Đề tài Tăng cường năng lực quản lý nợ xấu tại Agribank Hải Phòng

Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, mở ra nhiều cơ hội nhưng theo đó cũng có không ít thách thức đối với nền kinh tế nói chung và thị trường Tài chính nói riêng. Thực tế thời gian vừa qua cho thấy, việc suy yếu và sụp đổ hàng loạt của hệ thống Ngân hàng trên khắp thế giới đã ảnh hưởng không nhỏ đến hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ đó xuất phát từ hậu quả do hoạt động tín dụng mang lại. Việc quản lý và kiểm soát hoạt động tín dụng của ngân hàng không tốt đã làm cho nợ xấu gia tăng, kéo theo đó là lợi nhuận suy giảm, thậm chí là thua lỗ nặng. Hoạt động kinh doanh của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam cũng đang phải đối mặt với tình hình nợ xấu ngày một gia tăng, cùng với gánh nặng từ các khoản nợ xấu còn tồn đọng trong một thời gian dài chưa xử lý được đã và đang đặt các Ngân hàng thương mại trước nguy cơ suy giảm lợi nhuận, chất lượng các khoản vay giảm sút, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng. Việc quản lý và kiểm soát nợ xấu luôn cần được nhìn nhận và thực hiện một cách nghiêm túc để đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng nói riêng và hoạt động kinh doanh nói chung đối với mỗi ngân hàng. Nằm trong hệ thống các Ngân hàng thương mại, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh Hải Phòng (Agribank Hải Phòng) đang phải đối mặt với tình hình nợ xấu gia tăng trong khi quản lý nợ xấu còn bộc lộ những hạn chế nhất định. Nhận thức được tầm quan trọng đó mà đề tài “Tăng cường năng lực quản lý nợ xấu tại Agribank Hải Phòng” đã được tác giả lựa chọn làm đề tài nghiên cứu.

doc88 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1266 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tăng cường năng lực quản lý nợ xấu tại Agribank Hải Phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài 2. Mục đích nghiên cứu 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4. Phương pháp nghiên cứu 5. Kết quả nghiên cứu 6. Kết cấu của luận văn CHƯƠNG 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1. 1 Khái quát về nợ xấu của NHTM. 1.1.1 Tổng quan về NHTM. 1.1.1.1 Khái niệm NHTM. 1.1.1.2 Hoạt động cơ bản của NHTM 1.1.2 Nợ xấu của NHTM. 1.1.2.1 Khái niệm nợ xấu 1.1.2.2 Phân loại nợ xấu 1.2 Quản lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của NHTM. 1.2.1 Khái niệm quản lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của NHTM. 1.2.2 Nội dung quản lý nợ xấu 1.2.2.1 Xây dựng chỉ tiêu về nợ xấu 1.2.2.2 Xác định nợ xấu 1.2.2.3 Xử lý nợ xấu 1.3 Nhân tố ảnh hưởng tới nợ xấu trong hoạt động cho vay của NHTM. 1.3.1 Nhân tố chủ quan 1.3.2 Nhân tố khách quan 1.4. Biện pháp và cơ sở pháp lý để xử lý nợ xấu. 1.4.1 Biện pháp xử lý 1.4.2 Cơ sở pháp lý CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NỢ XẤU TẠI AGRIBANK HẢI PHÒNG 2.1 Khái quát về Agribank Hải Phòng 2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Agribank Hải Phòng. 2.1.2 Hoạt động chủ yếu của Agribank Hải Phòng 2.1.2.1 Huy động vốn 2.1.2.2 Hoạt động tín dụng 2.1.2.3 Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ 2.2 Thực trạng quản lý nợ xấu của Agribank Hải Phòng 2.2.1 Tình hình nợ xấu của Agribank Hải Phòng giai đoạn 2008-2010 2.2.2 Thực trạng quản lý nợ xấu trong hoạt động cho vay tại Agribank Hải Phòng 2.2.2.1 Chỉ tiêu về nợ xấu 2.2.2.2 Xác định nợ xấu 2.2.2.3 Thực trạng xử lý nợ xấu 2.3 Đánh giá thực trạng quản lý nợ xấu tại Agribank Hải Phòng 2.3.1 Kết quả đạt được 2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân 2.3.2.1 Hạn chế 2.3.2.2 Nguyên nhân CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NỢ XẤU