Đề tài Thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn

Quảng Ninh là một trong 3 tỉnh nằm trong khu tam giác kinh tế Hà Nội – Hải Phòng- Quảng Ninh trong những năm gần đây đã có sự chuyển dịch mạnh mẽ về kinh tế, đang làm cho bộ mặt của tỉnh ngày càng đựơc cải thiện đáng kể, đời sống của người dân ngày càng được nâng cao. Nhưng bên cạnh đó thì đời sống hôn nhân gia đình lại là một vấn đề hết sức nhạy cảm và phức tạp trong đó tình trạng ly hôn ngày càng có xu hướng tăng cao do nhiều nguyên nhân khác nhau, tính chất của các vụ ly hôn ngày càng phức tạp. Điều đó có ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế và ổn định xã hội. Xuất phát từ yêu cầu thực tế đã và đang đặt ra ở địa phương, trong khuôn khổ của một chuyên đề thực tập tốt nghiệp em mong rằng sẽ nêu ra được những nét khái quát nhất về thực trạng ly hôn, cũng như là đưa ra được những giải pháp, ý kiến, quan điểm của mình nhằm hạn chế việc ly hôn trên địa bàn huyện, góp phần nhỏ bé vào việc xây dựng gia đình ấm no hạnh phúc, xây dựng xã hội tốt đẹp hơn. Với yêu cầu của một chuyên đề thực tập tốt nghiệp cuối khoá của sinh viên do vậy em kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau để có thể đánh giá được bản chất và thực trạng ly hôn, từ đó làm sáng tỏ những yêu cầu chung của đề tài, cũng như tình hình thực tế ly hôn tại địa phương. Đó là phương pháp thống kê tổng hợp, phân tích, so sánh và phương pháp logic để hoàn thành tốt đề tài em đã lựa chọn. Do lần đầu tiếp xúc việc nghiên cứu đề tài thực tập tốt nghiệp, kết hợp cả tính lý luận và thực tiễn, cùng với phạm vi nghiên cứu khá rộng, trong khi đó thời gian có hạn, nhiều nội dung chưa được đầu tư thoả đáng vì thế chất lượng chuyên đề còn nhiều hạn chế và không tránh khỏi những sai sót vì vậy em rất mong được sự quan tâm chỉ bảo của thầy cô.

doc15 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2808 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC  Trang   Phân I: GIỚI THIỆU VỀ CHUYÊN ĐỀ  2   Phần II: PHẦN THU THẬP THÔNG TIN  3   1.Khái quát quá trình tìm hiểu và thu thập thông tin  3   2. Kết quả của quá trình tìm hiểu và thu thập thông tin  4   PHẦN III. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CĂN CỨ LY HÔN ĐỂ GIẢI QUYẾT CÁC TRƯỜNG HỢP LY HÔN TẠI QUẢNG NINH  5   1. Tình hình kinh tế xã hội ở Quảng Ninh 2. Căn cứ ly hôn theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình  5    6   3. Đánh giá thực trạng ly hôn ở tỉnh Quảng Ninh  8   3.1. Thực trạng ly hôn  8   3.2. Nguyên nhân, lý do của việc ly hôn  10   Phần I.V. NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ  14   I. Nhận xét  14   II. Một số giải pháp nhằm hạn chế tình trạng ly hôn ở tỉnh Quảng Ninh  16            PHẦN I: GIỚI THIỆU VỀ CHUYÊN ĐỀ Quảng Ninh là một trong 3 tỉnh nằm trong khu tam giác kinh tế Hà Nội – Hải Phòng- Quảng Ninh trong những năm gần đây đã có sự chuyển dịch mạnh mẽ về kinh tế, đang làm cho bộ mặt của tỉnh ngày càng đựơc cải thiện đáng kể, đời sống của người dân ngày càng được nâng cao. Nhưng bên cạnh đó thì đời sống hôn nhân gia đình lại là một vấn đề hết sức nhạy cảm và phức tạp trong đó tình trạng ly hôn ngày càng có xu hướng tăng