Đề tài Sự thu hút khách tham quan tại ngôi nhà Dao Họ - Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam

Trong thế kỷ 21 dân tộc và văn hoá ngày càng trở thành 2 vấn đề vừa chiến lược vừa thời sự trên phạm vi toàn thế giới cũng như trong mỗi người. Ngày nay, do sự phát triển của khoa học kỹ thuật thế giới ngày càng gần lại và nhỏ bé hơn. Nhận thức được sâu sắc vấn đề trên nên hầu trong xây dựng và phát triển kinh tế xã hội các ngành quản lý văn hoá,các nhà lãnh đạo, đội ngũ các nhà khoa học xã hội nhân văn ngày càng ý thức được rõ nét hơn vai trò của bản sắc văn hoá dân tộc trong phát triển chung của thời đại. Vậy muốn duy trì được bản sắc riêng của dân tộc mình thì các nước phải có những biện pháp chiến lược để bảo vệ bản sắc dân tộc của riêng mình, phải sử dụng nhiều loại hình, công cụ thích hợp để tuyên truyền quảng bá và giáo dục làm cho các tầng lớp dân cư trong và ngoài nước hiểu và biết trân trọng bản sắc văn hoá của đất nước Việt Nam.Trong bối cảnh đó Bảo tàng với tư cách là một loại hình thiết chế văn hoá đặc thù đã trở thành một trong những công cụ hữu hiệu để thể hiện mục tiêu nói trên. Giống như nhiều điểm du lịch thú vị của Việt Nam, Bảo tàng DTH ngày càng thu hút đông đảo khách du lịch đến thăm quan và nghiên cứu. Sự gia tăng về số lượng khách giúp cho doanh thu của Bảo tàng ngày một tăng. Do đó đòi hỏi về chất lương phục vụ khách tham quan của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam ngày một tốt hơn. Vì vậy, vấn đề chất lượng phục vụ khách tham quan ra sao, phải làm thế nào để có những điều kiện tốt nhất đáp ứng được những yêu cầu của du khách, đó là những công việc cần có sự nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo đòi hỏi đội ngũ cán bộ nhân viên bảo tàng nói chung và cán bộ các ngôi nhà tại khu trưng bày ngoài trời nói riêng cần quan tâm và tìm hiểu.

doc23 trang | Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1383 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sự thu hút khách tham quan tại ngôi nhà Dao Họ - Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong thế kỷ 21 dân tộc và văn hoá ngày càng trở thành 2 vấn đề vừa chiến lược vừa thời sự trên phạm vi toàn thế giới cũng như trong mỗi người. Ngày nay, do sự phát triển của khoa học kỹ thuật thế giới ngày càng gần lại và nhỏ bé hơn. Nhận thức được sâu sắc vấn đề trên nên hầu trong xây dựng và phát triển kinh tế xã hội các ngành quản lý văn hoá,các nhà lãnh đạo, đội ngũ các nhà khoa học xã hội nhân văn ngày càng ý thức được rõ nét hơn vai trò của bản sắc văn hoá dân tộc trong phát triển chung của thời đại. Vậy muốn duy trì được bản sắc riêng của dân tộc mình thì các nước phải có những biện pháp chiến lược để bảo vệ bản sắc dân tộc của riêng mình, phải sử dụng nhiều loại hình, công cụ thích hợp để tuyên truyền quảng bá và giáo dục làm cho các tầng lớp dân cư trong và ngoài nước hiểu và biết trân trọng bản sắc văn hoá của đất nước Việt Nam.Trong bối cảnh đó Bảo tàng với tư cách là một loại hình thiết chế văn hoá đặc thù đã trở thành một trong những công cụ hữu hiệu để thể hiện mục tiêu nói trên. Giống như nhiều điểm du lịch thú vị của Việt Nam, Bảo tàng DTH ngày càng thu hút đông đảo khách du lịch đến thăm quan