AGRIBANK HẢI PHÒNG 3.1 Định hướng hoạt động cho vay của Agribank Hải Phòng trong thời gian tới. 3.1.1 Định hướng chung 3.1.2 Một số chỉ tiêu cụ thể 3.2 Giải pháp tăng cường nợ xấu tại Agribank Hải Phòng 3.2.1 Đảm bảo chất lượng công tác chấm điểm xếp hạng tín dụng nội bộ 3.2.2 Nâng cao trình độ và vai trò của các bộ quản trị rủi ro tín dụng 3.2.3 Xây dựng hệ thống thông tin nợ xấu 3.2.4 Tăng cường kiểm tra, giám sát bảo đảm tính tuân thủ 3.2.5 Xây dựng quy trình xử lý nợ xấu khoa học, thống nhất KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ 1. Kết luận 2. Kiến nghị 2.1. Kiến nghị với Agribank Việt Nam 2.2. Kiến nghị đối với Chính phủ và các Bộ ngành liên quan 2.3. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước 2.4. Kiến nghị đối với Khách hàng PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, mở ra nhiều cơ hội nhưng theo đó cũng có không ít thách thức đối với nền kinh tế nói chung và thị trường Tài chính nói riêng. Thực tế thời gian vừa qua cho thấy, việc suy yếu và sụp đổ hàng loạt của hệ thống Ngân hàng trên khắp thế giới đã ảnh hưởng không nhỏ đến hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ đó xuất phát từ hậu quả do hoạt động tín dụng mang lại. Việc quản lý và kiểm soát hoạt động tín dụng của ngân hàng không tốt đã làm cho nợ xấu gia tăng, kéo theo đó là lợi nhuận suy giảm, thậm chí là thua lỗ nặng. Hoạt động kinh doanh của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam cũng đang phải đối mặt với tình hình nợ xấu ngày một gia tăng, cùng với gánh nặng từ các khoản nợ xấu còn tồn đọng trong một thời gian dài chưa xử lý được đã và đang đặt các Ngân hàng thương mại trước nguy cơ suy giảm lợi nhuận, chất lượng các khoản vay giảm sút, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng. Việc quản lý và kiểm soát nợ xấu luôn cần được nhìn nhận và thực hiện một cách nghiêm túc để đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng nói riêng và hoạt động kinh doanh nói chung đối với mỗi ngân hàng. Nằm trong hệ thống các Ngân hàng thương mại, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh Hải Phòng (Agribank Hải Phòng) đang phải đối mặt với tình hình nợ xấu gia tăng trong khi quản lý nợ xấu còn bộc lộ những hạn chế nhất định. Nhận thức được tầm quan trọng đó mà đề tài “Tăng cường năng lực quản lý nợ xấu tại Agribank Hải Phòng” đã được tác giả lựa chọn làm đề tài nghiên cứu. 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết về quản lý nợ xấu của ngân hàng thương mại, đánh giá thực trạng quản lý nợ xấu tại Agribank Hải Phòng để đề xuất giải pháp tăng cường quản lý nợ xấu tại Agribank Hải Phòng trong thời gian tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Quản lý nợ xấu của Ngân hàng thương mại Phạm vi nghiên cứu: Quản lý nợ xấu trong hoạt động cho vay tại Agribank Hải Phòng Thời gian nghiên cứu: Giai đoạn 2006 – 2010, vấn đề nghiên cứu trên giác độ của Ngân hàng thương mại. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học: Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp, so sánh, nghiên cứu tình huống Phương pháp lịch sử, logic. 5. Kết quả nghiên cứu Qua nghiên cứu thực trạng quản lý nợ xấu của Agribank Hải Phòng, luận văn đã chỉ ra được những mặt còn hạn chế và nguyên nhân từ đó đề xuất giải pháp để tăng cường quản lý nợ xấu, nhằm nâng cao khả năng cạnh trạnh và tính bền vững trong hoạt động cho vay của Agribank Hải Phòng trong điều kiện hiện nay và một số năm tiếp theo. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài Phần mở đầu, mục lục, danh mục bảng biểu, Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý nợ xấu của Ngân hàng thương mại Chương 2: Thực trạng quản lý nợ xấu tại Agribank Hải Phòng Chương 3: Giải pháp tăng cường quản lý nợ xấu tại Agribank Hải Phòng CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Khái quát về nợ xấu của Ngân hàng thương mại Tổng quan về Ngân hàng thương mại Khái niệm Ngân hàng thương mại Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng thương mại gắn liền với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Quá trình phát triển kinh tế là điều kiện và động lực đối với sự phát triển của Ngân hàng thương mại và Ngân hàng thương mại phát triển tạo điều kiện ngược lại thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Ban đầu, Ngân hàng được gọi là ngân hàng của những “Thợ vàng” vì nó gắn liền với nghiệp vụ đúc hoặc đổi tiền của các thợ vàng. Do lưu hành tiền tệ riêng của từng quốc gia kết hợp với việc giao thương quốc tế tạo ra nhu cầu đúc, đổi tiền trong giao dịch buôn bán tại các cửa khẩu hoặc trung tâm thương mại nơi giao thương. Những người làm nghề đúc, đổi tiền thực hiện đổi bản tệ lấy ngoại tệ và ngược lại đổi từ ngoại tệ lấy bản tệ, lợi nhuận thu được là chênh lệch giá mua bán. Đầu tiên, những nhà buôn tiền – chủ ngân hàng chỉ dùng vốn tự có của mình để cho vay, nhưng từ hoạt động thực tiễn họ đã nhận thấy rằng thường xuyên có người gửi vào và cũng có những người lấy tiền ra song tất cả họ không rút tiền cùng một lúc và đã tạo số dư tiền gửi thường xuyên ở ngân hàng. Do tính chất vô danh của tiền, nên các chủ ngân hàng đã lấy số dư tiền gửi của khách hàng để cho vay. Hoạt động này làm thay đổi cơ bản hoạt động của nhà buôn tiền - kẻ cho vay nặng lãi và trở thành hoạt động của Ngân hàng thương mại sau này. Do lợi nhuận từ việc cho vay lớn, nhiều chủ Ngân hàng đã lạm dụng ưu thế của chứng chỉ tiền gửi (lưu thông thay vàng hoặc bạc), phát hành chứng chỉ tiền gửi khống để cho vay và dẫn đến các ngân hàng mất khả năng thanh toán, phá sản. Sự sụp đổ của các Ngân hàng dẫn đến khó khăn cho những nhà buôn, bên cạnh đó lãi suất vay cao dẫn đến các nhà buôn đã tự thành lập Ngân hàng với mục đích ban đầu chủ yếu tài trợ ngắn hạn và thanh toán hộ, gắn liền với quá trình luân chuyển của tư bản thương nghiệp và Ngân hàng này được gọi là Ngân hàng thương mại. NHTM cũng thực hiện các nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng là nhận tiền gửi, thanh toán, cất giữ hộ và cho vay. Sự khác biệt cơ bản giữa NHTM và Ngân hàng thợ vàng lúc đó là NHTM chủ yếu cho vay chiết khấu thương phiếu dựa trên quá trình luân chuyển hàng hoá (các khoản phải thu) với lãi suất phải thấp hơn lợi nhuận được tạo ra do sử dụng tiền vay. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế, công nghệ đã tạo điều kiện cho hệ thống Ngân hàng phát triển đa dạng. Do quá trình tích tụ và tập trung vốn trong ngân hàng đã hình thành nên Ngân hàng cổ phần. Đồng thời tại mỗi nước trong những điều kiện khác nhau mà hình thành nên những loại hình Ngân hàng khác nhau như: Ngân hàng tiết kiệm, Ngân hàng phát triển, Ngân hàng đầu tư... Quá trình phát triển đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa vai trò của Nhà nước đối với hoạt động ngân hàng đã tạo ra các Ngân hàng sở hữu Nhà nước. Sự mở rộng hoạt động của các Ngân hàng sang các quốc gia khác đã thúc đẩy sự ra đời của Ngân hàng liên doanh và các tập đoàn Ngân hàng phát triển mạnh mẽ vào những năm cuối thế kỷ 20, tạo ra những nghiệp vụ mới như mở rộng cho vay trung - dài hạn, cho vay đầu tư bất động sản, cho vay kinh doanh chứng khoán, cho vay tiêu dùng, cho thuê tài sản …Bên cạnh đó, nhiều hình thức huy động tiền gửi cũng phát triển như tiết kiệm trả lãi cuối kỳ, đầu kỳ, theo định kỳ, tiết kiệm an sinh, tích luỹ… đồng thời nhờ có sự phát triển vượt bậc về công