúng mục đích vốn vay hơn so với hoạt động cho vay thông thường. - Lãi suất cho thuê của cho thuê tài chính cao hơn so với lãi suất tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng, do được tính trên cơ sở lãi suất cho vay trung và dài hạn cộng với một tỷ lệ nhất định các chi phí quản lý tài sản cho thuê của bên cho thuê. - Trong giao dịch tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng phần lớn có sự tham của hai bên là người đi vay và ngân hàng, nhưng cũng có những trường hợp có sự tham gia của bên thứ ba là người bảo lãnh trong trường hợp người đi vay không đủ năng lực tài chính. Còn trong cho thuê tài chính, bên cạnh sự tham gia của bên thuê, công ty cho thuê tài chính, người bảo lãnh còn có sự tham gia rất quan trọng của một chủ thể thứ ba là các nhà cung cấp tài sản, nhưng cũng có trường hợp chỉ có hai bên tham gia trong giao dịch mua và cho thuê lại. - Trong tín dụng trung và dài hạn, người đi vay có quyền định đoạt đối với tài sản đầu tư bằng tiền vay (tài sản đó thuộc sở hữu của người vay, được thế chấp cho ngân hàng). Do đó, khi cần thu nợ thường khó khăn vì xử lý tài sản thế chấp phức tạp. Đối với cho thuê tài chính, quyền sở hữu tài sản vẫn do bên cho thuê nắm giữ và bên thuê chỉ có quyền sử dụng tài sản trong thời gian cho thuê. Vì thế bên thuê không được hạch toán vào tài sản có của mình mà chỉ được hạch toán vào tài sản ngoại bảng và tất nhiên cũng không được sử dụng làm vật bảo đảm trong tài sản thế chấp. Đồng thời, cũng nhờ vậy mà khi xảy ra tình huống xiết nợ thì điều đó dễ dàng cho công ty cho thuê tài chính để thu hồi tài sản. - Trong tín dụng trung và dài hạn, ngân hàng thường yêu cầu người vay phải có tài sản đảm bảo và kéo theo nhiều thủ tục giấy tờ. Còn trong cho thuê tài chính, tài sản vẫn thuộc sở hữu của bên cho thuê nên người thuê không bị đòi hỏi có tài sản thế chấp và nhờ đó giảm bớt một số công đoạn thủ tục, giấy tờ. 1.1.4. Phân loại hoạt động cho thuê tài chính. Việc áp dụng cho thuê tài chính có sự cải biến tùy theo điều kiện kinh tế và môi trường kinh doanh của mỗi quốc gia, nhưng sự khác biệt là không nhiều do quan hệ cho thuê hiện nay đã có mối quan hệ toàn cầu, doanh nghiệp của một nước hoàn toàn có thể sử dụng sản phẩm được thuê từ một tổ chức nước ngoài. Bên cạnh đó, các công ty cho thuê tài chính, các ngân hàng, tổ chức tài chính của các nước phát triển cũng đã thâm nhập vào các nước đang phát triển dưới hình thức thành lập công ty 100% vốn nước ngoài, mở chi nhánh hoặc liên doanh. Điều này giúp cho thuê tài chính thâm nhập sâu hơn vào các nước đang phát triển và sự khác biệt về quan điểm cho thuê tài chính giữa các quốc gia dần dần thu hẹp lại. Theo số đối tác tham gia giao dịch, cho thuê tài chính thường có hai hình thức chủ yếu sau: a, Cho thuê tài chính giản đơn (có sự tham gia của hai bên) Theo hình thức này, trước khi nghiệp vụ cho thuê xuất hiện, tài sản được dùng để tài trợ đã thuộc quyền sở hữu của người cho thuê bằng cách mua tài sản hoặc tự xây dựng. Đây là hình thức được các công ty kinh doanh bất động sản và các công ty sản xuất máy móc thiết bị thực hiện. Các tổ chức tài chính rất ít khi áp dụng hình thức tài trợ này. Bên cho thuê Bên đi thuê Ký hợp đồng thuê (1) Bàn giao tài sản thuê (2) Thanh toán tiền thuê (3) Sơ đồ 1.1: Cho thuê tài chính hai bên Bên cho thuê và bên đi thuê ký hợp đồng Bên cho thuê lập thủ tục chuyển giao quyền sử dụng và giao tài sản cho bên đi thuê Theo định kỳ bên đi thuê thanh toán tiền thuê cho bên cho thuê b, Cho thuê tài chính thông thường (có sự tham gia của 3 bên) : Theo hình thức này, có sự tham gia của ba bên là bên cho thuê, bên đi thuê và bên cung cấp. Bên thuê được quyền lựa chọn, thỏa thuận với bên cung cấp về sản phẩm. Bên cho thuê chỉ thực hiện việc mua tài sản theo yêu cầu đã được hai bên thỏa thuận trong hợp đồng của bên đi thuê. Nhà cung cấp Bên thuê Bên cho thuê (1) (3) (4) (5) (6) (2) Sơ đồ 1.2: Cho thuê tài chính ba bên Bên thuê được chủ động lựa chọn máy móc thiết bị, thỏa thuận với nhà cung cấp bằng hợp đồng hoặc bản ghi nhớ. Bên thuê – Bên cho thuê ký kết hợp đồng cho thuê tài chính trên cơ sở hồ sơ pháp lý, phương án sản xuất kinh doanh, hợp đồng mua máy móc thiết bị, kết quả thẩm định của bên cho thuê đồng ý cho thuê. Bên cho thuê – Nhà cung cấp ký kết hợp đồng mua bán máy móc thiết bị là tài sản thuê theo thỏa thuận giữa bên thê và nhà cung cấp. Nhà cung cấp giao hàng cho bên thuê, lắp đặt, chạy thử, nghiệm thu tài sản giao nhận. Bên cho thuê thanh toán tiền tiền mua tài sản thuê cho nhà cung cấp. Bên cho thuê thanh toán tiền thuê tài chính theo hợp đồng cho thuê chính. Đây là hình thức cho thuê được sử dụng phổ biến nhất, có đến 80% hợp đồng thuê tài chính trên thế giới áp dụng theo phương thức này. Các công ty cho thuê tài chính đã áp dụng phương thức này là chủ yếu để tài trợ cho doanh nghiệp, đặc biệt là đối với cho thuê thiết bị. Sở dĩ như vậy là vì, phương thức này có những ưu điểm nổi trội sau đây: Về phía bên thuê: Bên thuê được quyền lựa chọn nhà cung cấp, trực tiếp thỏa thuận, đám phán cho nhà cung cấp về những đặc tính của sản phẩm nhằm lựa chọn ra sản phẩm phù hợp nhất, thỏa mãn tối đa yêu cầu của bên thuê. Về phía bên cho thuê: Bên cho thuê không phải mua sản phẩm trước, như vậy sẽ giảm bớt những chi phí về kho bãi, hao mòn trong quá trình dữ trự và hơn nữa còn giúp quay vòng vốn nhanh hơn nhờ không phải dự trữ hàng tồn kho. Mặt khác bên thuê trực tiếp nhận sản phẩm từ nhà cung cấp, nhờ vậy bên thuê giảm được rủi ro xảy ra khi bên thuê từ chối nhận hàng do
Tài liệu liên quan