cao do nhiều nguyên nhân khác nhau, tính chất của các vụ ly hôn ngày càng phức tạp. Điều đó có ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế và ổn định xã hội. Xuất phát từ yêu cầu thực tế đã và đang đặt ra ở địa phương, trong khuôn khổ của một chuyên đề thực tập tốt nghiệp em mong rằng sẽ nêu ra được những nét khái quát nhất về thực trạng ly hôn, cũng như là đưa ra được những giải pháp, ý kiến, quan điểm của mình nhằm hạn chế việc ly hôn trên địa bàn huyện, góp phần nhỏ bé vào việc xây dựng gia đình ấm no hạnh phúc, xây dựng xã hội tốt đẹp hơn. Với yêu cầu của một chuyên đề thực tập tốt nghiệp cuối khoá của sinh viên do vậy em kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau để có thể đánh giá được bản chất và thực trạng ly hôn, từ đó làm sáng tỏ những yêu cầu chung của đề tài, cũng như tình hình thực tế ly hôn tại địa phương. Đó là phương pháp thống kê tổng hợp, phân tích, so sánh và phương pháp logic… để hoàn thành tốt đề tài em đã lựa chọn. Do lần đầu tiếp xúc việc nghiên cứu đề tài thực tập tốt nghiệp, kết hợp cả tính lý luận và thực tiễn, cùng với phạm vi nghiên cứu khá rộng, trong khi đó thời gian có hạn, nhiều nội dung chưa được đầu tư thoả đáng vì thế chất lượng chuyên đề còn nhiều hạn chế và không tránh khỏi những sai sót vì vậy em rất mong được sự quan tâm chỉ bảo của thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn! PHẦN II. QUÁ TRÌNH THU THẬP THÔNG TIN 1. Khái quát về quá trình tìm hiểu thu thập thông tin Tìm hiểu và thu thập thông tin là một việc quan trọng trong quá trình thực tập của sinh viên, bởi nó giúp cho mỗi sinh viên thêm tầm hiểu biết và phục vụ tốt nhất cho việc viết đề tài. Nhận thức được tầm quan trọng của quá trình tìm hiểu thu thập thông tin vì vậy ngay từ khi đi thực tập bản thân em đã xác định đề tài để viết báo cáo thực tập và có sự chuẩn bị cho việc thu thập thông tin, tài liệu nhằm hoàn thành tốt nhất cho việc nghiên cứu cũng như là viết đề tài thực tập tốt nghiệp mà mình đã lựa chọn. Được sự giúp đỡ của cơ quan nơi thực tập đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của lãnh đạo Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh, các Thẩm phán, Thư ký trong quá trình thực tập, trong quá trình tìm hiểu và thu thập thông tin. Vì thế mà các số liệu em trình bầy trong đề tài này mang tính sát thực. Số liệu được rút ra từ các báo cáo tháng, quý và báo cáo năm của cơ quan Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh, các số liệu được rút ra từ sổ thụ lý vụ án hôn nhân và gia đình, từ sổ theo giõi kết quả xét xử sơ thẩm các vụ án về hôn nhân gia đình của Toà án nhân dân tỉnh, từ các hồ sơ vụ án về hôn nhân gia đình trong các năm 2004-2005- 2006... Tuy nhiên các số liêu không thể đưa vào bài viết một cách thuần tuý mà còn phải thông qua quá trình xử lý thông tin, đánh giá và đưa ra được bản chất của vấn đề cầm xem xét là “Thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn để giải quyết các trường hợp ly hôn tại địa phương”. Quá trình tìm hiểu thu thập thông tin phục vụ cho việc viết chuyên đề thực tập diễn ra từ ngày đầu tiên thực tập tại Toà án và trong suốt quá trình thực tập đến khi hoàn thành chuyên