nghệ, trong lĩnh vực Ngân hàng nhiều dịch vụ khác cùng phát triển như rút tiền tự động qua máy ATM 24/24 giờ, bảo lãnh trong nước, mở L/C, mobile banking, internet banking... NHTM là một định chế tài chính có vai trò vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và đối với từng cộng đồng địa phương nói riêng, vậy NHTM là gì? Theo Luật các tổ chức tín dụng do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá 10 thông qua ngày 12/12/1997: Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan. Cũng theo luật này, “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. 1.1.1.2. Hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại a - Hoạt động huy động vốn Ngoài nguồn vốn tự có (huy động vốn chủ sở hữu), hoạt động huy động vốn (huy động vốn nợ) có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng thương mại trong việc tạo lập nguồn vốn để hoạt động kinh doanh. Hoạt động huy động vốn nợ của ngân hàng thương mại bao gồm: Huy động tiền gửi: Huy động theo hình thức này chủ yếu là tiền gửi của dân cư và tổ chức dưới hình thức có kỳ hạn (chủ yếu là tiền gửi tiết kiệm của dân cư, tiền gửi chờ thanh toán của tổ chức) và không kỳ hạn (tiền gửi thanh toán của tổ chức, cá nhân). Đây là nguồn vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn nợ của NHTM. Huy động từ phát hành các công cụ nợ: chủ yếu là phát hành kỳ phiếu và trái phiếu. Kỳ phiếu dùng chủ yếu huy động vốn ngắn hạn. Trái phiếu phát hành để huy động vốn trung - dài hạn. Hình thức huy động này mang tính ổn định hơn, làm tăng khả năng huy động vốn của NHTM trong thời gian ngắn và hoàn toàn chủ động trong sử dụng nguồn vốn. Huy động từ vay các NHTM: các NHTM thực hiện việc đi vay nhằm điều hoà vốn trong toàn hệ thống, tăng dự trữ, đảm bảo tốt khả năng thanh khoản của NHTM. Việc huy động vốn thông qua hình thức này thường đơn giản và nhanh gọn, có thể vay trực tiếp, vay qua Ngân hàng đại lý và khoản vay thường không có bảo đảm (nếu có thường là chứng khoán của kho bạc). Huy động từ vay Ngân hàng Trung ương: Thường là hình thức huy động cuối cùng trong hoạt động huy động vốn của NHTM, áp dụng cho việc vay để đảm bảo duy trì dự trữ bắt buộc hay thiếu hụt thanh toán. Hình thức huy động này thường làm giảm uy tín của NHTM trên thị trường. Huy động từ nợ khác: bao gồm huy động các khoản uỷ thác; tiền ký quỹ; các khoản nợ thuế chưa nộp, lương chưa trả ... đây là hình thức huy động mang tính thụ động và thường có khối lượng nhỏ không đáng kể. b- Hoạt động tín dụng Hoạt động tín dụng là hoạt động cấu thành nên tài sản có và có ý nghĩa quan trọng đối với khả năng tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng. Hoạt động tín dụng mang lại thu nhập chính cho NHTM, là hoạt động không thể thiếu làm nền tảng nhằm thu hút các dịch vụ khác cho NHTM, nhưng ngược lại đó cũng là hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro. Hoạt động tín dụng không tốt sẽ gây ảnh hưởng lớn đến tính thanh khoản, thậm chí dẫn đến sự sụp đổ của NHTM. Ngân hàng thương mại được cấp tín dụng cho tổ chức và cá nhân dưới hình thức cho vay, chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố giấy tờ có giá, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của pháp luật. c- Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ, bao gồm: Dịch vụ cung ứng các phương tiện thanh toán Dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng Dịch vụ thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc, đá quý Thực hiện dịch vụ thu hộ, chi hộ các tổ chức và cá nhân Phát triển các sản phẩm ngân hàng điện tử Các sản phẩm khác như giữ hộ tài sản, thanh toán séc... d - Các hoạt động khác Góp vốn đầu tư, mua cổ phần của