và nghiên cứu. Sự gia tăng về số lượng khách giúp cho doanh thu của Bảo tàng ngày một tăng. Do đó đòi hỏi về chất lương phục vụ khách tham quan của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam ngày một tốt hơn. Vì vậy, vấn đề chất lượng phục vụ khách tham quan ra sao, phải làm thế nào để có những điều kiện tốt nhất đáp ứng được những yêu cầu của du khách, đó là những công việc cần có sự nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo đòi hỏi đội ngũ cán bộ nhân viên bảo tàng nói chung và cán bộ các ngôi nhà tại khu trưng bày ngoài trời nói riêng cần quan tâm và tìm hiểu. Xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn bằng những kiến thức cơ bản về chuyên ngành quản lý văn hoá đã được trang bị từ nhà trường, bước đầu nghiên cứu qua những công việc thực tế tại khu trưng bày ngoài trời của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.Tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: "Sự thu hút khách tham quan tại ngôi nhà Dao Họ - Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam". 2. Đối tượng nghiên cứu Ngôi nhà của người Dao họ trong việc thu hút thăm quan tại BTNT của Bảo tàng dân tộc học Việt Nam. 3. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu về vấn đề thu hút khách tham quan tại ngôi nhà Dao họ - Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam để thấy được thực trạng của vấn đề này tại BT ngoài trời của Bảo tàng, để từ đó thấy được tình hình khách thăm quan và có những biện pháp nhằm tăng thêm nữa số lượng du khách cũng như nâng cao chất lượng phục vụ khách tham quan. 4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp như so sánh. - Phân tích tổng hợp thống kê tài liệu. - Phương pháp nghiên cứu khảo sát và phỏng vấn lấy ý kiến của khách tham quan… 5. Đóng góp của đề tài Nội dung trình bày trong đề tài nhằm cung cấp những thông tin về Bảo tàng những thông tin về sự thu hút khách liên quan đến ngôi nhà của người Dao họ để từ đó thấy được tình hình khách thăm quan cũng như những đòi hỏi đặt ra đối với ngôi nhà trong việc thu hút khách. 6. Bố cục của đề tài Ngoài phần mở đầu và kết luận đề tài chia làm 3 chương. Chương I. Giới thiệu chung về Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam Chương II. Sự thu hút khách thăm quan tại ngôi nhà Dao họ - Bảo tàng ngoài trời, Bảo tàng DTHVN Chương III. Hiện trạng và giải pháp cho ngôi nhà Dao họ - BTDTHVN. Chương I GIỚI THIỆU CHUNG VỀ BẢO TÀNG DÂN TỘC HỌC VIỆT NAM 1.1. Vài nét về BTDTHVN Nước ta có 54 dân tộc và hiện nay việc tổ chức nghiên cứu bảo vệ di sản văn hoá của từng dân tộc là nhiệm vụ quan trọng của nhiều ngành khoa học. Nghiên cứu, bảo vệ các di sản ấy không chỉ mang ý nghĩa kế thừa những tinh hoá văn hoá, phát huy sức mạnh của nó nhằm phục vụ cho sự phát triển đất nước, củng cố tinh thần đoàn kết giữa các dân tộc và giới thiệu bản sắc văn hoá của Việt Nam trong nền văn hoá chung của nhân loại. 54 dân tộc là 54 nền văn hóa riêng biệt. Cái vốn quý giá ấy tạo cho dân tộc Việt Nam một sắc thái riêng, đó là niềm tự hào và cũng là cơ sở để chống lại nguy cơ đồng hoá văn hoá, bởi "Sự đồng hoá dân tộc bằng văn hoá là sự tiếp nối chế độ diệt chủng"… Để giúp cho mọi người hiểu được những nét văn hoá độc đáo