đề. Trong quá trình đó như đã trình bày ở trên ngoài những thuận lợi cơ bản thì qúa trình thu thập thông tin còn gặp những khó khăn nhất định như: Những thông tin lưu trữ dưới dạng thủ công, không cụ thể và rõ ràng, số liệu không tập trung do vậy việc thống kê và thu thập thông tin còn gặp khó khăn. Nhưng với tinh thần hăng say, nhiệt tình của một sinh viên thực tập đã giúp em hoàn thành tốt quá trình thu thập và xử lý thông tin phục vụ cho việc viết chuyên đề. Để đạt kết quả trong việc xử lý các số liệu thu thập được em phải thông qua rất nhiều phương pháp khác nhau như: phương pháp phân tích, thống kê tổng hợp, đối chiếu so sánh… Xuất phát từ phương pháp luận triết học Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận chung về nhà nước và pháp luật từ đó sâu chuỗi lôgic các vấn đề lại. Ngoài ra các thông tin của bài viết này được tìm hiểu thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như: Đài, báo, sách vở… và rút ra từ gia đình, bạn bè và ý thức của bản thân. Đặc biệt bản thân em còn được cơ quan nơi thực tập tạo điều kiện cho việc thâm nhập thực tế, bằng những kinh ngiệm thực tiễn thu thập đựơc góp phần quan trọng vào việc hoàn thành đề tài này. 2. Kết qủa của quá trình tìm hiểu và thu thập thông tin. Sau một thời gian không lâu kể từ khi thực tập tại Toà án, với sự giúp đỡ tận tình của lãnh đạo Toà án, các cán bộ hướng dẫn thực tập, sự nỗ lực của bản thân trong quá trình tìm hiểu và thu thập thông tin. Kết quả thu được là rất tốt, nó thể hiện được nội dung cốt lõi của vấn đề cần ngiên cứu đó là: “Thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn để giải quyết các trường hợp ly hôn tại Quảng Ninh trong năm 2004- 2005- 2006”. Qua những số liệu em thu thập được giúp em đánh giá được thực trạng, tìm hiểu được nguyên nhân cũng như là đưa ra được những giải pháp nhằm hạn chế tình trạng ly hôn. Cụ thể những thông tin thu được thể hiện ngắn gọn ở bảng số liệu sau: 1.Công tác thụ lý và giải quyết các vụ án ly hôn năm 2004 T. lý  Giải quyết  Lý do ly hôn   1204  TĐC  ĐC  QĐCN  HG  Mâu thuẫn  N. tình  Bệnh tật không con  Ma tuý cờ bạc    62  63  446  62  324  161  63  131   2.Công tác thụ lý và xét xử vụ án ly hôn năm 2005 T. lý  Giải quyết  Lý do ly hôn   1274  TĐC  ĐC  QĐCN  HG  Mâu thuẫn  N. tình  Bệnh tật không con  Ma tuý cờ bạc    45  32  451  72  352  146  78  128   3.Công tác thụ lý và xét xử vụ án ly hôn năm 2006 T. lý  Giải quyết  Lý do ly hôn   1270  TĐC  ĐC  QĐCN  HG  Mâu thuẫn  N. tình  Bệnh tật không con  Ma tuý cờ bạc    39  28  4455  62  301  152  61  121   Như vậy toàn ngành đã thụ lý 1227 vụ, giải quyết 1212 vụ đạt 95,1% trong đó toà án tỉnh đá thụ lý 62 vụ, đã giải quyết 58 vụ, còn lại tạm đình chỉ 4vụ (Ly hôn sơ thẩm thụ lý 29 vụ, đã giải quyết 29 vụ đạt 100%; ly hôn phúc thẩm thụ lý 33 vụ, giải quyết 33 vụ đạt 100%);Toà án huyện thị thụ lý 1212 vụ giải quyết 1150 vụ đạt 94,8%. PHẦN III. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CĂN CỨ LY HÔN ĐỂ GIẢI QUYẾT CÁC TRƯỜNG HỢP LY HÔN TẠI QUẢNG NINH Đặc thù kinh tế – chính trị- xã hội của tỉnh Quảng Ninh Quảng Ninh là một tỉnh có nền kinh tế rất phát triển của khu vực kinh tế trọng điểm miền Bắc. Quảng Ninh có vị trí địa lý thuận lợi tài nguyên phong phú, có cưả khẩu Móng Cái giáp với Trung Quốc, nhiều nguồn lợi về đánh bắt thủy hải sản, du lịch, phát triển kinh tế vùng… Do vậy đời sống nhân dân tương đối được đảm bảo, có điều kiện để phát triển toàn diện về con người. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều huyện miền núi trung du, xa khu vực phát triển nên trình độ nhân thức còn lạc hậu, đời sống không được đảm bảo. 2. Căn cứ ly hôn theo quy định của luật hôn nhân và gia đình và các văn bản pháp luật có liên quan. Từ khi dành được chính quyền đến nay Đảng và nhà nước ta không ngừng chăm lo đến đời sống của gia đình nói riêng và đời sống của nhân dân nói chung. Chủ tịch Hồ Chí Minh từ rất sớm đã ban hành nhiều sắc lệnh quy định về kết hôn và các điều kiện để kết hôn, trải qua một thời gian dài nhà nước đã ban hành nhiều văn bản luật có hiệu lực pháp lý cao như luật hôn nhân và gia đình năm 1959; luật hôn nhân gia đình năm 1986 và gần đây có luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Trong đó có quy định căn cứ ly hôn cụ thể có hai căn cứ như sau: Toà án xem xét yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Toà án quyết định cho ly hôn. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Toà án tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Toà án cho ly hôn. Căn cứ ly hôn quy định tại điều 89 của luật hôn nhân và gia đình được Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn chi tiết ở điểm 8 của nghị quyết 02/2000/NQ- HĐTP ngày 23 tháng 12 năm 2000 cụ thể như sau: a. Theo quy định tại khoản 1 điều 89 thì toà án quyết định cho ly hôn nếu xét thấy tình trạng trần trọng, đời sống chung không thể kéo dài được, mục đích của hôn nhân không đạt được. - Được coi là tình trạng trầm trọng khi: Vợ chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau như người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng muốn sống ra sao thì sống, đã được bà con thân thích, họ hàng, cơ quan, tổ chức, nhắc nhở hoà giải nhiều lần. Vợ hoặc chồng luôn có hành vi ngược đãi nhau, hành hạ nhau, như hành vi thường xuyên đánh đập hoặc có hành vi khác xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của nhau, đã được bà con thân thích, họ hàng, cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, khuyên bảo, hoà giải nhiều lần. Vợ chồng không chung thuỷ với nhau như có quan hệ ngoại tình, đã được người vợ hoặc người chồng, bà con thân thích, cơ quan làng xón khuyên bảo nhưng vẫn có quan hệ ngoại tình. - Để có cơ sở xác định đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được, thì phải căn cứ vào tình trạng hiện tại của vợ chồng đã đến mức trầm trọng như hướng dẫn tại mục a của thông tư này. Nếu thực tế đã được hoà giải nhiều lần nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình, sống ly thân, bỏ mặc nhau hoặc vẫn tiếp tục có hành vi ngược đãi hành hạ, xúc phạm nhau, thì có căn cứ để nhận định rằng đời sống chung của vợ chông không thể kéo dài được. - Mục đích của hôn nhân không đạt được là không có tình nghĩa vợ Chồng, không bình đẳng về quyền và nghĩa vụ vủa vợ chồng, không tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ chồng, không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của vợ chồng, không giúp đỡ tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt. b. Theo quy định của khoản 2 điều 98 luật hôn nhân và gia đình năm 2000 trong trường hợp vợ chồng của những người bị Toà án tuyên bố mất tích và yêu cầu Toà án giải quyết cho ly hôn thực tiễn cho thấy có thể xãy ra hai trường hợp sau: - Người vợ hoặc người chồng đồng thời yêu cầu Toà án tuyên bố người vợ hoặc người chồng của mình mất tích và yêu cầu Toà án giải quyết cho ly hôn. Trong trường hợp này nếu Toà án tuyên bố người đó mất tích thì giải quyết cho ly hôn, nếu Toà án chưa đủ điều kiện tuyên bố người đó mất tích thì bác yêu cầu của người vợ hoặc người chồng. - Người vợ hoặc người chồng đã bị Toà án tuyên bố mất tích theo yêu cầu của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Sau khi bản án của Toà án tuyên bố người vợ hoặc người chồng mất tích mà có hiệu lực pháp luật thì người chồng hoặc người vợ của người đó có quyền yêu cầu xin ly hôn. Như vậy luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và nghị quyết 02/2000 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao có quy định rất rõ ràng căn cứ ly hôn, chỉ khi thoả mãn một trong hai điều kiện nêu trên thì Toà án xem xét quyết định cho ly hôn. ngoài ra pháp luật còn hạn chế ly hôn trong một số trường hợp 3. Đánh giá thực trạng ly hôn ở tỉnh Quảng Ninh 3.1. Thực trạng ly hôn Trong những năm vừa qua số vụ án về ly hôn mà Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh thụ lý và giải quyết chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng số các loại án mà Toà án tỉnh Quảng Ninh thụ lý và giải quyết. Điều đó cho thấy rằng tình trạng ly hôn ngày càng nhiều, theo thống kê trong báo cáo Hội đồng nhân dân Tỉnh Quảng Ninh ngày 08 tháng 01 năm 2004 thì số vụ án ly hôn mà Toà án tỉnh Quảng Ninh thụ lý năm 2006 là 62 vụ, đã giải quyết 58 vụ, còn lại 4 vụ đã tạm đình chỉ.Như vậy qua những số liệu nêu trên cho chúng ta thấy rằng tình trạng ly hôn trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đang ở mức đáng báo động, mặc dù năm 2006 trở lại đây số vụ án về ly hôn mà Toà án thụ lý và giải quyết giảm dần qua các năm, tuy nhiên vẫn ở mức trên 20 vụ mỗi năm, đặc biệt mấy tháng đầu năm 2006 số vụ án về ly hôn tăng đột biến gần bằng 50% vụ án về ly hôn cùng kỳ những năm trước đó. Có thể khái quát thực trạng ly hôn ở tỉnh Quảng Ninh bằng bảng số liệu và thể hiện bằng biểu đồ dưới đây. Đơn vị: Vụ  2004  2005  2006   Thụ lý  1204  1274  1270    Biểu đồ 1 Hiện trạng ly hôn ở tỉnh Quảng Ninh Quảng Ninh là một tỉnh miền núi phía Bắc có 13 huyện thị và thành phố trực thuộc tỉnh là thành phố Hạ Long nền kinh tế tương đối phát triển, đời sống nhân dân thuộc vào mức cao so với các tỉnh khác trong cả nước điều đó cho chúng ta thấy rằng mặt trái của nền kinh tế thị trường đã có tác động không nhỏ đến tình trạng ly hôn, nơi có nền kinh tế phát triển thì nhu cầu hưởng thụ cao hơn do vậy thường xuyên nảy sinh ra các hiện tượng tiêu cực trong xã hội và đó là môt nguyên nhân dẫn đến ly hôn ngày càng nhiều. Mặc dù trong những năm gần đây số vụ án về ly hôn có xu hướng giảm dần thế nhưng về tính chất của nó thì lại đáng lo ngại bởi vì: Số vụ án về ly hôn mà có vợ và chồng còn trẻ chiếm tỷ lệ lớn, đã có những vụ án ly hôn do một bên nghiện ma tuý, hoặc có những vụ án ly hôn mà chồng ngược đãi, hành hạ nhau, đặc biệt có rất nhiều vụ án ly hôn mà có con nhỏ… Điều đó đã và đang đặt ra cho các cấp,các ngành ở địa phương những vấn đề nan giải, ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của vợ chồng cũng như đời sống xã hội trong huyện. 