doanh nghiệp, tổ chức tín dụng khác từ nguồn vốn tự có để đa dạng hoá danh mục đầu tư, hạn chế rủi ro và nâng cao hiệu quả kinh doanh Tham gia thị trường tiền tệ: Thị trường đấu giá tín phiếu kho bạc, thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường giấy tờ có giá ngắn hạn khác theo quy định của ngân hàng nhà nước Hoạt động uỷ thác và đại lý liên quan đến hoạt động ngân hàng, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của các tổ chức, cá nhân theo hợp đồng Các hoạt động khác như cho thuê két, dịch vụ cầm đồ và các dịch vụ khác theo quy định của Pháp luật. Nợ xấu của Ngân hàng thương mại . Khái niệm nợ xấu Tùy theo quan điểm và mức độ đánh giá rủi ro khác nhau mà có những khái niệm về nợ xấu khác nhau. Tuy nhiên, xét về bản chất thì nợ xấu là các khoản nợ bị suy giảm khả năng thu hồi hoặc không có khả năng thu hồi. */ Quan niệm của Ngân hàng Trung ương Châu Âu i. Nợ xấu là nợ không được thanh toán đầy đủ cho Ngân hàng, bao gồm: Những khoản nợ mà người vay khó có thể trả nợ và yêu cầu điều chỉnh lại lịch trả nợ nhưng không thanh toán được trong khoảng thời gian đã được điều chỉnh. Những khoản nợ mà giá trị tài sản bảo đảm không đủ để trả nợ hoặc tài sản bảo đảm không được chấp thuận về mặt pháp lý dẫn đến người vay không thể trả nợ Ngân hàng đầy đủ. Những khoản nợ mà Tòa án tuyên bố người vay phá sản và phần bồi hoàn cho Ngân hàng ít hơn dư nợ phải thanh toán. ii. Nợ xấu là những khoản nợ không thể thu hồi được, bao gồm: Những khoản nợ đã hết hiệu lực hoặc những khoản nợ không có đủ căn cứ đòi thanh toán từ người vay. Người vay bỏ trốn hoặc mất tích, không có tài sản giữ lại để thanh toán nợ. Những khoản nợ mà Ngân hàng không thể liên lạc được với người vay hoặc không thể tìm được người vay. Những khoản nợ mà người vay chấm dứt hoạt động kinh doanh, hoặc thanh lý tài sản, hoặc kinh doanh thua lỗ và tài sản còn lại không đủ để trả nợ. */ Quan niệm của Phòng thống kê – Liên Hợp Quốc: Một khoản nợ được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày; hoặc các khoản lãi chưa trả từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc chậm trả theo thỏa thuận; hoặc các khoản phải thanh toán đã quá hạn dưới 90 ngày nhưng có lý do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ. Quan niệm này vừa mang tính định tính vừa mang tính định lượng và được áp dụng khá phổ biến trên thế giới. */ Quan niệm của Việt Nam Kể từ sau khi Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam được ban hành, Việt Nam mới thực sự đề cập đến khái niệm về nợ xấu. Mặc dù đã dần tiếp cận với những chuẩn mực quốc tế, đề cập đến việc đánh giá các khoản nợ trên cả khía cạnh định lượng và định tính, tuy nhiên vẫn có những sự khác biệt nhất định. Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, nợ xấu được định nghĩa như sau: "Nợ xấu (NPL) là các khoản nợ thuộc các nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn), nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) quy định tại Điều 6 hoặc Điều 7 Quy định này. Theo đó, nợ xấu cũng được xác định dựa trên yếu tố định lượng (quá hạn trên 90 ngày) và yếu tố định tính (đánh giá của tổ chức tín dụng về khả năng trả nợ của khách hàng). Như đã trình bày, quan niệm về nợ xấu giữa các quốc gia và theo thông lệ quốc tế đều căn cứ trên hai yếu tố là định tính và định lượng. Tuy nhiên, các quan niệm này mới chỉ dừng lại ở việc đánh giá khoản vay thông thường trên cơ sở khả năng trả nợ hiện thời của khách hàng vay mà không đề cập đến những khoản vay đã được xử lý bằng quỹ dự phòng của tổ chức tín dụng. Những khoản nợ đã được xử lý bằng quỹ dự phòng của tổ chức tín dụng về bản chất cũng như quy định của pháp luật thì