tiêu biểu của các dân tộc trên đất nước ta bằng các hiện vật và hình ảnh sinh động, để mọi người có thể đến thăm quan tìm hiểu được thì không một nơi nào hơn Bảo tàng. Với những vấn đề trên Nhà nước đã cho xây dựng một bảo tàng về các dân tộc ở Việt Nam và công văn số 1386/V4 ngày 20/4/1981 của hội đồng Bộ trưởng cho phép tiến hành chuẩn bị đầu tư xây dựng công trình Bảo tạo dân tộc học Việt Nam. Ngày 29/1/1985 Uỷ ban kế hoạch nhà nước ra công văn 78UB/VPTT thảo luận về luận chứng kinh tế kỹ thuật của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, công văn số 1864 CVUB ngày 13/6/1985 của UBND thành phố Hà Nội thoả thuận đồng ý để viện dân tộc học xây dựng BTDTH tại xã Dịch Vọng, huyện Từ Liêm, Hà Nội, ngày 28/9/1985 công văn số 1298/VH-VP của Bộ văn hoá nêu rõ chủ trương giao cho uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam xây dựng BTDTH Việt Nam. Ngày 14/12/1987 chủ nhiệm uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam ra quyết định 333/KHXH phê duyệt luận chứng kinh tế kỹ thuật của Bảo tàng Dân tộc học. Từ đây việc đầu tư cho công trình thực sự bắt đầu. Sau đó Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng ra quyết định số 273/CT ngày 31/7/1990 về việc giao 3,27 ha để xây dựng BTDTHVN. Tuy công trình được xây dựng từ năm 1989, xong do điều kiện kinh phí có hạn nên tiến độ xây dựng bảo tàng bị chậm. Ngày 24/10/1995 thủ tướng chính phủ ra quyết định số 689 TTTG về việc thành lập BTDTHVN trên cơ sở tách Bảo tàng dân tộc học ra khỏi viện dân tộc học trực thuộc trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia. Bảo tàng này sẽ đặt trong hệ thống Bảo tàng quốc gia Việt Nam vào những tháng đầu năm 1996 về cơ bản BTDTHVN đã hòan thành cơ sở nghiên cứu hệ thống kho bảo quản hiện vật, xây xong phòng thô tầng một tại hai khu trưng bày trong nhà và hội trường. Nhân dịp hội nghị cấp cao các nước nói tiếng Pháp họp tại Hà Nội trong không khí tưng bừng của lễ khánh thành ngày 12/11/1997 Bảo tàng dân tộc học Việt Nam vinh dự được ngài tổng thống cộng hoà Pháp Jacques Rene Chirác và bà phó chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam Nguyễn Thị Bình cắt bằng khánh thành * Bảo tàng dân tộc học Việt Nam hoàn thiện với 2 khu vực chính - Khu trưng bày trong nhà: gồm hệ thống kho hiện vật gồm 2498m2 sử dụng. Mới 10 năm đến nay bảo tàng đã có được khoảng 20.000 hiện vật về văn hoá của tất cả 54 dân tộc ở Việt Nam, lượng tư liệu nghe nhìn tích luỹ được cũng không rõ, khoảng 90.000 phim âm bản (và ảnh kèm theo) hơn 3000 phim dương bản, gần 4000 băng ghi âm, hơn 1000 phim video và trên 200 đĩa CD-ROM, chưa thấy ở đâu có tư liệu đầy đủ về tất cả các dân tộc ở nước ta như BTDTHVN. Nguồn hiện vật và tư liệu vừa lớn vừa quý giá này không chỉ là cơ sở quan trọng để phục vụ cho những hoạt động khác nhau của bảo tàng mà còn góp phần tích cực và thiết thực vào sự nghiệp bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá của các dân tộc. + Khu ngoài trời gồm 2,1 ha… Bảo tàng ngoài trời là một phần không thể thiếu được của BTDTHVN một trong những thế mạnh của loại hình của Bảo tàng này là tạo cho công chúng những không gian văn hoá tiệm cận với thực tế qua đó làm cho hiện vật trưng bày có sức hấp dẫn