3.2. Nguyên nhân, lý do của việc ly hôn. Các vụ án về ly hôn ở tỉnh Quảng Ninh trong những năm vừa qua cho thấy những lý do dân đến việc các cặp vợ chồng ly hôn là khác nhau, trong năm 2005-2006nguyên nhân, lý do ly hôn được thống kê ở bảng số liệu sau: Đơn vị: Vụ  Mâu thuẫn gia đình  Ngoại tình  Không con  Nghiện ma tuý  Mâu thuẫn kinh tế   2005  352  146  78  128  86   2006  301  152  61  121  83   Bảng 3 - Do mâu thuẫn vợ chồng Gia đình là tế bào của xã hội, gia đình có ấm no hạnh phúc thì xã hội mới phát triển được, thê nhưng không phải bất cứ gia đình nào cũng hạnh phúc mà trong cuộc sống nó phát sinh rất nhiều mâu thuẫn. Những vụ án năm 2005-2006 mà Toà án đã thụ lý và giải quyết thì nguyên nhân chủ yếu là do mâu thuẫn gia đình chiến hơn 80% các vụ án về ly hôn. Năm 2003 số vụ án ly hôn do mâu thuẫn gia đình, đánh đập, ngược đãi là 33 vụ chiếm 84%. Mâu thuẫn gia đình chủ yếu phát sinh do bất đồng quan điểm sống, cách suy nghĩ, sự khó khăn về kinh tế trong gia đình cũng như là các hành vi ứng xử trong gia đình. Mâu thuẫn gia đình cũng có thể xuất phát từ những xích mích, hiểu lầm, ghen tuông, sự đố kỵ nhau trong cuộc sống, từ sự thiếu hiểu biết của một bên hoặc cả hai bên về quyền và nghĩa vụ của mình đối với gia đình. Ví dụ như: Vụ ly hôn giữa nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Hà, bị đơn là anh Nguyễn Tiến Nhung. Đều trú tại tổ 7 Thị trấn Đầm Hà- Huyện Đầm Hà- Quảng Ninh, vụ án này được thụ lý ngày 28 tháng 11 năm 2003 Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xét xử theo bản án số 05/DSST ngày 16 tháng 06 năm 2004. Nguyên nhân dẫn đến ly hôn là do kinh tế gia đình khó khăn, không có vốn để làm ăn phải đi vay mượn, vợ chồng không tin tưởng nhau, dẫn đến mâu thuẫn mà hai bên không thể giải quyết được, hai bên nội ngoại cũng không khuyên bảo được dẫn tới mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Chị Hà thờ ơ lạnh nhạt với anh Nhung, anh Nhung lại có tính hay ghen, làm cho tình cảm vợ chồng không còn nữa và hai bên đã ly hôn. Theo quy định của luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì mâu thuẫn gia đình dẫn tới cuộc sống chung không thể kéo dài được, mục đích của hôn nhân không đạt được đó là một căn cứ để Toà án quyết định cho ly hôn. Để có thể giảm bớt tình trạng ly hôn do mâu thuẫn gia đình thì thiết nghĩ các cặp vợ chồng cần phải sống gắn bó, có trách nhiệm với nhau và trách nhiệm với gia đình, chăm sóc và xây dựng gia đình ấm no hạnh phúc. Trong năm 2004 trong số các vụ án về ly hôn thì có 13 vụ do mâu thuẫn gia đình chiếm 52%. Năm 2005 vụ án về ly hôn với lý do mâu thuẫn gia đình là 18/21 vụ chiếm 85,7%. Qua số liệu trên cho chúng ta thấy rằng mâu thuẫn gia đình là