vẫn cần được theo dõi, quản lý và thu hồi. Vì vậy, theo quan niệm của tác giả: Nợ xấu là những khoản nợ phát sinh từ hoạt động cho vay không được thanh toán đầy đủ cho ngân hàng hoặc được đánh giá là không có khả năng thu hồi, bao gồm cả các khoản nợ xấu thông thường (nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5 theo Điều 7 – Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN) và các khoản nợ đã xử lý bằng quỹ dự phòng của ngân hàng được theo dõi tại ngoại bảng. . Phân loại nợ xấu Trên cơ sở đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng đối với từng khoản vay trong hiện tại và tương lai, không phân biệt khoản vay hiện tại có quá hạn hay chưa, người ta chia nợ xấu thành: Nợ xấu thông thường: đảm bảo thu hồi đầy đủ trong một khoảng thời gian nhất định. Nợ xấu khó đòi: chỉ có khả năng thu hồi được một phần hoặc thu hồi đầy đủ nhưng thời gian thu hồi kéo dài. Nợ xấu mất trắng: không có khả năng thu hồi. Căn cứ nguyên nhân có thể chia nợ xấu thành: Nợ xấu do nguyên nhân bất khả kháng: do thiên tai, do thay đổi cơ chế chính sách, ốm đau, ... Nợ xấu do lỗi của người vay: trình độ quản lý yếu kém, khả năng cạnh tranh kém dẫn đến thua lỗ trong kinh doanh; cố tình chây ỳ không trả nợ… Nợ xấu do lỗi của người cho vay: trình độ chuyên môn, nghiệp vụ kém dẫn đến không quản lý, theo dõi và phát hiện sớm sai phạm của khách hàng; thông đồng với những sai phạm của khách hàng. Căn cứ việc xử lý bằng quỹ DPRR tín dụng chia nợ xấu thành: Nợ chưa được xử lý bằng quỹ DPRR tín dụng - Nợ hạch toán nội bảng Nợ đã được xử lý bằng quỹ DPRR tín dụng - Nợ hạch toán ngoại bảng Quản lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại Khái niệm quản lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại Hoạt động cho vay của NHTM luôn chứa đựng những rủi ro và khả năng phát sinh nợ xấu là một biểu hiện rõ nhất của rủi ro tín dụng. Nợ xấu phát sinh sẽ gây hậu quả không nhỏ không chỉ đến hoạt động ngân hàng mà còn tác động đến cả nền kinh tế. Vì thế, chấp nhận rủi ro để có những biện pháp ngăn ngừa rủi ro và xử lý tổn thất là việc làm cần thiết và mang lại hiệu quả trong hoạt động tín dụng ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay nói riêng. Xuất phát từ tầm quan trọng và hậu quả mà nợ xấu có thể mang lại, việc quản lý nợ xấu luôn được các ngân hàng quan tâm và đề ra những yêu cầu cụ thể. Quản lý nợ xấu là quá trình xây dựng và thực thi các chính sách về nợ xấu nhằm đảm bảo mục tiêu an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững. Nội dung quản lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại Trong hoạt động của NHTM, xây dựng được một chính sách quản trị rủi ro từ hoạt động cho vay và thực thi tốt chính sách đó có ý nghĩa quyết định. Quản lý nợ xấu đòi hỏi các NHTM cần phải làm tốt từ việc nhận biết nợ xấu đến việc áp dụng các giải pháp xử lý nợ xấu đã phát sinh một cách hiệu quả. 1.2.2.1. Xây dựng chỉ tiêu về nợ xấu Việc xây dựng chỉ tiêu về nợ xấu có vai trò quan trọng trong quản lý nợ xấu. Chỉ tiêu về nợ xấu không chỉ giúp định hướng mà còn có tác động trực tiếp đến công tác xử lý nợ xấu phát sinh. Chỉ tiêu về nợ xấu thường được xây dựng cho một thời kỳ hoặc một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm) trên cơ sở nền kinh tế vĩ mô, quy mô tín dụng, cơ cấu ngành và đặc điểm về nguồn nhân lực của ngân hàng. Tùy điều kiện và mục tiêu cụ thể, chỉ tiêu về nợ xấu có thể được xây dựng theo hướng thắt chặt hoặc nới lỏng. Chỉ tiêu về nợ xấu cần đảm bảo các nội dung định lượng (tỷ lệ phần trăm so với tổng dư nợ,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuan van tot nghiep.doc
  • docTom tat luan van.doc
Tài liệu liên quan