hơn và công chúng cảm thụ sâu sắc hơn về nền văn hoá mà họ đang được tận mắt xem và tìm hiểu… Phần bảo tàng ngoài trời thực sự bắt đầu năm 1998 với công trình đầu tiên là ngôi nhà mồ người Gia Lai, trưng bày ngoài trời có thể có những mục đích khác nhau với mục đích du lịch người ta thường mô phỏng các kiến trúc truyền thống. Với mục tiêu bảo tồn di sản văn hoá, các công trình trưng bày được giữ nguyên mẫu Bảo tàng DTHVN đã chọn cách trưng bày này trong phạm vi không gian khá chật hẹp (3,30 ha), khoảng 2ha được dành cho phần trưng bày ngoài trời để phản ánh sự đa dạng văn hoá của 3 vùng môi trường sinh thái khác nhau: vùng đồng bằng và ven biển; vùng núi thấp và cao nguyên,vùng cao. Do hạn chế về không gian và diện tích, Bảo tàng chỉ có thể lựa chọn và giới thiệu một chục công trình kiến trúc của những dân tộc khác nhau ở Việt Nam. Đó là nhà sàn (Tày), nhà nửa sàn nửa trệt (Dao), nhà sàn thấp (Chăm), nhà trệt (Việt H'Mông), nhà trình trường (Hà Nhì), nhà dài của đại gia đình mẫu hệ (Êđê), nhà công cộng của làng nhà Rông (Bana), nhà mồ (Giarai, Cơtu), các ngôi nhà làm bằng chất liệu khác nhau, như gỗ, tre, nứa, hay đất nện. Mái được làm bằng vật liệu khác như lá cọ, cỏ gianh nhưng mỗi tộ người lại có cách lợp riêng gắn với mỗi ngôi nhà có các hiện vật trưng bày, thông tin về ngôi nhà và chủ nhân của nó cũng như về văn hoá mà nó đại diện, tạo cho du khách sự hiểu biết về kiến thức văn hoá tiềm ẩn trong ngôi nhà và qua từng hiện vật. Bên cạnh những công trình kiến trúc kể trên bảo tàng đã từng bước bổ sung một số công trình khác như: xưởng sản xuất (lò rèn - đúc của người H'Mông, lò rèn của người Nùng, người Việt, xưởng gốm của người Việt, các loại thuyền đại diện cho phương tiện giao thông vận chuyển. Công cụ sử dụng sức nước (cối giã gạo), Bên cạnh đó quần thể thực vật và cây bóng mát được phát triển ưu tiên giới thiệu những loại cây bản địa gắn liền với môi trường xung quanh ngôi nhà của từng dân tộc, đặc biệt Bảo tàng đang cố gắng xây dựng một vườn cây thuốc nam để truyền bá tri thức bản địa đối với việc sử dụng nguồn dược liệu thực vật. Ngoài ra còn có thuỷ đình được dựng từ năm 2002 nơi dành cho trên một chục phường rối nước ở các làng quê đồng bằng Bắc Bộ đến biểu diễn. Khu trưng bày ngoài trời ở BTDTHVN được triển khai dần từng bước trong 8 năm qua mỗi năm lại có thêm những công trình mới và những hoạt động mới, khu trưng bày này trở thành một điểm hấp dẫn đặc biệt của bảo tàng DTHVN. 1.2. Vài nét khái quát về ngôi nhà người Dao họ tại khu trưng bày ngoài trời - BTDTHVN * Vài nét về người Dao Tộc người Dao thuộc hệ ngôn ngữ Hmong – Dao, theo điều tra dân số năm 1999 thì tộc người Dao ở Việt Nam có 620538 nnhân khẩu. Họ sống rải rác ở 3 vùng khác nhau (vùng cao, vùng giữa, vùng núi thấp) nhưng tập trung đông nhất ở vùng giữa: người Dao họ có mặt ở nhiều tỉnh miền núi (Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang, Lai Châu, Yên Bái, Lào Cai, Hoà Bình đến một số tỉnh trung du (Phú Thọ, Vĩnh Phúc và cả ở miền biển (Quảng Ninh). Ở Việt Nam tộc người Dao bao gồm nhiều nhóm (Dao đỏ, Dao tiền, Dao quần chẹt, Dao quần trắng, Dao thanh y v.v…). Mỗi nhóm Dao có một số sắc thái văn hoá riêng nhất định bên cạnh những nét văn