nguyên nhân chính dẫn tới tình trạng ly hôn ngày càng nhiều ở Quảng Ninh hiện nay. - Do một bên bỏ nhà đi Ngoài lý do ly hôn do mâu thuẫn gia đình thì các lý do khác chiếm một tỷ lệ không lớn, tuy nhiên nó đang đặt ra bức thiết cần nghiên cứu kỹ trong đó có lý do một bên bỏ nhà đi không về. Đây không phải là một nguyên nhân mới, tuy nhiên trong những năm vừa qua nó lại xuất hiện nhiều khiến người ta phải quan tâm. Đi tìm hiểu về nguyên nhân này thấy rằng Quảng Ninh là một địa bàn khá phức tạp, nền kinh tế xét trên mặt bằng chung tương đối phát triển nhưng vẫn còn đó một đại bộ phận dân cư còn sống trong tình cảnh khó khăn, thu nhập không đủ nuôi sống bản thân và gia đình trong khi đó ở các thành phố, các khu công nghiệp còn thiếu lao động… Từ đó dẫn tới một hiện tượng đi làm ăn xa lâu ngày không về, làm cho cuộc sống gia đình ngày càng phai nhạt dần, thiếu sự quan tâm đùm bọc chăm sóc lẫn nhau dẫn tới mâu thuẫn gia đình và ly hôn. Tuy nhiên không phải tất cả các vụ bỏ nhà đi là do đi làm ăn xa, mà bỏ nhà đi còn có nhiều lý do khác. Theo thống kê năm 2003 số vụ án về ly hôn do bỏ nhà đi la 6/39 vụ chiếm 15,3%. Năm 2004 7/25 vụ chiếm 28%. Ví dụ: Ngày 17 tháng 03 năm 2003 Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh thụ lý vụ án xin ly hôn giữa anh Phạm Huy Liệu và chị Phạm Thị Lợi. Đều trú tại khu 2- phường Giếng Đáy-T.P Hạ Long- Quảng Ninh. Toà án đã giải quyết theo bản án số 01/DSST ngày 12 tháng 02 năm 2004. Nguyên nhân dẫn đến ly hôn là: Vợ chồng không tin tưởng nhau, nghi ngờ lẫn nhau, kinh tế gia đình giảm sút, vợ chồng không còn quan tâm đến nhau nữa và chị Lợi đã bỏ nhà đi từ năm 2000, sau khi thụ lý vụ án này Toà án đã làm các thủ tục nhắn tin tìm chị Lợi theo luật định nhưng hết thời gian chị Lợi vẫn không có mặt, và Toà án đã giải quyết vắng mặt cho anh Liệu được ly hôn với lý do vợ bỏ nhà đi. Theo thống kê năm 2005 thì số vụ án về ly hôn với lý do bỏ nhà đi giảm xuống chỉ còn 1 vụ, so với năm 2003-2004 con số này là không đáng kể chiếm 4% tổng số vụ án về ly hôn năm 2005, bằng 0,55% số vụ án về ly hôn do mâu thuẫn gia đình. Điều đó cho thấy rằng mặc dù nó chiếm tỷ lệ nhỏ trong các nguyên nhân về ly hôn nhưng nó có xu hướng tăng trong điều kiện hiện nay. - Do ngoại tình Các nguyên nhân do một bên vợ hoặc chồng ngoại tình dẫn đến ly hôn chiếm một tỷ lệ nhỏ, năm 2003 là 1/39 vụ, năm 2004 là 1/25 vụ, năm 2005 là 1/21 vụ. Một điều đặc biệt là hầu hết các vụ ly hôn do ngoại tình thường có bị đơn là vợ, duy nhất có năm 2004 bị đơn là chồng. Điều đó cho thấy một quan niệm tồn tại lâu nay là chồng ngoại tình thì có thể chấp nhận được, còn vợ mà ngoại tình thì không chấp nhận được và hệ quả bị đơn là vợ chiếm tỷ lệ lớn. Theo thống kê năm 2002 số vụ án về ngoại tình là 6 vụ bằng 2,14% cả 6 vụ này đều có vợ là bị đơn. Ngoại tình là vấn đề rất nhạy cảm đến đời sống của vợ chồng, cũng như ảnh hưởng đến thuần phong mỹ thục của cộng đồng. Chính vì thế mà ly hôn với lý do ngoại tình thường ít hơn rất nhiều so với các lý do khác. Ví dụ: Ngày 02 tháng 04 năm 2004 Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh thụ lý vụ án về ly hôn giữa chị Bùi Thị Liên và anh Phạm Văn Thái, cả h