hoá truyền thống chung của cộng đồng Dao. Người Dao quan niệm cứ 3 nhà trở lên, cư trú trên cùng một khu vực nhất định thì có thể gọi là một bản, dân bản thường gồm các dòng họ khác nhau, mỗi bản có một người đứng đầu, đó là ông trưởng bản do dân bản bầu chọn. Người Dao có 3 loại hình nhà ở khác nhau: nhà sàn ở vùng thấp, nhà nửa sàn nửa đất ở vùng giữa, nhà trệt ở vùng cao. * Kết cấu và vật liệu để làm nhà Đây là ngôi nhà nửa sàn nửa đất của ông Bàn Văn Sấm ngươi Dao họ (thuộc nhóm Dao quần trắng, ở thôn Khe Mụ, xã Sơn Hà, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai. Người Dao họ ở vùng này vốn là cư dân có tập quán du canh du cư và thường dựng nhà trên đất dốc. Kiểu nhà nửa sàn nửa đất là hình ảnh về cách xử lý để tạo mặt bằng cư trú trên địa hình dốc. Nhà người Dao họ đơn giản về cấu trúc cũng như hình thức, khi làm nhà chỉ cần cái rìu, con dao, ngày nay nếu làm nhà có mộng thì họ dùng thêm đục, cưa, bào. Người Dao không có thợ làm nhà chuyên nghiệp mà mọi người trong bản đều biết làm. Nhà của người Dao họ thường 3 gian, nhiều thì 5 đến 7 gian có 2 hoặc 4 mái và luôn có 2 chái, theo quan niệm của họ nhà có số gian lẻ là của người sống có số gian chẵn là dùng để nuôi gia súc, gia cầm. Bộ sườn nhà kết cầu đơn giản, thường thì mỗi vì kèo chỉ có hai hoặc ba cột nhưng là cột ngoãm: cột, quá giang và kèo được buộc chặt vào nhau bằng dây rừng. Vách nhà dựng bằng phên nứa đan theo kiểu lóng mốt hoặc lóng đôi, do đó các mảng sáng tối được tạo ra bởi bề mặt những thanh nứa. Mái nhà thường được lợp bằng những ống tre, nứa bổ đôi cứ 1 thanh sấp thì 1 thanh ngửa úp vào nhau như kiểu lợp ngói âm dương. Mái lợp thế có thể dùng được từ 5 đến 6 năm và theo nếp cũ thì cú 2 lần thay mái (khoảng 10 đến 12 năm) họ lại chuyển đi nơi khác ở. Việc này phù hợp với khoảng thời gian du canh du cư của họ. Tre nứa dùng để làm nhà, nhất là dùng để lợp mái được chọn rất kỹ, tất cả phải là tre, nứa già, mọc trên núi cao, không bị cụt ngọn, không bị sâu, gõ vào nghe tiếng kêu đanh, nhưng lại phải chặt vào những dịp đầu hoặc cuối tháng của những tháng mùa khô, tre gỗ dùng để làm nhà khi vận chuyển phải vác chứ không được kéo. Tập quán khi chuyển nhà đi nơi khác người Dao họ thường mang theo 8 cây cột nhà - đó là những cây lõi gỗ thọ có độ bền cao không bị mối mọt, để dùng làm cột cái và cột dầm sàn cho ngôi nhà mới; nhà người Dao họ thường dựa vào sườn núi, cửa mở ra 2 đầu hối, cửa chính nhìn lên hướng dòng chảy của suối hoặc khe, cửa phụ hướng về phía đường mòn vào rừng. * Mặt bằng sinh hoạt của ngôi nhà Bên trong nhà chia làm 2 phần rõ rệt. Phần sàn (chiếm 2/5 diện tích, phần trệt (phần nền đất, chiếm 3/5 diện tích của ngôi nhà). Tại gian đầu tiên của ngôi nhà có đặt chiếc khung cửi và đó cũng là nơi để gia đình tiếp đón khách. Người Dao họ vẫn giữ được nghề dệt vải cổ truyền những khi không dùng đến họ tháo khung cửi, và cất gọn vào góc nhà. Khu vực sàn ở gian đầu nhà dành cho vợ chồng, chủ nhà cũng ở gian này họ thường để chiếc nôi của em bé và để xa quay sợi cạnh đó họ thường cất chiếc chài sau khi dùng đánh bắt cá trở về. Người Dao họ coi trọng thờ cúng tổ tiên. Ma tổ trên được thờ riêng ở từng gia đình tại nhà tộc trưởng, Bàn thờ đặt ở nền đất bao giờ cũng sát vách của gian giữa đó là nơi tôn nghiêm nhất trong nhà. Bếp là nơi đun nấu và để sưởi hàng ngày, người ta dựng 3 hòn đá để kê nồi xoong. Trên bếp là sàn (gác) bếp, dùng làm chỗ để lương thực thực phẩm có tác dụng hong sấy và giữ khô vừa tránh sâu mọt. Trên sàn giáp với vách thường để những chiếc hòm đựng quần áo, tư trang của từng thành viên trong gia đình. Sàn còn là nơi để mời cơm khách quý trong dịp tổ chức lễ cũng chay lễ cấp sắc… phần sàn cũng là chỗ nghỉ của nhiều thành phần trong gia đình. Còn ở góc gian cuối nhà có chạn bát dùng để cất bát đũa thực phẩm, và có những con dao treo cạnh tường dùng để đi rừng. Những chiếc giỏ, chiếc vợt là dụng cụ để đánh bắt cá, cũng ở gần đó có một chiếc chõ đồ xôi được làm từ một thân cây gỗ khoét rỗng. Dưới chân chạn thường để vài chiếc ống tre lấy nước ngoài suối, dùng người ta buộc dây để cầm sách cho rễ. Phần sàn ở cuối thường quây lại thành buồng, đây là buồng cô dâu. Vợ chồng mới cưới chỉ ngủ trong này 3 tối đầu trên sau đó chuyển ra ngoài như mọi thành viên khác trong gia đình, nếu nhà đông người thì vợ chồng mới ngủ hẳn trong buồng. Buồng này cũng là nơi thay quần áo của mọi người trong gia đình. Và cũng chính ở cạnh buồng này có đặt một chiếc cối làm bằng một khúc gỗ khoét hình lòng thuyền chày cũng làm từ một đoàn gỗ dùng để giã những cụm lúa cối để ở đây tiện cho việc dậy sớm của con dâu, con gái chuẩn bị bữa sáng cho cả nhà, cũng ở đây còn có một số dụng cụ như cuốc, thuổng dùng để nồi nấu rượu, rượu của người Dao họ nhẹ, 30 đến 350, hương thơm và đậm, rượu dùng cho nhu cầu hàng ngày đồng thời dùng cho các ghi lễ cúng theo phong tục. Ngoài ra người Dao họ có tục lệ làm kho lúa ở cạnh nhà ho làm theo kiểu nhà sàn có 1 cửa nhỏ đủ cho 1 người chui vào, sàn, vách mái kho đều làm từ nứa cây đập dập đan vào nhau. * Tín ngưỡng liên quan đến nhà ở - Người Dao họ quan niệm ngôi nhà không chỉ là nơi trú ngụ của người sống mà còn là nơi đi về của những linh hồn người chết hay các vị thần linh như thần đất, thần núi, các vị thánh trong tín ngưỡng mang màu sắc đạo giáo như tam thanh, tam nguyên vì thế khi dùng nhà mới thường có các nghi lễ cầu xin thần linh, việc quan trọng đầu tiên là chọn đất và mời thầy cúng xem bói tại chỗ. Thấy đốt 3 nén nhang cắm, 1 cây nứa xuống đất và cũng thổ công, ông tam đại của gia chủ,nếu đêm đó trong bản không có ai sinh đẻ, trong rừng không có tiếng hoẵng kêu hoặc không ai nhìn thấy con dúi đào đất thì mảnh đất đó ở được. Thêm nữa, ông thầy làm nhẵn một chỗ, cắm vào đó một cây cọ nhỏ, rắc gạo thành vòng tròn xung quanh rồi lấy ống nứa chụp lại và lấy đất sét bịt kín các khe hở, sáng hôm sau mở ống ra, nếu các hạt gạo vẫn còn nguyên vẹn đó là nơi đất tốt, có thể làm nhà. Người Dao họ không làm nhà vào tháng 3, tháng 9. Riêng tháng 9 kiêng cả việc làm chuồng lợn, chuồng gà, cối nước. Trong 2 tháng này thậm chí nhà đang ở bị tốc mái hoặc đổ người ta cũng chỉ che tạm để ở, không dám dựng nhà mới. Họ tin rằng nếu bất chấp điều kiêng cữ đó, những người sống trong nhà sẽ bị ốm đau bệnh tật còn gia súc gia cầm chậm lớn và hay bị chế dịch. Dựng sàn xong đêm ấy nếu ông chủ trông nhà mơ thấy điều không lành thì phải tìm chỗ khác để làm nhà "mơ thấy gặp hoẵng kêu hay gặp rắn trong rừng thì người ta cho rằng chỗ đất định ở không lành, sau này ở đó sẽ không yên (Bàn Văn Sang, 55 tuổi, Bản Khe Mụ). Khi lợp mái nhà chủ nhà phải là người phủ nóc, đối với ngôi nhà ở Bảo tàng vì dựng theo nguyên mẫu ngôi nhà Bàn Văn Sấm nên ông được chọn là chủ nhà và chịu trách nhiệm phủ nóc. Ông Sấm làm phép bằng cách đập 3 nhá dao lên mái nhà và hỏi những người đứng phía dưới "Đã tối chưa?" Người bên dưới trả lời "Tối rồi" Nếu người bên dưới trả lời chưa tối thì chủ nhà phải làm phép lần nữa xin thần linh chấp nhận. Sau khi ngôi nhà dựng xong chủ nhà và những người thợ làm nhà tổ chức nghi thức dọn lên nhà mới, họ bầy bàn thờ tam đại. Ông Sấm với cương vị chủ nhà, bước vào và cầm thêm một bó đuốc một ống bương đựng nước, một bó lúa, một quả đu đủ xanh, một quả bí đặt nơi chạn bát, rồi ông làm lễ cúng tổ tiên báo việc chuyển lên nhà mới, xin thổ công, thổ địa phù hộ cho mọi người được sống yên ổn, những lễ vật cúng theo ô Sấm "hai ý nước muối của gia đình về cuộc sống "ấm" trong nôi nhà mới. Theo tập tục người mẹ và đứa trẻ trong 45 ngày sau khi sinh không được vào nhà người khác thời gian. Kiêng cữ là 15 ngày đối với chồng của sản phụ với 1 tuần đối với người nhà của sản phụ.Người vi phạm sẽ phải bồi thường cho chủ nhà 1 con gà cùng vàng hương dể cúng tạ lỗi tổ tiên của gia đình này. * Cối giã gạo dùng sức nước Trước đây các gia đình người Dao giã gạo bằng loại cối dùng sức nước, hai chiếc cối đặt ở gần nhà người Dao họ dựng Năm 1999 và 2002 ông Trần Văn Trấn ở thôn Khe Mụ chủ nhân chiếc cối dựng năm 1999 kể lại "chiếc cối này gia đình tôi đã sử dụng từ năm 1989. Từ năm 1994 khi trong bản có máy sát gạo mọi người hầu như không sử dụng loại cối này nữa, nhiều gia đình phá bỏ hoàn toàn. Cối làm bằng loại gỗ tốt không bị mối mọt hay dùng nhất là gỗ nghiến nhưng nay do hiếm gõ nghiến nên người ta thay bằng gỗ thọ cũng như cối giã gạo bằng nước ở người Thái, tày, cối của người Dao đặt ở nơi có nước chảy hoặc phải dẫn nước từ chỗ khác về thường người ta tìm đoạn suối gần nhà người ta cho thóc vào cối rồi sau đó chỉ việc đến xúc gạo về. Chương II HOẠT ĐỘNG THU HÚT KHÁCH QUAN TẠI NGÔI NHÀ DAO HỌ - BẢO TÀNG DÂN TỘC HỌC VIỆT NAM 2.1. Tình hình hoạt động của ngôi nhà Dao họ trong những năm gần đây. Trong những năm gần đây do sự phát triển của khoa học ngày càng cao, vì thế mà đời sống của con người có phần được cải thiện ngoài nhu cầu thưởng thức các giá trị vật chất ra, giá trị tính thần cũng góp phần không nhỏ làm phong phú thêm nhu cầu của họ. Một trong những loại hình giải trí phổ biến và thu hút được đông đảo công chúng tham gia đó là hoạt động thăm quan các Bảo tàng nói chung và bảo tàng dân tộc học nói riêng. Bởi thông qua các hiện vật trực quan và các hình ảnh sinh động và đặc biệt là trực tiếp được tham gia các hoạt động trình diễn, các hoạt động đó không chỉ có ý nghĩa giải trí và tìm hiểu bản sắc văn hoá của các dân tộc, mà nó còn có ý nghĩa giáo dục tuyên truyền giới thiệu những tinh hoa văn hoá tốt đẹp tới đông đảo công chúng trong và nước. Nhận thức đầy đủ ý nghĩa và vai trò của hoạt động trên ban lãnh đạo của BTDTHVN nói chung và đặc biệt các cán bộ và nhân viên của khu trưn
Tài liệu liên quan